Chương 4 KLAUS VÀ HANNAH-1.
Ngày hôm sau, và ngày hôm sau nữa chẳng có gì thay đổi.
Ban sáng, dàn nhạc tiễn đoàn người đi lao động cưỡng bức, ngay sau đó họ tới nhà ga, một ngày đón không biết bao nhiêu lượt người bị đưa tới Trại tập trung. Buổi trưa, họ chơi các điệu Valse để nhấn chìm những tiếng thét thảm thiết ở giàn hoả thiêu. Chiều tối, họ trở về đón những người lao động ở cổng Trại, tối muộn hoặc đi biểu diễn cho quân SS với Kapo, hoặc viết nhạc phổ và tập luyện. Xoay trong vòng quay đó ai cũng bận rộn.
Càng bận rộn, họ càng không phải nghĩ ngợi nhiều, chỉ có những ngón tay cử động như máy móc, vì thế mà dễ sống hơn. Những người từng khóc lóc như Rosa hay Hannah giờ đây đã có thể sống ổn hơn qua từng ngày.
Sau một thời gian, Arles mới tới thăm Mary ở khu Bệnh xá.
Mary đã thoát khỏi nguy cơ bị sốt phát ban, chắc hẳn em sắp sửa hoàn toàn bình phục, Arles bắt đầu nghĩ ngợi tới công việc tập luyện sau khi Mary trở về.
Nhưng trong phòng bệnh không có bóng dáng một bệnh nhân nào cả, chỉ có những tấm ga giường đen cáu bẩn bị bỏ lại trên giường. Arles hoảng hốt, cô hét gọi tên Mary. Thấy người nữ y sĩ cô nhờ chăm sóc Mary đi vào phòng bệnh, Arles vội chạy tới và túm lấy vạt áo trắng của cô ta.
“Bác sĩ, Mary xảy ra chuyện gì vậy? Con bé đi đâu rồi?”
Nữ y sĩ vào phòng bệnh để kiểm tra chắc chắn không còn ai trong đó nữa nhưng lại gặp chuyện bất ngờ nên ấp úng trả lời.
“Mary á? À, Mary chơi violin. Con bé đó khoẻ lại hẳn rồi. Nhưng theo lệnh của bác sĩ thì tất cả mọi người đều sẽ bị đưa tới phòng hơi ngạt. Bây giờ chúng đang được cho lên xe đấy.”
Arles tái mét mặt. Cô buông tấm áo trắng của nữ y sĩ ra và chạy về hướng cô ta chỉ.
Phía cửa sau, những nữ bệnh nhân trần truồng đang bị bắt lên các chiếc xe chở hàng.
Mặc dù chắc chắn họ không được thông báo mình sẽ bị đưa tới phòng hơi ngạt, nhưng tất cả đều có vẻ mặt như thể đã nhận ra sứ mệnh của mình và hoàn toàn tuyệt vọng.
Arles lấy hết sức bình sinh hét lên.
“Mary!”
Mary quay lại.
May mắn làm sao lúc đó Mary chỉ vừa đặt tay lên tay vịn xe để chuẩn bị bước lên. Gương mặt Mary đẫm nước mắt, tóc tai bù xù dính cả vào mặt, Arles thoạt nhìn còn không biết đó có thật là Mary hay không. Mary vừa buông tay khỏi tay vịn, một tên Kapo đã chạm vào phần mông chẳng còn chút thịt nào của Mary để đẩy em lên xe.
“Khoan đã, Mary đã khoẻ rồi!”
Nói rồi Arles lao tới, xô mạnh tên Kapo ra.
“Bác sĩ, người như bà… Tôi từ nay về sau sẽ không biểu diễn bất cứ cái gì cho bà nữa. Như thế cũng được phải không? Trả Mary lại cho tôi!”
Mary trần truồng, bám vào lưng Arles, run rẩy khóc nấc lên.
Arles quàng hai tay che lấy cơ thể Mary.
“Đúng là một đứa may mắn.”
Bác sĩ buông một câu cụt ngủn. Tất cả hiểu Mary đã được cứu.
Thấy có người được cứu, tiếng khóc của những cô gái càng lớn hơn.
Như để gạt bỏ hết những tiếng kêu khóc ấy đi, Arles ôm lấy vai Mary và nhanh nhanh chóng chóng đưa em rời khỏi đó.
Cơ thể Mary gần như đã kiệt quệ, việc rời đi nhanh chóng có hơi quá sức với em, nhưng nếu không làm vậy Arles sẽ không thể gạt đi nỗi căm hận từ những cô gái không được cứu.
2.Chợt cô nghe thấy âm thanh.
Arles nhìn về phía phát ra âm thanh, dàn nhạc nam đang chơi bản “Hành khúc mừng hoàng đế Franz Joseph muôn năm” của Johann Strauss II. Để xoá tiếng kêu khóc từ chiếc xe tải chở người tới phòng hơi ngạt, họ cho cả dàn kèn trumpet ra.
Arles để Mary ngồi xuống rồi chạy về phía Klaus.
Âm thanh ở rất gần, chẳng ngờ quãng đường chạy lại thật xa. Dù vậy, Arles vẫn chạy. Nửa đường cô vứt cả giày, vừa chạy vừa hét lên với tất cả sức lực.
Nhận ra giọng Arles, Klaus giao lại gậy chỉ huy cho Leo rồi đi về phía mà cô từ đó chạy tới.
“Dừng lại đi, dừng khúc nhạc này lại. Dừng lại đi!”
Arles vấp ngã. Tay phải nắm lấy đám đất xung quanh và quăng tứ tung, cô gục khóc.
“Đừng chơi bản nhạc đó nữa. Xin anh đấy…”
“Arles, có chuyện gì thế? Tại sao người luôn giữ bình tĩnh như cô lại hoảng loạn thế này?”
Klaus quỳ xuống, Arles vừa khóc vừa đấm liên tục vào ngực ông bằng bàn tay dính đầy đất.
“Tôi vừa mới giương mắt đứng nhìn họ đi vào chỗ chết! Dù tôi ở vị thế có lẽ đã cứu được họ. Nhưng tôi không thể làm gì…!”
Cô hét lớn rồi sụp xuống khóc.
Klaus nhìn về phía bụi cỏ cách đó vài mét, ông thấy Mary bé nhỏ, không mảnh vải che thân, đang ngồi đó run rẩy khóc. Ông đã hiểu hết những gì vừa xảy ra.
Klaus hướng về phía dàn nhạc, giơ tay trái lên. Đây là dấu hiệu dừng lại.
Leo vung gậy chỉ huy sang trái rồi sang phải, cậu cho dừng bản nhạc giữa chừng.
Trong lồng ngực của người phụ nữ nhỏ nhắn này đã từng có sức mạnh để vượt lên nỗi đau khổ lớn tới mức nào vậy. Thứ sức mạnh ấy giờ đây đang cất tiếng và vỡ vụn ra mất rồi.
Klaus ôm chặt lấy Arles.
“Phải rồi, mau đưa cái này cho cô bé.”
Klaus cởi chiếc áo choàng dùng trong biểu diễn ra đưa cho Arles.
Không một ngòi bút nào có thể diễn tả hết sự thảm khốc của sự kiện này.
Bảy nghìn nữ bệnh nhân bị nhét vào hai nhà trại, họ gào khóc đến kiệt sức, nửa điên nửa tỉnh trong suốt hai tuần chờ đến lúc bị đưa vào phòng hơi ngạt.
Việc vận chuyển người đến phòng hơi ngạt mất tới hai ngày, cả ngày lẫn đêm tiếng động cơ xe và tiếng thét gào kêu cứu bay lên cùng làn khói trải khắp bầu trời Auschwitz.
Kể từ đó, Arles càng dấn mình sâu vào thế giới âm nhạc để chạy trốn.
Cô làm việc suốt cả một ngày, đêm đến cô như kẻ mộng du, tìm kiếm bản nhạc rồi biên soạn lại chúng, những đêm ngày không ngủ cứ thế liên tiếp trôi qua.
Dường như cô đang bị một thứ gì đó ám ảnh. Cô quay trở về con người khắt khe trong luyện tập như trước khi Hannah đến, nếu không vừa lòng cô sẽ bắt dàn nhạc chơi đi chơi lại nhiều lần.
Cô bị tổn thương nặng nề, đôi mắt vô hồn không còn nhận biết gì về hiện thực nữa, như thể cô đang dạo chơi trong thế giới âm nhạc mỗi ngày.
Một ngày, khi Arles không tới buổi tập sáng, thấy lạ, Hannah đến phòng cô.
Arles nằm trên giường, người nóng hầm hập.
Hannah gọi mọi người đưa Arles tới bệnh xá, nhưng cô cứ thế lịm dần rồi ra đi mãi mãi.
Cô đã kết thúc một cuộc đời đầy kiêu hãnh, tuyệt đối không khuất phục, khiến lính SS Phát xít phải tôn trọng mình, một cuộc đời được âm nhạc cứu rỗi.
“Buộc cái này vào gậy chỉ huy có được không?”
Mary xoè bàn tay đưa ra một vật giống như miếng vải nhăn nhúm. Vật đã bị phai màu ấy dường như là một dải ruy băng, có lẽ là thứ Mary đã giấu đem theo bên mình.
“Em chỉ làm được đến thế thôi…”
Mary là học trò mà Arles chỉ bảo nghiêm khắc nhất. Arles đã từng đứng lên che chở bảo vệ Mary, nên ai cũng hiểu Arles không làm vậy vì thù hận. Nhưng quả thật cô thường gay gắt tới mức bất cứ người nào cũng chợt có lần nghĩ cô đã nghiêm khắc thái quá với Mary.
Nhưng Mary rất hiểu, Arles nghiêm khắc với em là bởi cô lo sợ người ta sẽ đưa em vào phòng hơi ngạt bất cứ lúc nào nếu em không nhanh tiến bộ.
Mary tự tay thắt dây ruy băng thay chiếc băng tang lên gậy chỉ huy của Arles Bizet.
3.Kể từ đó Klaus trở thành tổng chỉ huy cho cả dàn nhạc nam và nữ.
Và rồi…, đến một ngày xe lửa không còn tới nữa, khói từ giàn hoả thiêu cũng không còn bốc lên.
Ai nấy đều cảm nhận được chắc hẳn đang xảy ra một sự đổi thay nào đó phía bên ngoài Trại tập trung. Đúng lúc ấy dàn nhạc nhận được lệnh mặc phục trang để chuẩn bị biểu diễn.
Lát sau, họ được dẫn vào sân phía trong của khu hoả táng và thấy những tù nhân bị bắt làm trong đội hoả thiêu đã tập trung ở đó.
Trong suốt một thời gian dài, những người này đã phải làm công việc đẩy đồng loại của mình vào phòng hơi ngạt, rút những chiếc răng vàng, cạo lấy tóc từ những thân xác vô hồn trở ra, liên tục ném những xác người vào trong lửa. Và để vĩnh viễn bịt miệng các tù nhân ấy, cái ngày người ta bắt họ bước theo con đường của những người đã chết cuối cùng đã tới rồi.
Họ biết mình sẽ được nghe những giai điệu cuối cùng trên dương thế.
Dàn nhạc biểu diễn cho họ nghe liền một tiếng đồng hồ, sau đó tù nhân mã số B54678 đại diện tiến đến bắt tay Klaus và toàn bộ thành viên dàn nhạc.
Các thành viên đội hoả thiêu đều sụt sịt khóc, nhưng khi bắt tay dàn nhạc trên môi họ luôn là những nụ cười. Người tù nhân nắm chặt tay từng thành viên trong dàn nhạc như thể gửi lời chào tạm biệt kiếp này. Không tìm ra từ ngữ nào để đáp lại, các thành viên dàn nhạc chỉ biết lặng im nắm lấy vai anh ta và gật đầu chào.
“Anh Klaus, mọi người, cảm ơn mọi người. Nhờ có màn biểu diễn của các bạn mà chúng tôi đã quên đi nỗi sợ hãi. Những thứ này, chúng tôi có giữ cũng chẳng làm được gì. Thôi thì, trước khi lính SS tới, mọi người hãy cầm lấy.”
Họ đưa cho dàn nhạc những thứ lấy được từ các xác chết ra làm quà tặng, bởi họ biết giờ đây chúng chẳng còn ý nghĩa gì với bản thân mình.
Biết đó là những món đồ trộm cắp, mọi người cảm thấy ái ngại không dám nhận, nhưng nghĩ lại thì đây âu cũng là thành ý của những tù nhân kia nên chẳng có lí do gì để từ chối.
Dàn nhạc nhận ra đây là lần đầu tiên họ chơi nhạc để xoa dịu tâm hồn của những người tù nhân ở cùng vị trí với mình, một cảm xúc ấm áp trào lên trong lòng họ.
Chiều hôm đó, Trại trưởng lảo đảo tự tìm tới phòng âm nhạc.
Viên Trại trưởng say mèm, lè nhè nói với Klaus.
“Công việc giết chóc kết thúc rồi. Hãy cho tôi nghe nhạc.”
Tất cả thành viên dàn nhạc chơi bản “Ave Maria” theo đúng nguyện vọng của Trại trưởng.
Cuối cùng, những giọt nước mắt lăn dài trên má y, y lấy tay che chúng lại.
Nhìn cảnh đó Klaus biết mọi chuyện đã kết thúc, tất cả sẽ có được tự do. Đồng thời ông cũng thấy rằng, phải chăng những chủ nhân của chốn này cũng luôn chờ đến ngày được giải phóng khỏi cái địa ngục do chính chúng tạo nên.
Chẳng bao lâu sau, việc rút quân khỏi Trại tập trung bắt đầu.
Các thành viên dàn nhạc bị gọi đi mỗi người một nơi, họ không còn cơ hội được gặp lại bạn bè nữa, chỉ trong ngày hôm đó đã có vô vàn số mệnh mới được sắp đặt cho họ.
Chẳng biết từ lúc nào, họ đã ôm trong lòng nỗi sợ với việc được trả tự do, họ sẽ bị chia tách khỏi những người bạn của mình. Giữa những thành viên dàn nhạc là mối dây liên kết hình thành sau một thời gian dài sống trong hoàn cảnh đặc biệt, nguy hiểm tính mạng rình rập sau lưng, cùng nhau vượt qua đau thương và buồn khổ. Vậy mà hiện thực trớ trêu, từng người từng người một cứ thế biến mất từ lúc nào không rõ.
Klaus xông vào phòng Trại trưởng.
“Ông định đưa dàn nhạc đi đâu? Dù có rút khỏi nơi này đi nữa, tại sao họ lại bất chợt biến mất như thế!”
“Klaus, cậu làm tốt lắm. Cảm ơn cậu đã hết lòng làm việc vì Đức Quốc Xã chúng ta. Ngày mai, cậu cũng về Berlin luôn đi. Tôi sẽ sai cấp dưới tiễn cậu tới nửa đường, còn thì tôi cũng không biết Berlin giờ ra sao nữa…”
“Tôi không làm việc vì Đức Quốc Xã. Tôi là chỉ huy dàn nhạc, ít nhất tôi cũng muốn tiễn họ. Tôi muốn ông để tôi ở lại tới phút cuối cùng, và chỉ cho tôi nơi họ phải đến.”
“Như vậy không được, Klaus. Sáng sớm mai cậu sẽ xuất phát. Chúng tôi sẽ giữ cậu ở đây cho tới sáng mai.”
Trại trưởng ngậm điếu thuốc lá, hất cằm ra hiệu cho mấy tên lính SS đưa Klaus đi.
“Ông làm gì… Dừng lại ngay. Chuyện này là thế nào!?”
Klaus bị hai tên SS khoá tay lôi đi xềnh xệch rồi bị nhốt vào phòng biệt giam.
Sáng hôm sau, Klaus thấy một chiếc xe ô tô đen rất to giống với cái đã đưa ông tới đây đang chờ sẵn. Trại trưởng cùng đám lính SS đứng nhìn Klaus rời khỏi cổng Auschwitz.
Trong lòng Klaus vẫn đau đáu về số phận những thành viên dàn nhạc…
4.Lính Đức rút khỏi, một phần cơ sở của Trại tập trung bị phá huỷ để xoá bỏ chứng cứ.
Không rõ Edyth, Rosa, Mary ra sao, Leo và Hannah sau đó bị đưa tới Trại tập trung Bergen-Belsen, nằm ở vị trí xa hơn về phía Bắc trong lãnh thổ Đức.
Nơi này còn chẳng so sánh được với Auschwitz.
Do không có lò thiêu nên người chết bị bỏ mặc, không có bánh mì cũng không có phòng bệnh, những khu trại không có mái che, mưa dột thẳng xuống, có điều đây lại là nguồn nước tuy ít ỏi nhưng cần thiết để giúp con người có thể kéo dài sự sống. Gọi nơi này là nơi gần nhất với cái chết cũng chẳng quá lời.
Không biết còn bao nhiêu ngày nữa mới đến ngày được giải phóng, nhiều người có triệu chứng bị mất nước và bỏ mạng.
Hannah tìm kiếm Leo trong miền kí ức đang dần nhạt nhoà đi của mình.
Em nhớ về các bí kíp trong tình yêu mà ngày xưa em và chị gái từng nói chuyện…
Em có cảm giác rằng chẳng cần phải ở trong cung điện nguy nga, em đã hiểu đầy đủ về cách yêu của Mozart ngay tại Auschwitz.
Trong đầu em văng vẳng “Bản hoà tấu violin số ba”.
Em nhớ về sự thanh thản khi chơi bản nhạc ấy, nhớ về niềm vui khi gửi đi những tín hiệu tình yêu từ vị thế của một nữ nhân, nhớ về những ngày mà trái tim em mang theo muôn vàn xúc cảm của một người con gái bình thường. Thế rồi những kí ức và cảm xúc đó dường như tự nhiên tan biến vào làn sương mù trắng xoá.
Em chợt tỉnh khỏi cơn mê rồi lại chìm vào nó.
Kì lạ làm sao, trong giấc mơ ấy, người luôn xuất hiện không phải cha mẹ em hay ai khác, mà lại là Leo.
“Có ai còn sống không?”
Đột nhiên em nghe thấy giọng nói rất lớn của vài người đàn ông.
Tiếng gọi trong làn sương mờ ảo dần tiến lại gần, cuối cùng nghe thấy rõ mồn một ngay bên cạnh.
Hannah mở mắt như vừa sực tỉnh.
Em cố gắng cử động nhưng không thể nhúc nhích dù chỉ một chút. Hannah nghĩ cuối cùng cũng đến lúc người ta giết mình rồi, nhưng đúng giây phút này em chẳng sợ chết, em chỉ muốn được nhẹ nhõm mà thôi.
Em mong họ nhanh chóng giết mình, chỉ cố cử động con ngươi trong đôi mắt đang mở lớn.
Dù muốn cất tiếng kêu nhưng cổ họng em khô rát và chẳng có âm thanh nào phát ra cả.
Em nhận ra những giọng nói vang lên gần mình không phải là tiếng Đức, em ngờ ngợ phải chăng có ai đó đến cứu mình, nhưng em thậm chí đã chẳng còn sức lực để tiếp nhận niềm hi vọng ấy.
“Có người sống!”
Một người đàn ông tìm thấy Hannah vẫn đang nhắm mở mắt liên tục liền hét lên với ai đó.
Người đàn ông đỡ lấy Hannah, cố gắng đổ nước vào miệng em, khổ nỗi sức lực để uống nước em cũng không còn nên nước cứ thế trào hết qua khoé miệng.
Hannah chỉ cảm nhận được dòng nước lạnh, và riêng điều đó thôi cũng đủ khiến em thấy như mình được sống lại rồi. Người đàn ông ngậm nước trong miệng mình rồi mớm sang cho em từng chút, từng chút một.
Việc đó lặp lại tới lần thứ ba, chiếc mũ của lính Anh cuối cùng đã phản chiếu trong đôi mắt trống rỗng của cô bé.
“Chúa ơi…”
Từ khoé mắt Hannah, dòng nước mắt trào ra lăn dài xuống má.
Người lính Anh vui mừng, vừa lặp đi lặp lại rằng Hannah đã được cứu, anh ta vừa dựng Hannah ngồi thẳng lên một chút, đặt lưng em tựa vào đùi của mình.
Anh lính dùng miệng mở nắp bi đông của chính mình, đổ nước vào miệng Hannah, và em cứ thế uống một cách say sưa. Hannah uống nhiều đến nỗi suýt bị sặc, cơ thể em hồi phục tới mức có thể cử động được ít nhiều.
Rồi cứ thế em được đoàn lính khiêng đi, khi tỉnh dậy em thấy mình đang được truyền nước trong phòng bệnh.
5.“Em đã được tự do rồi.”
Viên bác sĩ người Mỹ tiến tới nhẹ nhàng nói với em.
Cùng với sự vui mừng là một nỗi buồn đau lớn lao ập tới vây quanh Hannah. Cha mẹ và chị gái em đã mất rồi, em trai và ông giờ không biết ra sao. Em chỉ còn lại một mình.
Nằm trên giường bệnh và được truyền dịch, Hannah cất tiếng khóc oà. Em không rõ từ giờ mình phải sống ở đâu, sống thế nào nữa.
“Tên em là gì?”
Dường như bác sĩ đang hỏi điều gì đó, em không hiểu ngôn ngữ của ông. Đoán rằng có lẽ ông ấy đang hỏi tên mình, Hannah đáp lại.
“Hannah. Hannah Janssen. Klaus, ông có biết Bürger Klaus không?”
Người bác sĩ ghi chép gì đó rồi rời khỏi giường bệnh.
Khoảng hai ngày sau, vợ chồng Klaus tới phòng bệnh thăm Hannah. Nhìn thấy Hannah gầy đến mức chỉ còn da bọc xương, bà Klaus gục xuống khóc.
“Con đã phải chịu những khổ đau khủng khiếp đến nhường nào. Chồng ta đã kể ta nghe hết tất cả rồi. Cô gái bé bỏng của ta… Con giỏi lắm.”
Vợ chồng Klaus luôn ở bên cạnh giường bệnh của Hannah cho tới lúc em có thể ăn được. Sau đó, một lần nữa Hannah lại trở về nhà Klaus nương nhờ.
Nhưng, nhà Klaus là nơi chất chứa quá nhiều kỉ niệm của cả gia đình Janssen.
Khi nhìn thấy chiếc đàn nhỏ của Andrew, Hannah vô thức bỏ chạy ra khỏi căn nhà.
Chỉ cần nghe thấy tiếng nhạc là Hannah bịt tai lại và hét ầm lên. Chiếc đàn violin của em cũng đã được trả về toàn vẹn, nhưng em không mở nắp hộp đàn lần nào nữa.
Có thể thấy rõ rằng tinh thần em đã hoàn toàn suy sụp.
Vì Hannah, bà Klaus thay đổi tất cả những thứ đập vào mắt, chẳng hạn như rèm cửa, thảm trong bếp, thậm chí là vị trí các đồ vật gia dụng trong nhà. Nhưng Hannah cứ liên tục vò đầu bứt tóc từ cổng vào, hét toáng lên và đứng chôn chân một chỗ.
Thấy Hannah vẫn bị giam cầm trong nỗi sợ, bà Klaus ôm ghì em vào lòng.
“Chiếc xe màu đen đang tới. Nó tới để bắt con.”
Hannah run rẩy trong vòng tay bà Klaus, lặp đi lặp lại những lời như mê sảng.
“Hannah.”
Bà Klaus chỉ biết kêu lên thảng thốt trước tình trạng của Hannah.
Ông Klaus thay vợ mình ôm lấy Hannah đang hoảng sợ tột độ.
“Không có ai đến bắt chúng ta nữa. Hannah, mọi việc kết thúc rồi.”
Klaus thuê tầng hai của một khu tập thể gần nhà làm phòng cho Hannah ở.
Ông treo rèm cửa ren màu hồng, và trang trí căn phòng với nhiều màu sắc ấm cúng, sáng sủa nhất có thể. Và rồi, ông đặt hộp đàn violin của Hannah trong một góc hành lang gần cửa ra vào.
Cuộc sống mới của Hannah đã bắt đầu.
Bà Klaus rủ Hannah xuống phố đi mua sắm với mong muốn em mau chóng trở về với cuộc sống bình thường.
Khi xuống phố, âm nhạc phát ra từ khắp các cửa hàng. Mặt Hannah dần dần tái đi, cơn buồn nôn chóng mặt ập đến, khiến em khuỵu xuống. Bà Klaus cảm thấy tình trạng có vẻ nguy kịch liền đưa Hannah tới gặp bác sĩ thần kinh.
Vị bác sĩ phụ trách đưa bà Klaus và Hannah vào phòng khám.
Ông để bà Klaus ngồi ở ghế chờ phía sát tường phòng khám và yêu cầu bà hãy theo dõi buổi nói chuyện của ông với Hannah. Ông nghĩ cách làm đó giúp cho người bảo hộ có thể biết được những thông tin quan trọng từ chính bản thân người bệnh.
Sau khi thăm khám một lượt, bác sĩ lấy ra một băng ghi âm.
“Hannah, theo như lời phu nhân Klaus nói, cháu bị mắc chứng sợ hãi với âm thanh. Cháu đã phải trải qua một hoàn cảnh đặc biệt trong suốt thời gian dài. Vì cháu đột ngột thoát khỏi những căng thẳng hằng ngày lúc trước nên ngược lại, cháu bị rối loạn thần kinh tự trị. Tuy nhiên, cháu không cần phải lo lắng. Nhất định một lúc nào đó cháu sẽ tìm lại được bản thân. Bây giờ, để tìm xem những âm thanh nào khiến cháu khó chịu, ta sẽ bật cái băng này lên. Nếu cảm thấy khó chịu, cháu hãy giơ tay phải lên nhé.”
Tiếng chim hót, tiếng sông chảy róc rách, tiếng ồn ào xe cộ…
Chỉ sau một lát, Hannah thấy buồn nôn và giơ tay phải.
Tiếng trẻ con chơi đùa, bản “Tiếng xuân” của Johann Strauss II…
Hannah lập tức bịt tai lại, hét lớn, em đứng bật dậy khỏi ghế, chạy ngay tới chỗ bà Klaus đang ngồi ở góc phòng khám, rồi úp mặt vào đầu gối và oà lên khóc.
Nhìn tình trạng ấy, bà Klaus chầm chậm lắc đầu, khoé miệng run run, bà ôm chầm lấy Hannah và vỗ nhẹ lên mái tóc của cô bé.
“Thưa bác sĩ, đứa trẻ này lúc đương tuổi dậy thì đã phải trải qua nỗi khổ đau khủng khiếp vượt ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Người Đức chúng ta từ nay về sau phải làm sao để bù đắp cho những con người như vậy?”
“Một chuyện khó khăn thưa phu nhân. Chúng ta đang nhắm mắt trước lịch sử. Nói như vậy có nghĩa là chính chúng ta cũng đang tổn thương về tinh thần. Từng người chúng ta phải biết nỗ lực không nhắm mắt làm ngơ và nâng cao nhân tính trong mình để chuyện này không bao giờ xảy ra nữa. Không, không chỉ riêng người Đức. Nếu có cơ hội khiến tất cả con người trên khắp thế giới cùng suy ngẫm về điều đó, thì nhất định mọi người sẽ nghĩ xem mình phải làm gì để thế giới được hoà bình, bởi vì con người không hề ngu ngốc.”
Vị bác sĩ cũng rất đau lòng khi chính bản thân mình là một người Đức.
“Để làm được điều đó, chúng ta không thể làm ngơ mà cần phải vạch trần tội ác diệt chủng do Phát xít gây ra. Có điều, tất cả những người Do Thái và Ba Lan tới chỗ tôi, họ không có ý định nói nhiều về quá khứ. Cần phải có thời gian. Hối thúc ngay lúc này e rằng sẽ không hay. Việc tôi có thể làm hiện nay chỉ là cố gắng chữa trị cho cô bé Hannah đang ở ngay trước mắt.”
Bà Klaus vẫn ôm lấy Hannah, bà vừa gật đầu lia lịa vừa rơi nước mắt.
“Vâng, vâng. Đúng là vậy, thưa bác sĩ. Nhất định Hannah sẽ khỏi thôi…”
6.Nhưng mãi mà họ vẫn không tìm ra cách nào giúp Hannah hồi phục. Chỉ có ngày tháng cứ thế trôi đi.
Hannah vẫn đóng cửa sổ và rèm từ sáng, mỗi ngày đều sống trong căn phòng tách biệt không tiếng động. Bà Klaus ngày ngày mang đồ ăn tới, bà còn cầm theo mấy tờ tạp chí không liên quan gì đến những chuyện đã diễn ra và đọc cho em nghe.
Hannah vẫn lui tới chỗ bác sĩ mỗi ngày, khi đi em luôn nút tai lại.
Họ chỉ nói những câu chuyện vô thưởng vô phạt và thế là buổi điều trị kết thúc.
Cuộc sống khép kín với thế giới của Hannah trôi qua được hai tháng, bà Klaus bắt đầu nghĩ dường như Hannah đã khuây khoả được chút ít rồi chăng, bởi có một hôm, khi bà tới thăm, Hannah đã nói chuyện với đôi mắt sáng lên lấp lánh.
“Cô Klaus, cứ đến sáng là lại có mùi thơm lắm.”
“Ừ, đúng rồi đấy, Hannah. Ở gần đây có một xưởng bánh mì. Những chiếc bánh mới ra lò có mùi thơm lắm đấy. Ngày mai con có muốn đi ra đó cùng ta không? Ngay gần đây thôi.”
Bà Klaus mừng rơi nước mắt. Bà mau chóng trở về nhà rồi lập tức gọi điện cho bác sĩ.
“Vậy à, vậy là trái tim Hannah đã bắt đầu hướng ra thế giới bên ngoài rồi. Tạm thời phu nhân cứ để cô bé đeo bịt tai đi đến xưởng bánh mì xem sao.”
Dù là qua điện thoại nhưng bà Klaus nhận thấy bác sĩ dường như cũng rất vui mừng.
“Tôi hiểu rồi. Tôi sẽ liên lạc lại ạ.”
Sáng hôm sau, Hannah cùng bà Klaus đến thăm xưởng bánh từ sớm.
Từ xưởng bánh phía bên kia đường, mùi bột mì được nướng, mùi bơ và mùi mứt ngọt toả ra ngào ngạt. Người thợ bánh trong xưởng lôi những chiếc bánh mì ra khỏi lò, bọc một cái vào giấy rồi đưa cho Hannah.
“Đây, một chiếc vừa ra lò. Tiểu thư cẩn thận kẻo bị bỏng.”
“Bánh mì vốn nóng và mềm thế này ạ? Thơm quá.”
Hannah cắn thử một miếng.
“Ôi. Ngon quá, chú à. Con có thể mua năm cái về không ạ? Cô Klaus?”
“Hannah muốn mua bao nhiêu cũng được. Cô cũng mua năm chiếc về.”
“Được rồi, tổng là mười cái. Tiểu thư, cô lại đến đây nhé, bất cứ lúc nào cũng được.”
“Cảm ơn chú ạ.”
Hannah mỉm cười.
Vậy là em mua năm chiếc bánh mì bơ mang về phòng. Bà Klaus vừa vào tới phòng liền tiến lại buộc chếch một bèn tấm rèm hồng lên và mở hé cửa sổ.
“Hannah, con đến bên cửa sổ đi nào. Mùi từ tiệm bánh vẫn còn phảng phất tới tận đây này. Cứ tầm này mà mở cửa sổ ra là con sẽ được tận hưởng mùi thơm ấy.”
Hannah rụt rè tiến về phía cửa sổ, tới nơi em hít một hơi thật sâu. Một mùi thơm ngọt ngào theo cơn gió xuân dịu dàng lọt vào qua cửa sổ.
Kể từ hôm đó, cứ tám giờ sáng Hannah lại mở hé cửa sổ phòng.
Một ngày nọ, Hannah vừa nhâm nhi chút bánh mì bơ vừa ngắm nhìn quang cảnh đường phố từ ô cửa sổ hơi hé mở, đúng lúc đó một chú bồ câu trắng đậu lại trên khung cửa và nhìn về phía Hannah.
Gù, gù, gù.
Con chim rung rinh cổ họng, cất tiếng kêu.
Hannah bẻ một chút bánh mì đặt lên lòng bàn tay. Chú chim bồ câu vươn cổ ra mổ lấy mẩu bánh rồi đập cánh phành phạch bay đi mất.
Bắt đầu từ hôm đó, cứ tám giờ hơn, con chim bồ câu trắng lại tới cửa sổ phòng Hannah.
Hannah đặt tên cho chú chim là “Gù Gù”.
“Tên ngươi sẽ là Gù Gù. Ngày mai hãy đến nữa nhé. Ta sẽ mua sẵn bánh mì.”
Gù Gù đã giúp cánh cửa trái tim đang khép kín của Hannah rộng mở. Cùng với chú chim Gù Gù, Hannah không còn bận tâm tới tiếng xe ô-tô bên ngoài nữa. Chẳng biết từ bao giờ Hannah đã có thể tự mình đi tới tiệm bánh mì mua bánh cho Gù Gù, em cũng không còn phải bịt tai nữa.
“Bác sĩ ơi, Hannah đã làm bạn được với con chim bồ câu vẫn đều đặn tới phòng con bé mỗi ngày. Nhờ thế mà bây giờ con bé đã có thể tự đi ra ngoài một mình mua bánh mì cho chú chim ấy rồi, bác sĩ ạ.”
Bà Klaus vui mừng báo ngay cho bác sĩ qua điện thoại.
“Vậy à, vậy thì tốt quá. Nhưng, chúng ta không thể đoán trước được chuyện gì đâu, thưa bà. Hãy trông chừng cô bé thêm một thời gian nữa.”
Tuy nhiên, khi Hannah ra phố mà bỏ miếng nút tai, em vẫn không thể tiếp nhận được âm nhạc, cô bé phải bịt tai lại để không nghe thấy âm thanh phát ra từ những chiếc đĩa và ngồi thụp xuống ở giữa đường.
Chính bản thân Hannah cũng thấy rằng chuyện này hoàn toàn không ổn. Nhưng dù có nóng vội thế nào thì cơ thể Hannah vẫn một mực không chịu tiếp nhận âm nhạc.
Cho tới một ngày, Hannah dồn hết quyết tâm tự mình xin đi nghe hoà nhạc. Em nghĩ rằng biết đâu mình sẽ khỏi bằng liệu pháp gây sốc tinh thần.
“Không được. Không việc gì phải vội cả. Nhất định một điều gì đó sẽ tới với cháu như khi cháu gặp chú chim bồ câu…”
Bác sĩ không đồng ý, nhưng với suy nghĩ phải làm gì đó để cải thiện tình trạng của bản thân, Hannah không chịu nghe theo lời ông mà đã đi tới buổi hoà nhạc.
Em chọn ngồi dãy ghế cuối cùng, nơi không phải nhìn thấy dàn nhạc.
“Eine Kleine Natchtmusik”* của Mozart được chơi mở màn. Hannah đang đeo miếng bịt tai nhưng một chút âm thanh vẫn lọt vào tai em qua kẽ hở, nhờ vậy mà em biết dàn nhạc đang chơi bài gì. Bóng hình những nhạc công phản chiếu trong màu nâu tối, cứ như sự vật ở một thế giới khác xa xôi.
Chu thich: Tiểu Dạ khúc (Serenade số mười ba cho đàn dây trên cung Sol trưởng), một trong những Serenade tiêu biểu nhất của Mozart, sáng tác năm 1787 tại Vienna.
Bản nhạc thứ hai họ chơi là “Giai điệu trên dây Sol” * của Bach*. Nhận ra đây là bản nhạc mà mẹ thích, Hannah hơi nhấc bịt tai ra. Âm thanh chạm gần tới Hannah hơn, nước mắt em tự nhiên rơi xuống.
Chu thich: “Air on G String”, tác phẩm phỏng theo chương II của bản giao hưởng hợp xướng cung Rê trưởng số ba của Bach. Cuối thế kỉ 19, một nghệ sĩ piano tên August Wilhelm đã cải biên lại, cách biên soạn của ông giúp ông có thể chơi một phần bản nhạc chỉ với dây Sol của đàn violin.
Chu thich: Tên đầy đủ là Johann Sebastian Bach (1685-1750), nhà soạn nhạc, nghệ sĩ organ, violin, contrabass, piano người Đức.
Em có thể nghe được.
Em có thể nghe được nhạc. Khi nhắm mắt, Hannah có thể cảm nhận giai điệu từ những âm thanh.
Tuy không có đủ dũng khí để tháo hẳn nút tai, em vẫn nhắm mắt, cảm nhận âm thanh, nhớ về những tháng ngày hạnh phúc thời thơ bé. Em nghĩ tới Andrew, đứa em trai nhỏ đến nay vẫn chẳng có manh mối gì. Em hiểu, có lẽ cả Andrew và ông đều đã không còn trên cõi đời này nữa. Em cũng biết mọi người xung quanh chắc đã biết chuyện nhưng không ai đành lòng nói cho em. Tuy nhiên, chính bản thân em cũng không muốn nghe cái kết cục đúng như mình dự đoán nên em đã không dám hỏi han bất kì ai.
Chiếc nút tai bên trái được nới lỏng ra ban nãy bỗng rơi bộp xuống nền nhà, đột nhiên, Hannah nghe thấy bản “Hành khúc Radetzky” vang lên với âm lượng cực lớn.
Hannah bịt chặt tai lại, gào lên thật to rồi ngất lịm.
Cả hội trường náo động trước sự cố vừa xảy ra, buổi biểu diễn bị hoãn lại. Hannah được đưa tới bệnh viện trên xe cứu thương, vợ chồng Klaus cùng vị bác sĩ điều trị cho em vội vàng tới bệnh viện. Hannah được tiêm một liều thuốc an thần mạnh và chìm vào giấc ngủ.
7.Kể từ đó, Hannah không tới chỗ bác sĩ điều trị nữa, em cũng không tới cửa hàng bánh mì, cửa sổ phòng em lại một lần nữa bị đóng chặt.
Không thèm chải chuốt mái tóc, suốt cả một ngày Hannah chỉ đi lại loanh quanh trong phòng với bộ đồ ngủ như người mắc chứng mộng du. Bà Klaus có đem đồ ăn đến cũng không tìm được bất cứ cơ hội nào để trò chuyện với Hannah, đành phải miễn cưỡng ra về. Trái tim Hannah đã khép chặt hoàn toàn.
“Phu nhân Klaus, cứ thế này tình trạng của Hannah sẽ chỉ càng ngày càng xấu đi. Thứ lỗi cho tôi, xin bà hãy trộn chút thuốc này vào bữa trưa của cô bé. Sau đó một tiếng, nhờ bà mở khoá phòng Hannah.”
Bác sĩ đề nghị bà Klaus nghiền thuốc tác động tâm thần thành bột rồi trộn vào thức ăn bà nấu cho Hannah. Nói xong, bác sĩ trao thuốc cho bà.
“Vâng, tôi hiểu. Xin nhờ cậy cả vào bác sĩ.”
Sau khi ăn, mắt Hannah mờ đi, chân bắt đầu lảo đảo, vì vậy em mới chịu nằm xuống giường.
Vị bác sĩ cầm theo một chiếc đài đọc băng, cùng với vợ chồng Klaus nhẹ nhàng bước vào phòng Hannah. Căn cứ vào những lời tường thuật về tình hình của Hannah tại buổi hoà nhạc, bác sĩ đã thu bản “Giai điệu trên dây Sol” vào băng, ông lại gần gối Hannah và bật nhạc với âm lượng nhẹ nhàng.
Vợ chồng Klaus đứng đó trông chừng.
Từ khoé mắt Hannah, nước mắt chảy xuống gò má.
Vị bác sĩ kề sát mặt mình bên cạnh Hannah, ông quan sát kĩ từng cử động nhỏ trên gương mặt cô bé. Vẫn nhắm mắt, Hannah bắt đầu nói với bác sĩ.
“Bác sĩ, cháu xin lỗi. Cháu không biết mình phải sống thế nào nữa. Cháu ước gì lúc đó mình được chết cùng mọi người.”
“Hannah…”
Nghe thấy vậy, vợ chồng Klaus liền đưa khăn mùi xoa lên thấm khoé mắt.
“Bác rất hiểu những gì cháu nói. Không chỉ mình Hannah bị thế này. Cháu được chọn để sống. Có việc cháu cần phải làm.”
Bác sĩ gõ nhẹ lên ngực Hannah và nói.
Do tác dụng của thuốc mà Hannah cảm thấy giọng nói ấy như đang vọng lại từ nơi xa, tựa lời răn từ trên trời cao dội xuống.
“Hôm nay cháu hãy ngủ thật ngon, ngày mai tất cả chúng ta hãy cùng tới Auschwitz. Nơi đó là khởi điểm cho con tim của cháu. Hãy trở lại điểm khởi đầu ấy một lần nữa và nhìn sâu vào trong trái tim mình. Nhất định sẽ có điều gì đó được sinh ra từ nơi ấy.”
“… Chúa ơi… con sợ lắm…”
“Có gì mà sợ chứ. Tất cả chúng ta sẽ cùng đi.”
Bà Klaus ngồi xuống bên cạnh Hannah, nhẹ nhàng vuốt trán và tóc em.
Nước mắt lại chảy dài xuống má Hannah. Đôi mắt vẫn nhắm nghiền, Hannah khẽ gật đầu.
Đã lâu rồi Hannah mới lại ngủ sâu đến thế, em đón buổi sáng với tâm trạng nhẹ nhõm đến lạ kì.
Trước giờ em vẫn dùng rèm cửa để chắn ánh sáng mặt trời, nhưng ngày hôm ấy rèm cửa đã được tháo ra nên ánh mặt trời rọi thẳng vào gương mặt Hannah, ánh sáng chói chang làm em thức giấc.
Em nghe như có ai đó thì thầm bên tai mình “Hãy về lại Auschwitz”. Nghĩ đi nghĩ lại, em vẫn không hiểu nổi vì sao chính bản thân mình lại có suy nghĩ ấy. Nhưng cũng chẳng rõ tại sao, trong lòng Hannah không lạ lẫm cũng không sợ hãi, trái lại, em còn thấy mình hơi hơi muốn đến Auschwitz là đằng khác.
Một lúc sau, vợ chồng Klaus bước vào phòng.
“Cô Klaus, con đã ngủ quên từ lúc nào không hay. Hình như lúc đó, con đã mơ… Có ai đó nói với con hãy trở về Auschwitz,… nghe như tiếng mẹ con đang gọi…”
“Chúng ta sẽ đi với con, Hannah. Tất cả mọi người cùng đi nhé.”
“Hannah, con hãy mang theo cây đàn violin này đi. Con hãy đeo nó lên lưng như ngày con đặt chân đến Auschwitz ấy.”
8.Vợ chồng Klaus, bác sĩ và Hannah đứng trên mảnh đất Auschwitz.
Tấm biển “Lao động là con đường dẫn tới tự do” được treo trước cổng Trại tập trung vẫn trơ trơ ngửa mặt lên trời, khu trại nơi có phòng âm nhạc và những khu trại gỗ đều đã sụp đổ, chỉ còn một phần khu trại bằng đá cùng nền móng lưu lại mà thôi.
Đường ray tàu lửa không còn được dùng nữa đã hoen gỉ thành màu nâu đỏ, hai bên rìa cỏ dại mọc um tùm phủ kín cả đường ray.
Không còn con đường mà hàng trăm nghìn người lao động đã đi, trên mặt đất rộng đìu hiu, hoa anh túc nhiều màu đang nở rộ, thỉnh thoảng cả vạn đoá hoa khẽ rung rinh trong cơn gió đầu hè.
Cũng không còn cột khói xám xịt che phủ bầu trời nữa, thay vào đó là bầu trời xanh và mây trắng.
Chỉ còn những ống khói vươn lên trơ trọi như thể bị bỏ lại dưới bầu trời, những ống khói đã từng thiêu rụi số người không thể nào đo đếm.
Hannah đứng chôn chân lặng lẽ nhìn khung cảnh ấy.
Em không thể nhớ nổi khung cảnh nơi mình đã sống trước đây. Từ ngày ấy, hoa anh túc đã nở nhiều thế này rồi ư? Lúc đó em dồn toàn bộ sức lực chỉ để sống sót, em có cảm giác mình chẳng khi nào quan sát khung cảnh thiên nhiên ở xung quanh cả. Màu nâu đen của những khu trại, tấm áo tù nhân dơ bẩn của mọi người, bầu trời ngập khói… Trong khung cảnh ấy em không nhớ có bất cứ màu sắc nào rực rỡ như đỏ hay vàng.
Nếu vậy, lẽ nào đồng hoa anh túc này là do ai đó gieo trồng và chăm bón?
Trái tim Hannah bình yên đến lạ.
Em không còn cảm thấy niềm hận thù sâu sắc hay nỗi buồn đau lớn lao nào nữa.
Klaus bước vào đồng hoa anh túc của Auschwitz, từ đây có thể nhìn thấy cổng trại. Ông tìm được một phiến đá nhỏ, ngồi xuống đó và lấy cây đàn cello ra.
Rồi ông lặng lẽ kéo bản “Ave Maria”, dịu dàng cất tiếng hát như mời gọi Hannah cùng tới.
Hannah lặng thinh không cất nổi lời.
Em tin chắc những đoá hoa anh túc này chính là linh hồn của những người đã mất.
Trong số đó có bố, mẹ, có Andrew và ông nội, mọi người đang động viên mình. Mình không đưa tiễn mọi người đi trong sự chế giễu. Có lẽ sứ mệnh của mình là làm yên lòng linh hồn của vô số người mắc kẹt lại nơi đây và tiễn đưa họ về trời.
Arles, người phụ nữ sống đầy kiêu hãnh cùng âm nhạc. Câu chuyện “Kì tích Bando” mà Klaus đã kể cho em nghe. Tên ác quỷ Hans đã rơi lệ trước bản “Ave Maria” em biểu diễn. Edyth, Rosa, Mary… và Leo. Gương mặt bạn bè lần lượt hiện lại trong tâm trí em như lồng đèn kéo quân, lòng em bỗng ngập tràn nỗi biết ơn tất cả. Biết ơn việc em đã tới đây và được sống sót trở về.
Mình vẫn còn việc phải làm ở nơi này.
Hannah vội vàng lấy chiếc đàn violin ra khỏi hộp, chạy tới chỗ Klaus đang ngồi. Em bắt đầu kéo đàn chơi bản “Ave Maria”, đưa tiếng đàn của mình hoà cùng với tiếng cello vang vọng.
Từ đôi mắt của bà Klaus, những giọt lệ cứ liên tiếp trào ra không thể nào dừng được.
“Ôi… con bé đã cầm violin rồi kìa, bác sĩ.”
Vị bác sĩ mỉm cười và gật đầu đầy tin tưởng.
“Việc điều trị đến đây là hoàn tất. Chúng ta lại chiến thắng quân Phát xít nữa rồi.”
9.Những ngày sau đó, ngày nào Hannah và Klaus cũng chơi “Ave Maria” ở cánh đồng hoa anh túc cho tới gần chiều muộn, phải, giống như những ngày tháng khi họ chơi nhạc đón đoàn người lao động cưỡng bức trở về.
Tiếng nhạc họ chơi theo gió bay xa tới tận ngôi nhà của những người dân trong vùng.
Chuyện đó tiếp diễn đến mấy năm, người ta bắt đầu kháo nhau thành tin đồn, rồi cứ thế những thành viên còn sống của dàn nhạc năm xưa trở về tụ họp lại, một người, hai người rồi đến cả chục người, họ cùng nhau biểu diễn giữa cánh đồng hoa anh túc.
Trong số những người trở về ấy có Edyth và Leo.
Leo lúc đó cũng giống như Hannah, được lính Anh cứu sống. Sau đó, để quên hết những gì đã xảy ra, cậu tìm tới nước Mỹ, đất nước của tự do. Và rồi, cậu đổi tên mình thành một cái tên kiểu Mỹ.
Bản hoà tấu “Ave Maria” của mười người lưu lại, vẳng trong tai những du khách tới thăm Auschwitz.
Chẳng mấy chốc, tin tức về những thành viên trong dàn nhạc đã sống sót qua thảm hoạ diệt chủng lan rộng mạnh mẽ, họ được mời tổ chức biểu diễn.
Hannah được Leo cứu một lần nữa, họ bắt đầu cùng cất bước như hai con người yêu thương nhau qua âm nhạc. Cuối mỗi buổi diễn, Hannah nhất định sẽ chơi bản “Largo Espressivo” của Pugnani.
Giai điệu của bản nhạc ấy gợi cho Hannah nhớ về gia đình mà em từng có, một quá khứ buồn thương nhưng rất đỗi ngọt ngào.
Đến một ngày kia, hoa anh túc lại tới mùa nở rộ, Hannah không chơi bản “Largo Espressivo” sau khi chơi xong bản “Ave Maria” giống như bình thường.
“Hannah?”
Leo nhìn Hannah.
Hannah ngồi chơi đàn trên chiếc ghế nhỏ, chiếc đàn vẫn nằm trên vai Hannah, nhưng cô không cử động nữa.
Gương mặt Hannah nở một nụ cười mãn nguyện, bởi dường như cô đã hoàn thành xong sứ mệnh của mình.
Cô đã gửi đi khúc nguyện hồn cho tất cả những người từng trở thành vật hi sinh ở Auschwitz.
“Hannah! Hannah! Em vẫn chưa chơi xong bản Largo cơ mà? Chúng ta vẫn chưa thực hiện ước mơ được tới Bando cùng tất cả mọi người mà?”
Gương mặt Leo đầm đìa nước mắt.
Vừa khóc, Leo vừa nhẹ nhàng đỡ cây đàn violin khỏi vai Hannah.
Thế rồi, cây đàn violin Hannah đã chơi đều đặn mỗi ngày ấy được đặt tên là “Cây vĩ cầm Ave Maria”, và Leo tặng nó cho viện bảo tàng Auschwitz.