Chương 3 HANNAH-1.
Tháng Chín năm 1941, một cuộc kiểm tra hiệu quả của chất độc Zyklon B do LG. Farben sản xuất đã được tiến hành tại Trại tập trung Auschwitz trên chín trăm tù nhân là binh lính Liên Xô. Kết quả buổi thử nghiệm, toàn bộ chín trăm người tử vong trong vòng mười phút, từ kết quả này, chất Zyklon B được đưa vào sử dụng cho các cuộc thảm sát tập thể người Do Thái.
Ngày 20 tháng Một năm 1942, tại Hội nghị Wannsee, Chính sách diệt chủng người Do Thái* cũng như quyết định đưa toàn bộ người Do Thái tới và lao động tại các trại tập trung phía Đông được Đảng Quốc Xã và Chính phủ thông qua.
Chu thich: Tên thường gọi là “Giải pháp cuối cùng cho vấn đề Do Thái”, chỉ kế hoạch của Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ Hai, mục đích tiêu diệt một cách có hệ thống toàn bộ người Do Thái ở các vùng châu Âu do Đức Quốc Xã chiếm đóng thông qua diệt chủng.
Như vậy, các trại tập trung với tên gọi “Trại huỷ diệt” như Auschwitz II-Birkenau, Majdanek được xây dựng tại những nơi đã bị Phát xít Đức chiếm đóng trên lãnh thổ Ba Lan, toàn bộ người Do Thái trong nước Đức và những nước châu Âu đã bị Đức chiếm đều được đưa tới các trại tập trung này bằng tàu hoả.
Gia đình Janssen cũng như toàn bộ những người khác đi trên chuyến tàu không hề hay biết mình đang đi đâu và sẽ phải làm gì.
Khi ý thức chỉ còn lờ mờ, cánh tay gần như kiệt quệ vì che chở cho các con, ông Janssen bỗng nghe thấy giai điệu bài “Tiếng xuân”* của Johann Strauss* đang vang lên từ đâu đó. Ông tưởng như mình đang nghe thấy tiếng vọng từ thế giới bên kia, bỗng một tiếng ruỳnh lớn vang lên cùng với sự rung lắc dữ dội và đoàn tàu dừng lại.
Chu thich: Tên gốc tiếng Đức là “Fruhlingsstimmen”, là một điệu valse chơi cho dàn nhạc giao hưởng, thường được hát với solo giọng soprano, ra đời năm 1882 và là một tác phẩm nổi tiếng của Johann Strauss II.
Chu thich: Johann Strauss II (1825-1899) là con trai của nhạc sĩ Johann Baptist Strauss, ông là một nhà soạn nhạc người Áo thiên về nhạc nhẹ, opera và các vũ khúc.
Tất cả ùa xuống khỏi tàu như ong vỡ tổ.
“Em nghe thấy tiếng nhạc!”
“Là Strauss!”
Andrew và Hannah vui mừng khi nghe thấy tiếng nhạc.
Cho dù màn diễn tấu như bị nhấn chìm giữa tiếng của đám đông hỗn loạn, nhưng rõ ràng ngay sát gần đó, dàn nhạc đang chơi bản “Tiếng xuân”. Không rõ đó là bản nhạc chào mừng hay có ý nghĩa gì, nhưng hai đứa trẻ thấy yên tâm đôi chút. Bởi vì thứ âm nhạc ấy gắn kết với niềm hi vọng.
Thế nhưng, đó là sự hiểu lầm chỉ kéo dài trong một khoảnh khắc.
Ở sân ga, các sĩ quan chỉ huy và y sĩ đã đứng sẵn ở đó, bắt mọi người đứng thành một hàng, lần lượt hỏi tuổi và tình trạng sức khoẻ của từng người một.
“Andrew Janssen; năm tuổi.”
Andrew lí nhí trả lời, viên y sĩ chỉ lạnh lùng quay đầu ngón tay sang bên trái. Với cử chỉ lờ đờ như thể chỉ phát ra một lời thôi cũng khiến hắn thấy phiền hà, tên sĩ quan chỉ huy xếp Andrew sang hàng bên trái theo đúng chỉ thị của viên y sĩ.
“Pharmal Janssen, bảy mươi tư tuổi, huyết áp cao và luôn trong tình trạng chán chường…”
Ông chưa kịp nói hết câu thì viên y sĩ đã chỉ tay sang bên trái. Tên lính lớn tiếng quát nạt.
“Sang bên trái!”
Khi đứng vào hàng bên trái, ông ngay lập tức ôm lấy Andrew.
“Hannah Janssen, mười bốn tuổi.”
Viên y sĩ chỉ tay về bên phải.
Hannah cùng bố mẹ được phân sang hàng bên phải, bị chia cắt khỏi Andrew và ông.
Hàng bên trái gần như chỉ toàn những người bị bệnh, hoặc nói là họ bị bệnh, trẻ con, người già. Cứ chốc chốc những người này lại bị nhồi nhét lên một chiếc xe tải vận chuyển và đi mất, mỗi lần như vậy, người ta lại nghe thấy tiếng khóc xé lòng của những người mẹ bị cướp mất con thơ. Bà Janssen chứng kiến cảnh tượng ấy, cảm thấy chẳng phải chuyện tốt lành gì, bà trở nên hoảng loạn và cố túm lấy gã sĩ quan chỉ huy.
“Các người định đưa con tôi đi đâu!”
Ông Janssen níu lấy tay người vợ trông như đang muốn nhảy chồm ra ngoài.
“Mẹ, mẹ, mẹ ơi! Con sợ, con sợ lắm!”
“Andrew!”
Hannah cũng lấy hết sức bình sinh hét lên.
Tên sĩ quan bình thản nói.
“Trẻ con phải gửi ở nhà trẻ. Sẽ có ngày cả gia đình được đoàn tụ, cố chờ tới lúc đó đi.”
Cụ Pharmal nhìn bà Janssen gật đầu thật mạnh như muốn nói không có gì phải lo lắng.
Andrew bám chặt lấy cánh tay ông nội, mặt mếu máo như sắp khóc, nhìn chằm chằm về phía mẹ. Những đứa bé nhỏ hơn cả Andrew gào khóc ầm ĩ, một người phụ nữ bị cướp mất đứa con còn đỏ hỏn gục xuống, khóc rống lên như phát điên.
Vài chiếc xe chở hàng hoá tới, những người xếp hàng bên trái lần lượt bị bắt lên xe. Cũng có những đứa trẻ bị thảy lên xe như một món hàng. Khi việc đưa người lên xe kết thúc, những chiếc xe chở đoàn người tới Khu số Mười một, nơi nằm ngoài hàng rào dây thép bao quanh Trại tập trung.
Ngoài những người đã sống ở Trại tập trung vài ngày, trên xe chẳng ai hay biết mình đang bị đưa đi đâu cả.
Chỉ còn lại tiếng nhạc khoan thai thi thoảng ngân lên trong gió, như sợi tơ nhện nối những bất an cực độ với niềm hi vọng mong manh, giữ lại trái tim và tâm hồn những con người trên chuyến xe ở lại với thế giới này.
Nhưng chẳng tới ba mươi phút sau, những con người ấy hoá thành làn khói tro xám xịt nhuộm kín bầu trời Auschwitz.
Mọi chuyện diễn ra chuẩn xác, đúng quy trình và đơn giản giống như một công đoạn trong băng chuyền sản xuất của một nhà máy. Khi khói tan đi chút ít, đoàn người tiếp theo lại được đưa tới nơi, vậy nên bầu trời Auschwitz không có nổi một ngày quang đãng.
2.Vợ chồng Janssen và Hannah vẫn tin rằng một ngày không xa sẽ được gặp lại Andrew và ông.
Nhóm những người trẻ tuổi và khoẻ mạnh túm tụm lại trước cổng trại Auschwitz II-Birkenau sau khi điểm danh xong. Trước cổng vào Trại tập trung có treo một biển hiệu lớn với dòng chữ “Lao động là con đường dẫn đến tự do” cứ như thật. Nhưng cũng chẳng tốn mấy thời gian, người ta nhận ra câu đó thực chất phải là “Lao động là con đường dẫn tới cái chết”.
Trong hàng rào dây thép gai hai lớp là hơn hai mươi nhà trại hai tầng bằng gỗ và bằng đá đứng liền kề nhau. Trong lúc những người mới tới đang chờ người ta phán quyết xem mình phải ở đâu, dàn nhạc tù nhân ăn mặc chỉnh tề bắt đầu xếp thành hàng ở lối đi vào trại. Khi dàn nhạc diễn tấu lần lượt từ các bản nhạc nhẹ nhàng cho đến các bài đồng dao Đức cũng là lúc những người lao động đã bị vắt kiệt sức lực và tinh thần lê bước trở về.
Có người vừa về tới cổng đã đổ gục xuống tắt thở. Chứng kiến cảnh tượng ấy, toàn bộ những người mới đến cuối cùng đã nhận ra số phận sẽ tới với mình.
Mẹ Hannah bị đưa tới phân khu số Năm, bố cô bé bị đưa tới khu số Bốn. Khi tới lượt Hannah, một nữ tù nhân đứng ở phía lính Cận vệ quân đội Hitler lên tiếng.
“Cô đang đeo đàn violin trên lưng phải không?”
“Sao ạ?”
Hannah quên mất việc mình đang đeo cây đàn trên lưng.
Lúc xuống khỏi tàu, toàn bộ hành lí xách tay đều bị gom hết lại, nhưng không có bất cứ ai bảo Hannah bỏ đồ đạc trên lưng xuống nên em cứ thế được cho qua. Chỉ có thể nói đây chính là vận may của Hannah.
“Tôi là Arles Bizet. Cô không cần phải sợ đâu. Tôi cũng là người Do Thái.”
Hannah nghĩ rằng cô ấy là một người phụ nữ xinh đẹp.
Mái tóc đen thẳng và đôi môi đỏ thắm khiến cô gái ấy giống như một bông hồng đầy kiêu hãnh.
Cô còn giống hoa hồng ở chỗ khiến người ta có cảm giác nếu bất cẩn chạm vào vì bị mê hoặc trước vẻ đẹp của đoá hoa thì sẽ bị gai đâm chảy máu. Lần đầu tiên Hannah nhìn thấy một người phụ nữ dù biết rõ mình là tù nhân nhưng vẫn có thể đường hoàng đầy kiêu hãnh đến vậy.
“Cô biết chơi đàn không? Cô chơi được tới đâu?”
Arles dồn dập ném các câu hỏi về phía Hannah, thấy vậy tên lính SS theo giám sát cô lên tiếng.
“Được, giao D15783 cho cô đó.”
Dường như chỉ có mình Arles được ở vị thế không bị gọi bằng mã số.
Sau này Hannah mới được biết, cô gái này là một nghệ sĩ violin rất nổi tiếng trên toàn châu Âu, Hitler đã cho người theo dấu cô để đảm bảo rằng cô không bị gửi vào phòng hơi ngạt. Tuy nhiên, vì cô lấy tên theo họ chồng nên sau khi thoát khỏi Trại tập trung Drancy ở Pháp, cô bị đưa tới Auschwitz.
Tệ hơn nữa là khi vừa đến, cô bị chuyển luôn vào khu thực nghiệm số Mười với tư cách tù nhân phục vụ các thí nghiệm y học. Nội dung thí nghiệm được lên kế hoạch là sẽ làm Arles mang thai sau đó lôi thai nhi ra và sử dụng các cơ quan nội tạng để tiến hành thí nghiệm.
Tuy nhiên, đến một ngày, một nữ bác sĩ ở khu số Mười có nguyện vọng được nghe nhạc cho ngày sinh nhật sắp tới, và lúc đó Arles bèn xưng tên thật.
Thế là cô được tuyển chọn làm người phụ trách chỉ huy cho việc thành lập dàn nhạc ở Trại tập trung của nữ, đồng thời được hưởng chế độ đãi ngộ đặc biệt như bây giờ.
Dù bị đặt trong hoàn cảnh khắc nghiệt, tinh thần và thể xác Arles vẫn như hai sinh vật sống hoàn toàn tách biệt. Cho đến lúc chết, tinh thần của cô cũng sẽ không bao giờ rời khỏi thế giới âm nhạc để rơi xuống chốn phàm trần.
Hannah tách mình khỏi hàng dài tù nhân và bắt đầu bước đi theo Arles.
“Em đã học violin từ cô Klaus được khoảng gần mười năm nay. Em vẫn chưa chơi được bản ‘Chaconne’ của Vitali, nhưng ngoài nó ra thì hầu hết các bài em đều đã luyện tập rồi.”
Hannah nhỏ nhẹ trả lời. Arles liền nói với giọng lớn hơn hẳn một bậc, vẻ mặt bất ngờ cứ như thấy đất trời đảo lộn.
“Thầy dạy của em là Klaus à? Thật khó tin. Cuối cùng thì tôi cũng có một thành viên dàn nhạc đáng giá rồi. Này em, em tên gì?”
“Em là Hannah Janssen, mười bốn tuổi ạ.”
“Em chơi được ‘Ave Maria’ của Schubert không? Người Đức ở đây ai cũng thích nghe bài đó. Đang trên đường nhưng em chơi thử đi.”
Hannah gỡ cây đàn đang đeo trên lưng xuống và chỉnh dây.
Hannah nhớ lại lời Klaus dặn, em phải luôn chơi đàn bằng cả trái tim dù ở bất cứ đâu. Em lên dây cót tinh thần cho mình. Dù nơi này có là Trại tập trung đầy rẫy sự tàn bạo, nhưng khi tiếng đàn violin đã cất lên thì người chơi phải luôn giữ cho mình trái tim kiên định, để có thể cảm nhận niềm vui, để bản thân được ngập tràn trong niềm hạnh phúc mà âm thanh mang lại. Hannah đã chơi đàn bằng cả tâm hồn để có thể hoà vào thế giới thanh bình ẩn trong giai điệu của “Ave Maria”.
Hannah vừa chơi được vài đoạn, Arles đã xen ngang.
“Tuyệt quá, em đúng là thiên tài. Thật tốt vì em đã tới đây. Chẳng cần phải nghe hết tôi đã biết em sẽ trở thành cánh tay phải của mình. Này ông đội trưởng đội Cận vệ, tôi sẽ chịu trách nhiệm toàn diện về cô bé này.”
Ngay với tên lính SS làm nhiệm vụ giám sát mình, Arles cũng nói với thái độ rất đường hoàng.
“Dàn nhạc à?”
“Đúng vậy. Trong khu đặc biệt có một phòng trống đúng không? Hãy đưa cô bé này đến phòng đó.”
“Ngươi may mắn đó. Cố gắng sống thêm và chơi nhạc cho hay vào đấy.”
Nói rồi, tên lính SS vẻ như đã yên tâm, rời đi lo công chuyện khác.
“A, mẹ em đâu rồi? Không thấy mẹ em, cả bố em nữa.”
Hannah chợt nhận ra chỉ có mình em rời khỏi hàng.
“Cả mẹ và bố em đều sang khu Lao động cưỡng bức rồi. Hannah, ở đây việc biết chơi nhạc là điều cực kì quan trọng. Nó sẽ trở thành tấm vé giữ lại sinh mạng cho em.”
“Ở khu Lao động sẽ thế nào ạ?”
“Ở đó, khốc liệt lắm…”
Arles không nói gì thêm, Hannah chợt nhớ lại hình ảnh những người lao động mà em nhìn thấy trong phút chốc khi vừa đặt chân xuống khỏi đoàn tàu.
Những con người gầy guộc với đôi mắt vô hồn. Có người phải kéo lê theo những người đã lao động kiệt sức tới mức không đi nổi để hàng lối không bị xô lệch. Trong số đó thậm chí có cả những người đã bỏ mạng.
Hannah không còn là một đứa trẻ ngây ngô không hiểu kết cục nào đang đón chờ những người phải vào khu Lao động.
3.Nhờ có tay đội trưởng đội lính SS, chuyện về Hannah nháy mắt trở thành tin đồn lan đi trong hàng ngũ cán bộ ở Trại tập trung.
“Đến Arles Bizet còn phải khen nức nở đấy.”
“Một thiếu nữ thiên tài chỉ cần diễn tấu trong giây lát đã làm mê mẩn lòng người.”
“Xuất hiện một thiếu nữ mắt xanh xinh đẹp chơi violin ở Auschwitz.”
Không biết bao nhiêu danh xưng được đặt ra để nói về Hannah.
Dẫn Hannah tới phòng âm nhạc được xây bằng gạch, Arles liền tuyên bố luôn với chín thành viên trong dàn nhạc rằng bắt đầu từ ngày mai Hannah sẽ tham gia luyện tập và là thành viên chủ chốt hàng đầu.
Dù Arles vui tới mức muốn nhảy cẫng lên khi nghe tiếng đàn của Hannah, nhưng phản ứng của chín thành viên trong dàn nhạc khi nhìn thấy em thì chẳng thể gọi là vui mừng.
Có một sự choáng váng không thành lời trong căn phòng, khiến Hannah biết rằng em không nhận được sự chào đón giống như cách mà Arles vui mừng khi phát hiện ra em.
“Hannah, từ ngày mai em sẽ mặc cái này và bắt đầu luyện tập. Sau khi kết thúc điểm danh lúc sáng sớm, hãy tới luyện tập ngay. Khoảng chừng sáu giờ, em rõ chưa?”
“V… Vâng.”
“Lính SS sẽ chỉ cho em phòng mình. Ta vẫn còn phải cho mọi người luyện tập thêm lúc nữa, còn em hãy cứ thư giãn, lấy lại sức đi.”
Nói đến đó Hannah mới sực nhớ ra mình đã không ăn không uống gì, nhưng có lẽ do tâm trạng quá căng thẳng nên em chẳng còn cảm thấy đói.
Khi ra tới bên ngoài, người lính SS dẫn em đi tới một khu trại ở khá xa. Rõ ràng em nghe người ta nói trại ở gần ngay trước mặt nên cũng lấy làm lạ, nhưng vì Hannah không quen thuộc với Trại tập trung nên chỉ biết tuân theo chỉ dẫn mà thôi. Hannah được dẫn đến khu Lao động cách đó tận mấy trại, rồi bị bỏ mặc ở nơi có những chiếc giường được ngăn nhỏ ra như chuồng gà.
Ngày đầu tiên tới Trại tập trung Auschwitz II-Birkenau, Hannah không tài nào ngủ được vì nỗi buồn, nỗi cô đơn khi gia đình tan tác, vì cái bụng trống rỗng và vì cảm giác bản thân thật đáng thương.
Nơi ngủ là một trại gỗ tồi tàn không cửa sổ, ba người cùng chung một tấm chăn.
Trang phục ở đây chỉ có duy nhất bộ quần áo tù nhân mỏng và gần như tất cả mọi người đều mặc duy nhất một bộ nên bệnh ghẻ lở hoành hành. Có lẽ bọn họ ai cũng ngứa ngáy không chịu nổi nên tiếng gãi loạt soạt cứ văng vẳng bên tai Hannah suốt cả đêm.
Sáng sớm, khi Hannah vừa mới mơ mơ màng màng một chút thì một người lính SS vào báo rằng Arles Bizet đang tìm em. Vẫn chưa đến giờ điểm danh.
“Cô ở trong dàn nhạc của Arles Bizet à?”
Người tù nhân nằm cạnh Hannah bất chợt quay sang hỏi.
“Tôi cũng không rõ là dàn nhạc hay gì, nhưng cô Arles có dặn tôi hôm nay tới phòng âm nhạc để tham gia bài tập lúc sáng sớm.”
Hannah vừa nói xong thì lần này một người phụ nữ ngủ ở tầng trên phía trước em bật dậy.
“Khốn kiếp, loại chó vây đuôi theo bọn Phát xít.”
Cô ta còn nhổ nước bọt về phía Hannah. May rằng không trúng Hannah nhưng sự công kích cô bé phải nhận cũng chẳng khác việc bị phỉ nhổ là mấy.
Lần đầu tiên trong đời em bị những người lạ mặt thậm chí chẳng biết tên đối xử như vậy. Hannah không hiểu điều gì trong con người mình khiến họ phật lòng, cũng không thể cứ nhắm mắt mà xin lỗi, nên em vô cùng bối rối.
“Thôi đi.”
Trong lúc Hannah còn đang loay hoay không biết phải phản ứng ra sao thì người nằm bên cạnh đã lên tiếng đỡ lời. Nhờ vậy, em hiểu ra mình đang vấp phải sự đối xử không công bằng từ người khác và thấy nhẹ lòng một chút.
“Đến đây rồi thì thôi mấy kiểu ganh ghét vô nghĩa ấy đi.”
Hannah vô tình hướng ánh mắt cầu cứu tới người bên cạnh, cô này lại tỏ vẻ khó xử và lảng tránh ánh mắt của Hannah.
“Cả cô nữa, mau mau đi đến buổi tập gì gì đó của cô đi.”
Cô ta nói như thể hắt hủi Hannah, em hiểu rằng mình là kẻ bị người khác xa lánh.
Em nghĩ có lẽ chẳng phải bản thân em mà dàn nhạc mới là đối tượng bị người ta ghét bỏ. Nhưng đối với Hannah, chuyện ai bị ghét bỏ giờ cũng gần như nhau. Thậm chí em còn có suy nghĩ ngây ngô trẻ con rằng không phải họ ghét dàn nhạc, biết đâu họ muốn vào dàn nhạc thì sao, nhưng rồi em quên ngay điều đó.
Dù chưa hiểu rõ dàn nhạc là thứ gì, nhưng Hannah vẫn đi tới khu trại của Arles Bizet như một cách trốn chạy.
Vừa bước chân vào một góc nhỏ xíu được gọi là phòng âm nhạc, Hannah thấy Arles đứng đó, nổi giận đùng đùng quát tháo ầm ĩ.
“Hannah, muộn quá. Em quên buổi tập sáng nay à? Tôi đã nói là tập trung lúc sáu giờ cơ mà.”
Hannah không hiểu làm thế nào có thể biết đâu là sáu giờ khi không có đồng hồ, nhưng chín người của dàn nhạc đã bắt đầu luyện tập, họ cũng chẳng thèm bận tâm tới Hannah cùng chuyện đi muộn của em.
“Em xin lỗi. Hôm qua em không ngủ được…”
“Sao? Này, không phải em ở khu Lao động đấy chứ?”
“Em không biết ạ. Từ chỗ đó tới đây phải chạy qua ba khu trại khác. Khu trại em ở dựng bằng gỗ và không có cửa sổ ạ.”
“… Trời, tôi đã nói đến vậy với ông đội trưởng quân SS rồi, mà đến tai tên lính khác thì vẫn chẳng tới nơi tới chốn. Phòng của em ở ngay rìa khu nhà gạch trước mặt ấy. Cơ bản là em có phòng riêng, bên trong có giường chiếu đàng hoàng. Thậm chí có cả bàn nữa. Đồ ăn cũng đặc biệt luôn. Nào, thay ngay cái bộ đồ tù nhân đó sang bộ hôm qua tôi đưa cho em đi.”
Arles nói nhanh nhảu liến thoắng nhưng lại rất có uy, các đội viên trong dàn nhạc tỏ ra hơi sợ sệt. Mặc vào chiếc áo khoác trắng cùng chiếc váy dài xanh thẫm, Hannah cảm thấy trong lòng vui tươi hơn.
“Hannah, chúng ta cần phải luôn chỉnh trang gọn gàng.” Nói rồi, Arles cười mãn nguyện.
“Chúng ta đang tập bản ‘Hành khúc Radetzky’*. Mọi người chơi thử di nào.”
Chu thich: Tác phẩm được sáng tác bởi Johann Strauss I để kỉ niệm chiến thắng tại trận Custoza năm 1848 của Thống chế Joseph Radetzky von Radetz.
Arles vung gậy chỉ huy hướng dẫn dàn nhạc, nhưng chỉ được một lát, cô gõ cây gậy chỉ huy kêu lạch cạch và dừng màn diễn tấu.
“Hannah, như em nghe rồi đấy. Em cũng thấy rằng chúng ta cần khả năng của em thế nào chứ? Ở đây mọi người mới chỉ tập violin được hai đến ba năm. Cơ bản thì làm được, nhưng vẫn chưa thể gọi đó là âm nhạc được. Chơi đúng với nhạc phổ là cố lắm rồi. Chỉ trong nửa tháng nữa mà không thành thạo được ba bản nhạc thì chúng ta sẽ bị cho giải tán. Mà giải tán rồi thì sẽ ra sao? Phòng hơi ngạt đang đợi chúng ta. Hoặc là như vậy, hoặc là đi lao động. Đằng nào cũng sẽ chết thôi. Vẫn chưa chơi được một bản nhạc, không biết phải làm thế nào đây, nghĩ tới là tôi thấy muốn nôn mửa rồi.”
“Một bản nhạc cũng chưa được sao…?”
Hannah hiểu ra tình hình nghiêm trọng đến mức nào. Cuối cùng em đã hiểu vì sao Arles lại nghiêm khắc đến mức bất thường với việc đi muộn như vậy.
Dàn nhạc gồm bốn người chơi violin nhóm một, bốn người chơi violin nhóm hai và một người chơi viola. Hannah được giao nhiệm vụ luyện tập cho bốn người chơi violin nhóm một.
Trong nhóm có một cô bé tên Mary mặt đầy tàn nhang, hoàn toàn không biết đọc nhạc phổ, để giúp cô bé này tập luyện, Hannah phải chỉ dẫn bằng cách kéo từng âm một. Vì biết mình chơi không tốt, Mary lúc nào cũng mếu máo, nhưng dần dần, khi tạo ra được những âm giống như Hannah dạy, trên gương mặt cô bé đã thấy thấp thoáng nụ cười.
“Có phải người tiếp theo bị đuổi khỏi dàn nhạc là tớ không?”
“Sao?”
Nghe nói số lượng thành viên của dàn nhạc chỉ có hạn, với việc Hannah được chọn vào dàn nhạc, đã có một thành viên bị loại ra và chuyển tới khu Lao động.
Arles luôn vui mừng coi Hannah như vị cứu tinh khi em tham gia vào dàn nhạc. Nhưng đằng sau đó, một người đã buộc phải rời đi vì sự có mặt của Hannah. Nếu nghĩ đến bản thân mình ngày mai là người bị đuổi, thì phản ứng không hoan nghênh của dàn nhạc với Hannah cũng là điều dễ hiểu.
“Tớ biết mình là đứa vô dụng nhất ở đây, nên ngày nào cũng sống trong nơm nớp lo sợ. Nếu trong những người được chuyển tới hôm nay có một người nào đó biết chơi đàn thì phải làm sao. Thành thật mà nói khi biết tin cậu sẽ vào dàn nhạc tâm trạng tớ chẳng dễ chịu chút nào, nhưng tớ thấy rất xấu hổ khi mình lại có những suy nghĩ như vậy… Tớ xin lỗi.”
Hannah chỉ lắc đầu khi nghe Mary xin lỗi.
Đối với người vừa mới tới Trại tập trung như Hannah, em không thể hiểu hết những sức ép nặng nề mà Mary đang chịu. Điều đó khiến chính Hannah cảm thấy áy náy và muốn nói lời xin lỗi.
“Mary, hãy cùng cố gắng chơi tốt hơn nữa. Chỉ cần cậu giỏi hơn, giỏi tới mức dù sau này có thêm người biết chơi nhạc tới đây, cậu cũng vẫn giỏi hơn họ là được. Tớ sẽ dạy thật dễ nhớ, nên nếu cậu có chỗ nào không hiểu thì cứ hỏi tớ nhé.”
“Ừ, tớ sẽ cố gắng luyện tập nhiều hơn nữa.”
Tập luyện từ sáng sớm, tới trưa thì cả đội đã diễn tấu được hoàn chỉnh một đoạn khá dài. Arles nắm lấy tay Hannah, nỗi cảm kích căng tràn lồng ngực.
Ngay cả những thành viên dàn nhạc ban đầu chẳng quan tâm gì tới Hannah cũng nhận ra nhờ có Hannah tham gia mà việc luyện tập thuận lợi hẳn. Tất cả đều mừng ra mặt và chuyển qua nhiệt liệt chào đón Hannah. Thêm vào đó, điều đáng mừng nhất đối với các thành viên của dàn nhạc là thoát khỏi sự căng thẳng đến nghẹt thở của Arles, buổi tập tại phòng âm nhạc chuyển sang bầu không khí tươi vui.
Arles luôn đặt trình độ của mình làm tiêu chuẩn trong âm nhạc nên các yêu cầu của cô rất cao. Tuy vậy, do đang ở vị trí được lính SS coi trọng, nên chỉ cần cô yêu cầu cải thiện chất lượng cuộc sống cũng như bữa ăn, thì hầu hết đều được đáp ứng. Cô đã tận dụng lợi thế đó, giúp cho cuộc sống của thành viên trong dàn nhạc tốt hơn, đến mức khó có thể đem cuộc sống của những người ở khu Lao động ra so sánh với tù nhân trong dàn nhạc. Chính vì điều này nên không ai có thể hận Arles.
4.“Ai đó làm ơn cứu đứa bé! Mau cứu chúng tôi với!”
Khi vừa kết thúc buổi tập, tất cả nghe vọng lại từ bên ngoài toà nhà tiếng hét thảm thương của một người phụ nữ.
Arles cùng Hannah và một vài người trong dàn nhạc chạy ra ngoài thì thấy một người phụ nữ từ khu Lao động hớt hải chạy vào, hơi thở đứt đoạn. Gương mặt người phụ nữ xanh lét, đôi môi nứt nẻ run lên bần bật.
“Hannah, em không cần tới cũng được.”
Arles chạy đi cùng người phụ nữ từ khu Lao động, nói với lại ngăn không cho Hannah đuổi theo hai người.
Nhưng người vừa mới tới Trại tập trung như Hannah không hiểu được tấm lòng của Arles, em vẫn gắng hết sức chạy theo hai người phụ nữ trên đôi chân bé nhỏ. Arles chưa muốn cho Hannah biết về những gì xảy ra tại Trại tập trung, nhưng cô chẳng còn dư dả thời gian để bận tâm đến Hannah lúc này nữa.
Ở nơi họ tới, họ nhìn thấy một bà đỡ cùng một phụ nữ đang ôm đứa trẻ còn đỏ hỏn bị ba tên lính SS bao vây. Đứa trẻ vừa mới chào đời trong vòng tay bà đỡ ở khu Lao động.
“Bịt miệng nó lại.”
“Không.”
“Nếu không thì đưa nó đây.”
Người mẹ ôm chặt đứa bé và khóc thảm thiết. Bà đỡ gan dạ đứng chặn trước mặt hai mẹ con để bảo vệ che chắn họ khỏi những tên lính SS tàn ác.
“Ta không cho phép. Ta tuyệt đối không để ngươi giết đứa bé này! Đứa trẻ này là ánh sáng hi vọng của chúng ta.”
Người phụ nữ dang hai tay, tuyên bố mạnh mẽ như thể không tiếc sinh mạng của chính mình.
Arles rẽ đám đông đang vây quanh chứng kiến cảnh tượng đó để đi vào rồi tiến lên phía trước.
“Đợi đã, các ngươi định tước đoạt cả một sinh mạng chỉ vừa mới chào đời sao?”
Arles vừa thở hổn hển vừa hét lên giận dữ với tên lính.
“Arles. Cô cũng biết rồi chứ nhỉ. Không có chuyện phát sữa tới tận đây đâu. Có những mạng sống vô nghĩa, để sống thêm một chút lại càng thêm đau khổ mà thôi. Cô cũng nên hiểu chuyện đi.”
“Mạng sống có nghĩa hay không, không cần các người quyết định.”
“Mẹ nó không có sữa, những đứa trẻ như nó rồi cũng bị chết vì đói thôi. Giải thoát cho nó từ lúc nó còn chưa mở mắt có phải tốt hơn không!”
Vì quân SS có phần coi trọng Arles nên chúng vẫn nhẫn nại giải thích với cô. Nghe thấy những lời đó, Arles chùng xuống trong phút chốc.
Đúng thời khắc đó, một tên lính SS khác lạnh lùng lần lượt bắn chết đứa bé cùng người mẹ, sau đó là bà đỡ.
“Hans… Ngươi vừa làm gì…!”
Arles dường như biết tên lính SS vừa ra tay tàn nhẫn kia.
Cô nhìn về phía gã SS tên Hans, bàng hoàng như thể không sao tin nổi cảnh tượng bày ra trước mắt mình.
“Tôi chỉ làm công việc của mình thôi. Đúng là lãng phí mất hai viên đạn.”
“Sao có thể…”
Khi cô đang định nạt lại Hans, một thứ gì đó tựa như quả cầu làm từ bùn được ném vào mặt Arles.
“Cần gì thứ chó nuôi hèn hạ như ngươi ra mặt!”
“Phải đó, bọn này cần gì thứ như ngươi thương hại chứ!”
“Chẳng qua giúp kẻ yếu để tự thấy mình ưu việt hơn người chứ gì.”
Những người thuộc khu Lao động chứng kiến từ đầu tới cuối sự việc vừa xảy ra quay ra chỉ trích ngược lại Arles, dẫu biết cô cũng là một tù nhân, cũng là một người Do Thái giống như họ.
Gương mặt xinh đẹp của cô dính đầy bùn.
Những quả cầu nhớp nháp bị ném liên tục về phía Arles.
“Đi về căn phòng có giường ngủ, có đồ để thay của cô đi!”
“Cút đi!”
Khi mọi người liên tục ném những câu “Cút đi! “về phía Arles, cô không nói lại một lời, chỉ bặm môi thật chặt.
Hai bàn tay nắm chặt dần chuyển màu trắng bệch khi móng tay cô bấm xuống da.
Cô tới để giúp đỡ, ấy vậy mà cô lại bị chính những người tù nhân Do Thái mà cô vẫn luôn coi là đồng bào chỉ trích và không còn nơi nào để đi.
“… Híc.”
Arles cúi đầu, vội vã rời khỏi đó.
Chuyện có người bị giết hay bản thân bị người khác miệt thị đều là chuyện xảy ra như cơm bữa tại đây.
Arles đã không còn bị dao động bởi tất cả mọi chuyện xảy ra trong Trại tập trung nữa, cô cũng đã học được cách điều chỉnh cảm xúc của bản thân, khi phải nhận những đối đãi vô lí từ kẻ khác. Dẫu vậy, cô vẫn chưa thể quen được với nỗi đau.
Hannah đứng chìm giữa những bóng người, chứng kiến toàn bộ sự việc.
Đến ngày thứ hai sống tại Trại tập trung, một đứa trẻ như Hannah cũng nhận ra được lí do vì sao chẳng ai giải thích rõ điều gì về Trại tập trung cũng như việc dàn nhạc được đối đãi đặc biệt trong Trại.
5.Buổi tối ngày tập luyện thứ hai, Hannah được chuyển tới căn phòng ở bên cạnh Arles.
Hannah được phân cho một căn phòng riêng, cửa sổ treo rèm, ngoài cảm giác đói bụng và luôn bị nằm dưới sự giám sát ra, Hannah thấy như mình đang ở một thế giới khác.
Bất chợt, Hannah lo lắng về gia đình. Không biết Andrew có khoẻ không, chứng đau lưng của ông có đỡ không. Em muốn đến chỗ người mẹ dịu dàng. Có lẽ giờ này bố đang lo cho em lắm.
Nước mắt trào ra khiến nỗi buồn càng dữ dội hơn.
Tại sao chúng ta phải gặp những chuyện này? Mình còn phải ở nơi này đến bao giờ? Không được tới trường, tương lai sau này sẽ ra sao? Bà giờ sao rồi? Vì sao chị lương thiện đến thế lại phải chết?…
Mình muốn ăn một chiếc bánh mì mềm xốp mới nướng, muốn ăn phô-mai. Một bát súp nóng ngon biết mấy.
Thấy lo vì Hannah khóc to mãi không thôi, Arles bước sang phòng em. Cô ôm lấy Hannah đang phủ phục khóc trên giường, nhẹ nhàng xoa lưng cho em.
“Em vẫn còn trẻ quá. Nhất định âm nhạc sẽ cứu rỗi linh hồn em. Hãy cố gắng lên. Chuyện này sẽ không kéo dài mãi mãi. Còn anh em của em thì sao rồi? Em không phải con một đúng không nào.”
Arles nói tới đây, Hannah đã chực nín khóc lại bắt đầu oà lên nức nở.
“Chị gái em đã chết rồi. Em trai Andrew của em cùng ông đều xếp hàng bên trái, bị họ đưa tới nhà trẻ…”
Em nghẹn lời, nói không ra tiếng.
Arles nín lặng không thể thốt nên lời. Cô chỉ còn biết cầu nguyện, mong sao sự thật đau đớn sẽ không đến được tai Hannah, rằng em trai cùng ông của em đã không còn trên cõi đời này nữa.
“Thôi nào, ngày mai buổi tập cũng sẽ bắt đầu từ rất sớm. Em hãy ngủ đi.”
Nói rồi Arles kéo chăn đắp cho Hannah, có lẽ đã mệt sau trận khóc nên chẳng mấy chốc mà Hannah bắt đầu thở đều đều và chìm vào giấc ngủ. Arles dịu dàng gạt những sợi tóc vàng dính trên khuôn mặt ướt nước mắt của Hannah.
6.Ngày thứ năm từ lúc Hannah vào dàn nhạc.
Cuối cùng “Hành khúc Radetzky” cũng đã hoàn thành.
Còn mười ngày nữa để hoàn tất hai bản nhạc khác. Cả nhóm bắt đầu luyện tập “Khúc quân hành”* của Schubert, nhưng bản này đơn giản hơn nhiều so với “Hành khúc Radetzky” nên chỉ một chốc mọi người đã chơi được giai điệu chính, đến buổi chiều, mọi người bắt tay vào tập bài “Edelweiss”*.
Chu thich: “Three Marches Militaires, Op. 51, D. 733”, tác phẩm viết dưới dạng hành khúc, dành cho piano bốn tay.
Chu thich: Tên đầy đủ là “Es warein Edelweiss”, do Herms Niel viết nhạc và lời vào năm 1941 dành cho quân đội Đức.
Trong khoảng thời gian hoàn thành bản “Hành khúc Radetzky”, Mary mặt tàn nhang đã bắt đầu đọc được nhạc phổ, thậm chí cô bé còn rất tiến bộ trong kĩ thuật kéo vĩ cho âm luyến nữa.
Ở nơi này, đến cả kiếm nhạc phổ cũng là một công việc khó khăn.
Arles Bizet thường viết lại nhạc phổ theo những kí ức đọng lại trong đầu sau mỗi buổi tập. Cô còn biên soạn lại bản phối và chia ra các phần để ráp nối với nhau, thương thuyết với thành viên của dàn nhạc nam có thể phối hợp cho phần đồng diễn.
Trong số tù nhân có những người được quân SS chọn ra làm thuộc hạ với nhiệm vụ để mắt trông coi Trại tập trung, gọi chung là Kapo. Thỉnh thoảng khi có sinh nhật của tên trưởng nhóm Kapo hay một tên SS nào đó, Arles cũng bị gọi đi biểu diễn trong bữa tiệc mừng nên cô càng trở nên bận rộn.
Mary mặt tàn nhang thường luyện tập và học đọc nhạc phổ tới tận đêm muộn vì không muốn thành gánh nặng cho dàn nhạc cùng Arles. Nhưng gần tới ngày tổng diễn tập để hoàn thiện ba bản nhạc thì cô bé gục ngã vì cơn sốt.
May mắn không phải là sốt phát ban.
Arles nhờ cậy cô y sĩ ở khu Bệnh xá chăm sóc Mary hết mức có thể, đổi lại dàn nhạc sẽ biểu diễn chúc mừng vào ngày sinh nhật của cô ta trong tháng tới.
Tiện đường, Arles cũng rẽ vào phòng tập của dàn nhạc nam để nhờ họ cử một người chơi cello sang diễn tấu cùng, và khi đến nơi, Arles đứng thừ người ra không thốt nên lời.
Chỉ huy dàn nhạc nam chính là Klaus.
“Klaus? Bürger Klaus phải không?”
“Ồ, Arles đó sao. Đúng rồi; may quá, cô vẫn bình an.”
Klaus và Arles từ thời còn trẻ đã cùng nhau biểu diễn nhiều lần, họ luôn kính trọng nhau.
“Tại sao người Đức như anh cũng phải tới đây vậy Klaus?”
Arles hỏi vậy nhưng Klaus lại trả lời cô bằng một câu hỏi khác.
“Ở chỗ cô có cô bé nào tên Hannah không?”
“Ồ, có đấy.”
Arles đã nghe qua về Klaus từ Hannah nên gương mặt cô trở nên tươi tỉnh hẳn.
“Tôi đã nghe về anh từ Hannah rồi. Quả đúng là được Klaus chỉ bảo, giờ Hannah là cánh tay phải của tôi.”
“Chủ yếu là vợ tôi dạy cô bé.”
Đã từng có dịp gặp mặt bà vợ nhà Klaus, Arles gật gù với vẻ hiểu chuyện.
“Phu nhân khoẻ chứ ạ?”
“Vợ tôi vẫn đang sống thảnh thơi ở nhà. Cô ấy tự xoay xở được một mình nên tôi không phải lo lắng gì. Còn có cả học sinh của cô ấy nữa.”
“Vậy sao anh lại ở đây vậy Klaus?”
Arles không thể hiểu lí do Klaus có mặt ở Auschwitz.
“Tôi đã che giấu cả nhà Janssen. Ban đầu tôi bị đưa đến Trại tập trung Dachau. Hồi đó tôi cũng năng đi biểu diễn ở các căn cứ quân đội Đức hay Bộ Tổng chỉ huy nên được nhiều người biết mặt biết tên, nhờ vậy mà sau đó họ thả tôi ra. Nhưng khi biết gia đình Janssen bị chuyển tới Auschwitz, tôi đã đề nghị với ông Trại trưởng Trại Dachau chuyển tôi tới Auschwitz cùng với họ. Tôi đã ở với họ cũng mấy năm rồi, sao có thể bỏ mặc họ đi vào chỗ chết.”
“Đúng là, cũng có những người Đức tốt.”
Đó là một lời phát biểu cảm tưởng có chứa đựng sự mỉa mai.
Bản thân cô bị người Đức truy sát rồi đưa vào chốn này, giờ thật khó để nghĩ rằng lại có một người Đức cố gắng cứu người Do Thái.
“Chính trị biến thế giới này thành một thứ đảo điên, nhưng từng người từng người vẫn là những cá nhân tốt. Không phải chỉ riêng mình tôi là người Đức bị bắt đâu.”
“Nhưng chính người Đức các anh tán thành cái nền chính trị này, đúng không? Đừng nói với tôi những lời buồn cười kiểu như họ là người tốt. Vì cái chế độ này mà biết bao người bị giết, chắc anh không biết phải không? Ngày nào cũng như ngày nào, từ bốn nhà thiêu, khói cuộn lên không ngơi nghỉ đấy.”
Đối với Arles, lời Klaus nói chẳng là gì ngoài những mĩ từ sáo rỗng.
Cô biết Klaus là người tốt, nhưng chỉ cần nghĩ tới việc ông là người Đức thì mọi lời nói của cô đều trở nên cay nghiệt.
“Quả thực, mọi thứ đều thối nát. Đến đây rồi tôi mới nhận ra. Muốn sống sót, người ta phải khiến đầu óc mình tê liệt, để bản thân có thể lãnh đạm vô cảm trước vô số chuyện xảy ra. Nếu không làm vậy có lẽ sẽ phát điên mất.”
“Tôi đã thôi không nghĩ đến ý nghĩa của âm nhạc tồn tại ở nơi này. Thay vào đó tôi nhìn vào ý nghĩa của việc mình sống đơn thuần để theo đuổi thế giới của âm thanh.”
“Thế mới giống con người cô, Arles. Dường như qua âm nhạc cô đã hiểu mình nên làm gì rồi. Tôi đã nghĩ mình sẽ nhờ vào âm nhạc mà cứu gia đình Janssen ra khỏi nơi này nhưng…”
Ánh mắt Klaus ngập tràn tinh thần sẵn sàng đấu tranh vì lẽ phải, khiến Arles ngập ngừng không biết liệu có nên nói với Klaus hay không. Nhưng cô tự nói với chính mình rằng dầu cô giấu giếm, mọi chuyện cũng chẳng thể thay đổi được nữa. Cô quyết định mở lời.
“Chỉ còn Hannah và bố mẹ cô bé còn sống thôi.”
“Cô nói vậy là sao?”
“Xin anh đừng nói chuyện này với Hannah. Em trai và ông của Hannah đã bị đưa ngay đến phòng hơi ngạt mất rồi.”
Với gương mặt đau đớn tột cùng, Arles nói với Klaus tình hình cô nghe được từ Hannah.
“Là vậy sao… Tàn nhẫn quá.”
“Chúng tôi trở thành vật tế thần cho các con chiên của Chúa thay cho lũ cừu, lũ dê. Tại sao họ lại cần những vật hiến tế chứ, vì sao Người không cứu lấy con dân của Người, con người còn phải gây ra bao nhiêu tội ác nữa? Klaus, tất cả những chuyện này là sao chứ?”
Arles lần đầu tiên bật khóc kể từ khi tới Auschwitz.
Đã chịu đựng nhiều sự sỉ nhục, Arles giữ vững tinh thần bằng cách trốn chạy vào trong thế giới âm nhạc, nhưng sợi dây mỏng manh bị kéo căng bấy lâu đến lúc này đã đứt, nước mắt trào xuống đôi má của cô.
Klaus để cô khóc thoả thích trong lòng mình tựa như một người cha.
“Nghe này, Arles. Âm nhạc có lẽ là một vị thần toàn năng trên thế giới này. Đừng lo lắng!”
Nghe thấy hai tiếng âm nhạc, Arles lấy lại được tinh thần, cô lùi lại một bước, rời khỏi vòng tay Klaus và vuốt lại mái tóc bị rối của mình.
“Klaus, tôi xin lỗi.”
Khi nói lên những lời đó, Arles đã kìm nén được cảm xúc của mình.
“Nếu tâm trạng đã thoải mái hơn thì đừng để ý tôi. Mà này, Arles, cô cất công tới tận phòng nhạc này chắc cũng có lí do gì phải không?”
“Đúng vậy, Klaus. Tôi muốn mượn nhạc công chơi cello của bên anh. Ngày mai, dàn nhạc nữ chúng tôi có thể đi vào hoạt động rồi, nhưng tôi vẫn còn thiếu âm trầm…”
“Nếu không chê tôi đây thì bất cứ lúc nào cũng được.”
Klaus vốn là một nhạc công cello nên ông tự tiến cử mình với Arles.
“Có thật là anh chịu tới không? Nếu vậy dàn nhạc của anh có ổn không?”
“Tôi có một đề xuất.”
Klaus nghĩ ngợi điều gì đó, khoé miệng giãn ra, ông nói.
“Những lúc tôi không thể đến được, sẽ có một học sinh của tôi ở đây đi thay, cậu ấy tên Leo Rochester, người Ba Lan. Để tôi giới thiệu với cô luôn. Một cậu bé đẹp trai lắm đấy.”
“Nếu vậy thì may cho tôi quá. Vậy ngay chiều hôm nay anh có thể tới phòng nhạc của chúng tôi được không?”
“Được, tôi sẽ tới cùng Leo. Chúng tôi phải tập gì đây nhỉ?”
“‘Hành khúc Radetzky’, ‘Khúc quân hành’ và ‘Edelweiss’.”
“Đồng ý. Chúng tôi sẽ theo được ngay thôi.”
7.Từ hôm đó, Arles chọn tin tưởng vào Chúa.
Cô từng chọn cách dựa dẫm vào một điều gì đó để giữ lấy hi vọng, nhưng thứ đó luôn sụp đổ hết lần này tới lần khác. Tuy vậy, từ nay cô chẳng nghĩ đến chuyện gì sẽ xảy ra khi hi vọng không thành hiện thực nữa, cô chỉ muốn một lòng tin vào Chúa mà thôi.
Cho dù tuyệt vọng với hoàn cảnh hiện tại, cô vẫn khao khát được sống mãnh liệt, chính vì vậy nên cô cần niềm tin. Hơn nữa, có lẽ cách mà Klaus xuất hiện ở nơi địa ngục trần gian này khiến cô thấy ông như một vị thần thực sự.
Buổi chiều ngày hôm đó, Klaus và Leo cùng tới phòng nhạc của dàn nhạc nữ. Ở đó Klaus tìm thấy Hannah, cô bé đã gầy gò đi rất nhiều.
“Hannah!”
Nghe thấy tiếng Klaus gọi, Hannah ngoảnh lại và trong thoáng chốc cô bé không dám tin vào tai vào mắt của mình.
“Bác Klaus?”
Hannah nắm chặt cây đàn Klaus tặng trong tay trái, em mừng vui khôn xiết, chạy đến sà vào vòng tay đang rộng mở của Klaus.
“Cháu khoẻ mạnh là tốt lắm rồi, Hannah.”
“Bác Klaus, bác bị họ bắt sao? Vì gia đình cháu sao?”
“Không phải vậy đâu Hannah. Là ta muốn tới. Ta tới đây để che chở cho cháu.”
“Cô Klaus đâu rồi ạ?”
“Cô không sao cả, cháu không cần lo đâu. Khi nào cô cũng chăm lo nhà cửa chờ một ngày mọi người cùng trở về.”
Leo đứng ngay cạnh bên, mỉm cười lắng nghe những lời hai chú cháu nói với nhau.
Leo đã mất cả cha lẫn mẹ, cuộc trò chuyện của Klaus với Hannah làm cậu nhớ về gia đình mình. Ngay từ những giây phút đầu tiên, Leo đã thấy đâu đó trên gương mặt Hannah đôi nét giống với người em gái đã mất, nên cậu lập tức có cảm tình với cô bé.
Arles cũng giống như Leo, cô dõi theo Klaus và Hannah với ánh mắt đầy yêu thương, chọn lấy thời điểm thích hợp, cô quay về hướng những thành viên dàn nhạc của mình và nói.
“Đây là Bürger Klaus, người được mệnh danh là ‘Ngài đồng diễn Klaus’. Và một học trò của ông ấy, cậu Leo…”
“Leo Rochester ạ. Năm nay tôi mười tám tuổi. Rất vui được gặp mọi người.”
Leo có mái tóc đen thẳng, đôi mắt cậu màu xanh lục, hỏi ra mới biết cậu có dòng máu Ý chảy trong người. Nụ cười thanh thoát của cậu khiến tất cả thành viên dàn nhạc nữ nín thở, trong phút chốc quên mất nơi đây là Trại tập trung. Hannah bỗng cảm thấy ngượng vì mấy ngày rồi chưa được tắm, em muốn giấu cái đầu đầy gàu và cơ thể bốc mùi đi nên trốn ra sau lưng Klaus. Nhưng Klaus lại chẳng để ý đến tâm trạng ấy của Hannah, ông đẩy em ra trước mặt Leo giới thiệu.
“Leo, đây là Hannah, thiên tài vĩ cầm mà ta đã kể với con. Hai đứa gần tuổi nên hãy làm bạn với nhau nhé.”
Leo cầm lấy tay phải Hannah và hôn nhẹ lên mu bàn tay em.
Lần đầu tiên trong đời có người làm hành động đó với Hannah, khiến em giật mình vội vã rụt tay phải lại.
Thấy vậy tất cả mọi người cùng cười lớn. Arles cũng nheo mắt nhìn cảnh tượng ấy, nhưng rồi cô lập tức vỗ tay hai nhịp kéo tâm trạng lâng lâng của mọi người trở về với mặt đất.
“Nào bắt đầu thôi. Mai đã là buổi diễn chính thức rồi.”
Chỉ cần một lần là nhạc công cello đã hoà nhịp được với dàn nhạc nên việc luyện tập cho cả ba bản nhạc mất có ba mươi phút là xong.
Lúc đó, Klaus bèn đề nghị Arles cho phép dàn nhạc nam thỉnh thoảng được cùng luyện tập các tiết mục sau cùng với dàn nhạc nữ. Nếu tập hợp lại, họ có thể thành lập hẳn một đàn nhạc giao hưởng chứ không chỉ dừng ở việc phối hợp lồng ghép với nhau. Nhưng chủ trương âm nhạc chỉ giới hạn trong sự lồng ghép từ phía Arles quá mạnh mẽ nên Klaus đã không nhận được một cái gật đầu đồng ý.
8.Cuối cùng ngày biểu diễn ra mắt dàn nhạc nữ cũng đến.
Ngày hôm đó, đúng từ sáu giờ, dàn nhạc nữ do Arles chỉ huy tập trung tại cổng Trại, khi họ đang chơi chuyển tiếp liên tục giữa “Hành khúc Radetzky” và “Khúc quân hành” thì hàng người đi lao động khổ sai bắt đầu tiến ra.
Mấy ngày nay chỉ giam mình trong phòng âm nhạc để luyện tập nhưng Hannah chưa một lần tự hỏi vì sao bản thân và mọi người phải nỗ lực đến cùng cực như vậy.
Arles Bizet là người quyết định sẽ chơi bản nhạc nào, đến bao giờ phải biểu diễn được thành thục. Vậy nên Hannah chỉ nghĩ tới việc làm sao để thực hiện những gì Arles đưa ra, em chẳng có đủ thảnh thơi để băn khoăn vì sao lại phải chơi bản nhạc này, ta chơi nó vì ai, ý nghĩa gì ẩn chứa trong đó. Chỉ riêng việc hoàn thành được mục tiêu trước mắt thôi đã buộc Hannah phải nỗ lực hết mình rồi.
Trong lúc đi, những người lao động quay sang dàn nhạc, nhổ nước bọt về phía họ và mắng chửi “lũ chó của bọn Phát xít”. Hành động ấy chẳng phải chỉ một hai lần.
Hannah nhớ tới buổi sáng đầu tiên ở Trại tập trung, khi em bị gọi là “chó nuôi của Phát xít”, cây vĩ đang di chuyển của em bỗng nhiên dừng lại. Có lẽ họ đang tự động viên cái cơ thể gầy guộc chỉ còn da bọc xương của mình. Những con người phải kéo lê cơ thể nặng nề ngay từ trước khi bắt đầu làm việc, bị lùa đi lao động cưỡng ép khổ sai theo đúng nghĩa đen. Nhìn từ vị trí của họ mới thấy dàn nhạc sống thảnh thơi và an toàn tới thế nào.
Cùng là tù nhân mà tựa như Thiên Đàng và Địa Ngục.
Bọn họ thù ghét sự tồn tại của dàn nhạc cũng là lẽ thường tình. Hannah cảm thấy xấu hổ về chính bản thân mình vài ngày trước đây, khi em có ý nghĩ rằng những người ở khu Lao động biết đâu còn muốn vào dàn nhạc.
Nếu Hannah ở trong hoàn cảnh đó, hẳn chính bản thân em cũng sẽ phỉ báng, căm hận dàn nhạc, những người luôn được yên ổn ở vị trí an toàn.
Thấy gương mặt Hannah xìu xuống và trở nên u ám, Klaus ngồi chơi cello bên cạnh lắc đầu động viên em.
“Đừng để ý!”
Dù bị lỡ nhịp hoà tấu trong giây lát nhưng Hannah theo kịp lại ngay.
Khi hàng người cuối cùng tiến ra, hình ảnh một người phụ nữ đang ho lụ khụ và một người đàn ông lo lắng nhìn bà từ phía sau lọt vào mắt Hannah.
Không lẫn vào đâu được, đó chính là cha mẹ em.
Hannah mừng vui khôn xiết vì thấy cha mẹ vẫn còn sống, nhưng cũng không khỏi lo lắng cho người mẹ đang đổ cơn ho với cơ thể trông kiệt quệ.
Từ trước tới nay, em chưa thấy mẹ ốm đau thực sự bao giờ, nên cảnh tượng này lại càng làm em nóng ruột. Hannah muốn làm gì đó để cha mẹ chú ý tới em, khi đến nhịp đưa vĩ lên, em mạnh dạn hất vĩ lên cao rồi vẫy qua vẫy lại thật lực. Bố em hình như đã nhận ra cử chỉ quen thuộc của con, ông nói nhỏ gì đó vào tai vợ.
Mẹ Hannah suốt từ đầu chỉ cúi mặt xuống ho sù sụ, nhưng rồi bà cũng ngẩng được lên và cùng bố em nhìn về phía dàn nhạc. Tìm thấy bóng hình con, họ liền giơ tay vẫy.
“Hannah… Han…nah!”
Mẹ gọi lớn tên em, xen lẫn những tiếng ho.
Do đột ngột hít mạnh vào quá nhiều khí, mẹ Hannah lại ho khùng khục, phải cúi gập người trông rất khổ sở nhưng vẫn không chịu ngừng gọi tên con. Bố chỉ gào lên tiếng “Hannah” đúng một lần duy nhất rồi nở nụ cười rạng rỡ.
Hannah vui mừng khôn xiết.
Bố mẹ em mỉm cười, khẽ gật đầu. Thế nhưng, tên lính SS Hans đứng đó chứng kiến tất cả, hắn liền vác theo một thanh sắt dài, định dùng nó đánh bố mẹ Hannah vì tội la lớn tiếng.
Hannah giật mình, đánh rơi cây đàn violin xuống đất, em chạy ngay tới chỗ bố mẹ chẳng kịp nghĩ ngợi gì.
“Hans, xin ông dừng tay! Xin hãy dừng lại! Họ là bố mẹ tôi!”
Đó là tên Cận vệ Hans hôm trước Hannah đã thấy.
Bữa trước, lần đầu tiên Hannah nhìn thấy Hans là khi hắn liên tiếp giết chết một đứa bé vừa mới lọt lòng cùng với mẹ và bà đỡ, sau đó em còn nghe nhiều tin đồn nói rằng hắn được giao nhiệm vụ truy tìm và giết hại những người lao động đã trở nên yếu ớt.
Hắn nói chỉ dùng súng thôi thì thật tẻ nhạt, cho nên sở thích của hắn là đánh bằng gậy sắt đến khi người ta chết mới thôi. Vì thế, trong Trại tập trung, hắn được biết tới với cái tên “Con quỷ sát nhân Hans”.
Chỉ cần để Hans thấy bộ dạng yếu ớt là coi như chấm hết, hắn sẽ giết người đó theo cách mà hắn thích. Vậy nên, hễ thấy Hans đi vòng quanh dò xét là mọi người đều nén cơn ho, bôi đất đỏ lên má để có sắc hồng, cố sống cố chết tỏ ra khoẻ mạnh để thoát khỏi con mắt cú vọ của Hans.
“Mày nói gì?”
Hans hung hãn quay về phía Hannah với vẻ mặt của một con quỷ, như thể hắn muốn biết ai là kẻ dám phá ngang thú vui của hắn. Hắn định phó mặc mình cho cơn bực bội và đánh bầm dập kẻ dám mở mồm. Ít nhất thì trong đầu hắn cũng đã có suy nghĩ ấy.
Mẹ dùng hết sức bình sinh hét lớn khi thấy Hannah chạy đến.
“Đừng lại đây, Hannah!”
“Không được tới đây!”
Bố cũng xua tay lia lịa như muốn ngăn không cho Hannah tới gần.
“Là tại tôi ra hiệu cho hai người họ… Xin đừng đánh bố mẹ tôi!”
Đứng chắn trước Hans mình đồng da sắt là cô bé Hannah vang danh “Thiếu nữ thiên tài”, “Tiểu mĩ nhân” của Trại tập trung.
Đương nhiên Hans cũng biết đến những lời đồn về Hannah như bao kẻ khác, hắn có vẻ bất ngờ đôi chút khi thấy Hannah với thân hình gầy guộc run lẩy bẩy nhảy ra chắn trước mặt mình.
Hannah dang hai cánh tay tiến lên một bước như thể thách thức, “nếu muốn đánh hãy đánh tôi đi”.
Đương nhiên chẳng cần đến gậy sắt, Hans vẫn có thể dễ dàng bẻ gãy thân hình bé nhỏ ấy, nhưng bộ dạng dù run lẩy bẩy vẫn tiến về phía trước một cách quả cảm của Hannah dường như khiến Hans bớt hung hãn lại. Tuyệt đối không có chuyện hắn cảm động bởi tình cảm thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái, hắn chỉ đơn giản cảm thấy nếu đánh gục Hannah lúc này thì chẳng còn gì thú vị.
“… Hừ. Mày dám phá đám tao à?”
Nói rồi hắn cầm cây gậy sắt huơ huơ hai ba cái về phía Hannah như thể doạ nạt “lần sau sẽ tới lượt mày”. Tiếng sắt xé gió vun vút rít lên bên tai Hannah.
“Hannah…!”
Bố mẹ ôm chặt lấy Hannah.
Hannah gục trong vòng tay mẹ như thể sợi chỉ căng thẳng trong em đã đứt lìa. Bố ôm trọn lấy cả hai mẹ con. Không phải Hannah không hoang mang lạ lẫm khi thấy vòng tay mẹ, bộ ngực mẹ đã gầy tọp hẳn đi, nhưng đã lâu lắm rồi em mới được cảm nhận hơi ấm của cha mẹ, nên em buông một tiếng thở phào nhẹ nhõm.
“Vừa rồi chỉ bỏ qua cho Hannah thôi! Không được phá hàng lối. Đi mau lên.”
Hans nói và lại làm động tác vung cây gậy sắt.
Mẹ hình như định đưa cho Hannah một mảnh giấy nhưng lại từ bỏ ý định ấy và nắm chặt nó trong tay, quay trở về hàng. Bọn Kapo (những người Do Thái cũng là tù nhân nhưng giữ nhiệm vụ quản thúc các tù nhân khác theo lệnh của Đức Quốc Xã) lấy dùi cui đánh vào bắp chân bố mẹ Hannah như để trách phạt họ vì tội làm loạn hàng lối. Bố mẹ Hannah lại tiếp tục bước đi.
“Bố! Mẹ! Mẹ ơi!”
Hannah thét gọi bố mẹ khi họ dần dần đi khuất.
Khó khăn lắm mới gặp được bố mẹ, vậy mà lòng em tràn ngập nỗi buồn. Sống ở cùng một nơi mà em lại cảm thấy muôn trùng xa cách.
… Và rồi, đó cũng là hình ảnh cuối cùng của bố mẹ mà Hannah còn được thấy trong đời.
9.Buổi chiều khi đón đoàn người lao động cưỡng bức trở về, vì dàn nhạc nam ra biểu diễn nên Hannah không thể nào biết được ngày hôm đó cha mẹ em đã đi qua cổng Trại tập trung trong dáng vẻ nào.
Klaus và Leo trông thấy thi thể đầy máu của một người phụ nữ đã chết với cái đầu vỡ toác, cùng xác một người đàn ông có sáu lỗ đạn ở lồng ngực, bên cạnh thi thể của hàng chục người khác, được khiêng đi trên cáng ở phía cuối hàng người.
Chính là vợ chồng Janssen.
Ngay khi thấy hai vợ chồng Janssen trong bộ dạng thảm thương ấy, Klaus bỏ diễn tấu, đuổi theo tên Kapo canh chừng ở cuối hàng và túm cổ hắn.
“Tên kia, vợ chồng Janssen làm sao vậy?”
“Ta không biết tên ai là Janssen. Ở đây nếu ngươi đọc số thì may ra…”
“Cùng là người Do Thái mà ngươi nói được câu đó à? Là người phụ nữ với gương mặt đầy máu kia.”
Klaus đấm mạnh vào mặt tên Kapo.
Như vậy vẫn chưa đủ, khi tên Kapo đã ngã nhào xuống đất, Klaus liền nhảy lên cưỡi trên người hắn, tay túm lấy cổ áo hắn.
Klaus tuy tướng hình to lớn nhưng tính t