← Quay lại trang sách

Chương 5 KALZAS VÀ LEO-1.

“Đó là tất cả câu chuyện về ‘Cây vĩ cầm Ave Maria’ này.”

Ông Kalzas ngừng lời, như thể đã hoàn thành xong một sứ mệnh.

Tôi và chú Kiyohara thẫn thờ mất một lúc lâu.

Mặc dù không nghĩ sẽ có một câu chuyện vui vẻ phía sau cây đàn này, nhưng những gì vừa nghe bi tráng gấp nhiều lần những gì chúng tôi có thể tưởng tượng.

“A!”

Chú Kiyohara chợt kêu lên, rút cây đèn pin chiếu qua khe chữ S của “Cây vĩ cầm Ave Maria”.

Nhưng ánh sáng không rọi vào sâu bên trong được.

Nếu đúng như những gì ông Kalzas vừa kể thì nhất định lá thư của mẹ Hannah nằm sâu trong hộc đàn. Chú Kiyohara nhờ người làm việc trong hội trường cho mượn một dây kim loại dài mảnh, dùng nó nhẹ nhàng khều vật ở bên trong.

Quả nhiên bức thư của mẹ Hannah được lấy ra từ đó.

Mặt trước bức thư vương lại vết nước mắt đã khô, còn mặt sau dính vệt máu đen trông như dấu vân tay của người mẹ.

Bức thư đã trải qua bao thời gian, trông như có thể bị rách bất cứ lúc nào. Vì vậy, không ai mở bức thư ra và gửi nó lại cho Viện bảo tàng Auschwitz để họ lưu giữ.

“Cây vĩ cầm Ave Maria” không còn cất lên được những thanh âm kép nữa.

“Hannah và Leo yêu nhau vậy tại sao lại không lấy nhau ạ?”

“Đúng như Asuka nói nhỉ. Nhưng ta nghĩ đến một lúc nào đó chắc cháu sẽ hiểu thôi. Vì không lấy nhau mà họ lại càng gắn kết với nhau sâu đậm hơn trong thế giới của âm nhạc đấy.”

Ông Kalzas vừa cười vừa trả lời.

“Người Nhật các cháu được nhà thơ Whitman của Mỹ gọi là ‘người dân cõi tiên bồng’. Người cõi tiên bồng có khí chất kiêu hãnh, mang tinh thần cao đẹp tràn đầy lòng dũng cảm và từ bi. Âm nhạc cứu rỗi chúng ta khỏi trái tim tà ác, ta nghĩ đây chính là món quà mà Chúa đã ban tặng cho chúng ta, để có thể nuôi dưỡng những tâm hồn cao đẹp. Người thầy dạy violin cho lũ trẻ ta gặp ở Carnegie Hall cùng sự trợ giúp của người vợ Đức đã nuôi dạy hàng trăm ngàn đứa trẻ cõi tiên bồng trên thế giới. Thú vị quá phải không?”

Ông Kalzas nói tiếp rằng một người Đức tên Hitler đã tạo ra địa ngục, trong khi một người phụ nữ Đức khác lại cùng một người Nhật liên tiếp sinh ra những đứa trẻ ở chốn tiên bồng.

“Những cuộc chiến tranh sắc tộc còn tồn tại trên thế gian này và những vụ khủng bố gây chấn động thế giới vẫn đang tạo ra những địa ngục mới. Thay vì đưa súng, hãy đưa nhạc cụ cho những người này, khi các nền văn hoá được sẻ chia với nhau cũng sẽ là lần đầu tiên những đứa trẻ của họ trở thành ‘người dân cõi tiên bồng’, thế gian sẽ đón chào nền hoà bình thật sự.”

“Nhưng, ông Kalzas, nên làm thế nào để thực hiện điều đó ạ?”

“Ừ, phải đấy. Thế cháu nghĩ sao nào?”

Cố gắng hết sức gom góp những kiến thức vốn dĩ tôi không có, tôi suy nghĩ rất nghiêm túc theo cách của mình.

“… Một đội nhạc sẽ đột kích vào chiến trường, những người lính xuất hiện từ chiếc xe tăng diễn tấu nhạc thay cho đại bác. Ngày nào cũng như vậy, họ còn chơi cả những bài dân ca của nước địch. Nếu có thể nhấn chìm họ trong âm nhạc, tẩy não khiến họ không thể sống được nếu không có âm nhạc, thì chẳng ai còn ý chí tham gia chiến tranh nữa, đúng không ạ?”

“Thật là một phương án đáng giật mình, nhưng có lẽ cũng thú vị đấy. Văn minh không thể cứu rỗi thế giới, nhưng văn hoá thì có thể. Chắc chắn thế. Tất cả phụ thuộc vào trái tim con người mà thôi.”

Chú Kiyohara cười và nói.

“Âm nhạc, cơm ăn, công việc và một nền giáo dục hoà bình! Asuka, cháu phải luyện tập chăm chỉ để không thua Hannah.”

“Đúng rồi, ông Kalzas, chúng ta hãy mang cây đàn này đến Bando đi ạ.”

Nếu nói ra sẽ làm đứt mạch kể nên ban nãy tôi giữ im lặng, nhưng địa danh Bando nơi Klaus từng bị bắt làm tù binh là ở Tokushima, nơi tôi sống. Đương nhiên hiện nay không còn Trại tập trung nào nữa, nhưng tôi nghĩ sẽ thật tốt nếu có thể đưa cây violin của Hannah đến đó.

Trước đề nghị của tôi, có lẽ ông Kalzas cũng cảm nhận thấy việc cây đàn của Hannah được trao lại cho một cô gái sống ở Tokushima như tôi là một điều gì đó tựa như duyên số. Ông hứa với tôi sẽ tập hợp toàn bộ thành viên dàn nhạc còn sống. Ông sẽ bảo tất cả mọi người cùng tụ họp ở Bando vào mùa hoa anh túc nở.

“Nhưng ông Kalzas này, sao ông lại biết rõ câu chuyện của Hannah vậy ạ? Ông có quen biết với họ sao…”

Đáp lại thắc mắc của chú Kiyohara, ông Kalzas chỉ nói “Rồi cậu sẽ hiểu”, vì thế cả chú Kiyohara và tôi đều không thể tọc mạch hơn.

2.

Ông Kalzas phải quay trở lại với việc tập luyện nên chúng tôi chia tay ông ở phòng chờ và rời khỏi Osaka.

Tôi không cho rằng mình không có ngày mai, và ngày mai hoà bình của hôm nay vẫn sẽ tiếp diễn, chẳng thể nói nếu không luyện tập hôm nay thì không sống nổi.

Dẫu vậy, nếu suy nghĩ rằng việc tập luyện hôm nay thật phiền hà nên để đến ngày mai, thì tôi sẽ không thể trở nên tài giỏi như Hannah.

Tôi thấy nếu thế thì việc tôi giữ “Cây vĩ cầm Ave Maria” này chẳng có ý nghĩa gì.

“Asuka, con đã có được chiếc đàn của cô gái tên Hannah đó, nên nhất định phải luyện tập nhiều hơn nữa đấy.”

Trên đường về Tokushima, tôi nghĩ ngợi nhiều thứ, đa số những câu hỏi đặt ra đều không có câu trả lời, thế rồi mẹ bắt chuyện làm cắt ngang dòng suy nghĩ ấy.

Do quá chăm chú suy nghĩ, lại còn cảm thấy nguy cơ câu chuyện sắp biến thành một buổi thuyết giáo từ giọng điệu của mẹ nên tôi đã bật lại với thái độ có phần gai góc.

“Mẹ yên giùm con chút.”

“Yên cái gì, chuyện này rất quan trọng.”

Nếu là bình thường, tiếp sau đây nhất định sẽ là một cuộc cãi vã. Nhưng nhận ra sẽ chẳng thay đổi được gì nếu chúng tôi cứ cự qua cự lại như vậy, tôi tự động nói lời xin lỗi.

“Con hiểu chuyện này rất quan trọng, nhìn vậy chứ con cũng đang suy nghĩ nhiều lắm. Con biết mẹ có điều muốn nói, nhưng trong lúc con còn đang nghĩ, dù mẹ có nói gì thì cũng chỉ khiến con không để những lời ấy vào tai. Vậy nên, mẹ hãy cho con thêm chút thời gian để từ từ suy nghĩ.”

“Ừ, đúng là vậy. Mẹ cũng có lỗi khi cứ thúc ép con quá. Con đã đến tuổi có thể tự mình suy nghĩ rồi.”

Một cuộc nói chuyện khác hẳn mọi khi.

Chú Kiyohara đang ngồi quan sát màn đối đáp của hai mẹ con tôi bỗng làm động tác “Chờ chút” và nhận trách nhiệm tiếp nối câu chuyện từ đoạn đó.

“Con người ai cũng có một sứ mệnh của riêng mình, Asuka. Cháu giờ là chủ nhân của “Cây vĩ cầm Ave Maria” này. Cây đàn này đã đến bên cháu chứ không phải chú, chúng ta cần nghĩ rằng cháu sinh ra trên đời này với một sứ mệnh đặc biệt. Nhất định cháu sẽ trở thành một “người dân cõi tiên bồng” xuất sắc.”

Tôi lắng nghe chăm chú những lời chú Kiyohara nói và ngoan ngoãn gật đầu.

“Mẹ ơi, con muốn lên Tokyo học đàn. Con biết mẹ muốn con trở thành bác sĩ, nhưng con muốn đối diện với đàn violin nghiêm túc hơn bất cứ lúc nào.”

“Không sao, mẹ sẽ nhờ thầy để con được theo học đàn ở Tokyo.”

Mẹ tôi không phản đối.

Đương nhiên, mẹ cũng không tán thành tuyệt đối, nhưng mẹ đang cố gắng thấu hiểu lòng quyết tâm nghiêm túc của tôi.

Sau hôm đó, tôi cố gắng sống mỗi ngày thật ý nghĩa, không ghét bỏ điều gì, làm hết những thứ trong khả năng có thể.

Tôi không rõ mình đã hiểu việc được sống một ngày trong hoà bình có ý nghĩa quan trọng đến thế nào hay chưa.

Nhưng, dù không diễn tả được bằng lời, tôi vẫn cảm nhận được điều đó bằng cảm tính.

Tôi chỉ toàn nghĩ tới âm nhạc gần hết cả một ngày, ngay sau khi trở về từ Osaka, tôi có một bài kiểm tra trên lớp tệ hại.

Nhưng đây là lần hiếm hoi mẹ tôi không nổi giận vì chuyện đó.

Mẹ đã nói với tôi, khi tôi có thể biến những rung cảm rõ rệt của trái tim thành vốn liếng của mình, thì dù nó không thể hiện bằng điểm số, những rung động ấy cuối cùng sẽ là hạt giống nảy nở ra điều gì đó rất lớn lao, hơn cả thành tích của một lần kiểm tra.

Mục tiêu mẹ nhắm tới hoàn toàn chính xác, điểm kiểm tra của tôi thê thảm là thế nhưng bản “Ave Maria” tôi chơi lại bắt đầu có những âm thanh khá mượt mà. Vấn đề không phải ở kĩ thuật, mà việc nghe câu chuyện của Hannah đã khiến tôi chơi được những giai điệu hay hơn.

Tôi từng nghĩ mẹ tôi cằn nhằn quá nhiều, nhưng giờ thì tôi hiểu, mẹ muốn cho tôi cảm nhận nhiều điều nên đã luôn tính trước mọi thứ cho tôi.

Tôi từng sợ mẹ biết được mình không phải thiên tài, nhưng mẹ vốn từ lâu đã biết tôi chỉ là một cô bé bình thường. Mẹ một lòng một dạ cố gắng hết sức hướng tôi theo nghiệp bác sĩ, để tôi có thể bước đi trên một con đường vững chắc dẫn tới tương lai.

Hiểu ra được những điều ấy, tôi nghĩ bụng quả nhiên tôi không thể nào đối đầu được với mẹ và vui vẻ nhận phần thua.

3.

“Asuka, có chuyện này tuyệt lắm.”

Một ngày gần cuối năm, mẹ vừa nói chuyện điện thoại xong đã chạy ngay lên phòng tôi, thậm chí quên cả việc đặt lại ống nghe cho ngay ngắn.

“Có chuyện gì thế ạ?”

“Vừa rồi, chú Kiyohara gọi điện kể mẹ nghe một chuyện tuyệt vời lắm. Phải đến tận hè năm sau cơ, nhưng con có thể tham gia loạt lễ hội âm nhạc Budapest ở Hungary, lễ hội âm nhạc Vienna hay Salzburg ở Áo, và một vài lễ hội ở âm nhạc ở Đức không?”

“Sao ạ?”

Theo những gì mẹ kể, mọi chuyện bắt đầu từ lúc chú Kiyohara hỏi thăm trên một đài phát thanh ở Ba Lan để biết được thêm chi tiết về “Cây vĩ cầm Ave Maria”, trước khi chúng tôi gặp ông Kalzas.

Dường như đài phát thanh đã nhận được rất nhiều nguyện vọng muốn nghe âm thanh của “Cây vĩ cầm Ave Maria” từ những thính giả từng nghe câu chuyện về cây đàn ấy. Vì vậy, họ gửi lời yêu cầu biểu diễn thông qua chú Kiyohara.

“Còn nữa nhé, nghe nói chương trình đã được lên kế hoạch đưa nhiều trẻ em trên thế giới cùng tham gia, nên họ muốn con biểu diễn trong chương trình với tư cách là một thành viên của đoàn. Con sẽ chơi bản ‘Ave Maria’ ở đó.”

“Nói vậy lẽ nào là chơi solo ạ?”

“Đương nhiên rồi. Con tập tành cho nghiêm túc vào.”

Thấy tôi bất ngờ đến không thốt nổi nên lời, mẹ cười toe và nhắc tôi một câu như thường lệ.

Những buổi tập sau đó trở nên khắt khe hơn rõ rệt.

Yêu cầu của thầy cũng rất cao, phần thể hiện âm nhạc, phần thể hiện cảm xúc, tất cả các hạng mục kiểm tra đều chi tiết đến mức chưa từng thấy. Tôi cũng ý thức được việc sẽ có người nghe nhạc mình chơi nên tính qua loa đại khái cũng được loại bỏ dần từng chút.

Tôi vẫn tiếp tục các bài tập đơn giản, kiểu như chơi đi chơi lại một đoạn hết lần này tới lần khác, và đến mùa hè, tôi bay sang châu Âu.

Trong đoàn lưu diễn có khoảng mười người, ngoài Nhật, còn có những đứa trẻ đến từ Mỹ, Canada, Anh, Úc, Đức, Pháp, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc.

Đương nhiên bọn tôi không hiểu ngôn ngữ của nhau.

Nhưng nhờ có thứ ngôn ngữ chung đặc biệt là âm nhạc nên chẳng mất mấy thời gian để chúng tôi trở thành bạn bè.

Những người lớn trong đoàn thấy rất khó hiểu, không biết làm thế nào mà chúng tôi hiểu ý nhau, làm thế nào mà chúng tôi có thể diễn ngon ơ dù hầu như không tổng duyệt, bất chấp việc mỗi đứa nói chuyện bằng một thứ tiếng khác nhau.

Vào ngày cuối cùng của chuyến lưu diễn, một sự kiện đã xảy ra trong buổi công diễn của chúng tôi ở Tu viện St. Stephen của Áo.

Đã qua mấy lần biểu diễn, đây lại là buổi công diễn cuối cùng nên mọi người có chút thư thái hơn.

Lần này chúng tôi không biểu diễn trong hội trường mà là trong nhà thờ. Tôi cảm thấy căng thẳng trước sự uy nghi của Đại thánh đường rộng lớn và những tấm kính màu tuyệt đẹp, một khung cảnh tôi chưa từng được thấy ở Nhật.

Âm thanh rất vang nên dù chỉ mắc một lỗi nhỏ thôi cũng sẽ bị nhận ra ngay.

Chuyến lưu diễn thành công vang dội trong mấy ngày liên tiếp, khiến đến buổi cuối cùng, số lượng người đến nhà thờ đông hơn hẳn, thậm chí những người không có chỗ ngồi đứng cả ở bên ngoài, người ta phải nhanh chóng mở luôn cổng lớn của nhà thờ, biến sự kiện này thành buổi biểu diễn công khai.

Buổi diễn bắt đầu với bản “Allegro” của Fiocco*, tiếp đó là chương trình đồng diễn với “Hoà tấu violin cung La thứ, chương một” của Vivaldi* khúc “Minuet” của Boccherini, “Hợp ca thợ săn” của Weber*, khúc “Minuet số hai” của Bach, màn hoà tấu bài “Twinkle Twinkle Little Star”, “Canon” của Pachebel, “Khúc hát trên bờ biển”*, “Quê hương”*.

Chu thich: Tên đầy đủ là Joseph-Hector Fiocco (1703-1741), sinh ra tại Brussel, Bỉ. ông là nhà soạn nhạc và nhạc công đàn Harpsichord cuối thời kì Baroque.

Chu thich: Antonio Vivaldi (1678-1741), là một nhạc sĩ, nhạc công violin người Ý cuối thời kì Baroque, đồng thời ông còn là một giảng viên âm nhạc và một linh mục. Ông nổi tiếng với bộ bốn concerto cho violin mang tên “Bốn mùa”.

Chu thich: Carl Maria Friedrich Ernst von Weber (1786-1826), là nhà soạn nhạc theo trường phái lãng mạn của Đức, ông còn là một chỉ huy dàn nhạc, nghệ sĩ piano, nghệ sĩ guitar và nhà phê bình âm nhạc.

Chu thich: Tác phẩm của nhà soạn nhạc người Nhật Narita Tamezo (1983-1945).

Chu thich: Bài hát thiếu nhi của Nhật, sáng tác năm 1914, nhạc của Okano Teiichi (1878-1941).

Khi những đứa trẻ bốn tuổi đứng trên sân khấu biểu diễn, đặc biệt là trước khi bọn trẻ bắt đầu biểu diễn, những tiếng trầm trồ thán phục và vỗ tay vang dội đã nổi lên. Sau phần biểu diễn của bọn trẻ, không chỉ dừng lại ở những tràng pháo tay mà xen lẫn trong đó là những tiếng kêu “Bravo” và thậm chí là tiếng dậm chân vang lên hồi lâu mới dứt.

“Và xin kính thưa quý vị,…”

Ngài thị trưởng thành phố Vienna đứng lên, tạm thời khiến đám đông khán giả đang reo hò lắng xuống.

“Ngay sau đây, màn biểu diễn cuối cùng sẽ là sự xuất hiện của ‘Cây vĩ cầm Ave Maria’. Bản nhạc được chơi đương nhiên sẽ là ‘Ave Maria’ của Schubert.”

Ngài thị trưởng chưa dứt lời, khán giả đã đồng loạt đứng lên, tạo nên làn sóng vỗ tay rần rần như một cơn bão lớn.

Dù có trải qua biết bao nhiêu lần, chỉ riêng khúc này tôi vẫn không thể quen được.

Lí do là bởi, ở bất cứ sân khấu nào hội trường nào, kì vọng của mọi người vẫn luôn quá lớn lao.

Tôi đứng giữa sân khấu nhà thờ, ngước nhìn tấm kính màu ở cửa vào phía xa, hít một hơi thật sâu và cúi chào khán giả.

Đúng lúc ấy, từ cánh gà bên trái, một ông lão cầm theo cây đàn cello bước nhanh lại gần tôi cùng với một người phụ nữ trung niên.

“Ông Kalzas?”

Người đang tiến về phía tôi chính là ông Kalzas.

Vì quá bất ngờ nên tôi quên mất mình đang đứng trước mặt rất nhiều khán giả và ôm chầm lấy ông Kalzas. Sau cái ôm kéo dài trong giây lát, ông Kalzas cầm lấy chiếc micro, hướng về phía khán giả và nói.

“Tôi thành thật xin lỗi vì sự đường đột này thưa các bạn. Tôi là người đã được chơi bản ‘Ave Maria’ cho đến những giây phút cuối cùng bên cạnh Hannah Janssen, cô gái đã sống sót thoát khỏi Trại tập trung Auschwitz với ‘Cây vĩ cầm Ave Maria’ này. Tên tôi là Leo Rochester.”

“… Ớ? Sao cơ…!”

Dù không hiểu tiếng Anh một cách hoàn thiện thì tôi vẫn nắm được ý nghĩa những điều ông Kalzas vừa nói.

Hơn tất thảy khán giả ngồi ở đây, tôi mới là người bất ngờ nhất khi biết ông Kalzas chính là Leo.

“Và cô gái đứng đây là cô Sara Klaus, cháu gái của ông Bürger Klaus. Ông Klaus là người đã che chở cho Hannah, tự nguyện tới Auschwitz để bảo vệ cả gia đình Hannah bất chấp việc bản thân là một người Đức, cũng là tổng chỉ huy dàn nhạc trong Trại tập trung. Tiếp nối giai điệu từ ‘Cây vĩ cầm Ave Maria’ này, đến giữa bài chúng tôi có thể diễn tấu cùng được chứ ạ?”

Thay cho câu trả lời, lại một tràng pháo tay nữa vang lên.

Tôi là người duy nhất không ngăn nổi sự hoang mang, còn khán giả có vẻ vui mừng.

Ngài thị trưởng rơm rớm nước mắt trước sự kiện ngoài mong đợi này, ông vừa vỗ rất mạnh hai tay vào nhau ở trước ngực vừa bước lên sân khấu và nồng nhiệt ôm lấy từng người. Tiếng vỗ tay vẫn vang lên không ngớt.

Sau tràng pháo tay lớn là một khoảng tĩnh lặng, tôi cúi chào lễ phép rồi đứng vào tư thế chuẩn bị đàn.

Tôi nghe thấy tiếng nuốt khan từ hàng ghế khán giả.

Tiếng đệm piano lặng lẽ ngân lên, tôi bắt đầu chơi bản “Ave Maria”.

Khác với những nơi biểu diễn khác, âm thanh trong nhà thờ rất vang.

Cũng thật buồn cười nếu nói rằng trái tim tôi được gột rửa bằng chính bài biểu diễn của mình, nhưng quả thật những âm thanh tinh tế đã được gột sạch, rũ bỏ những tà niệm đang được dệt nên từ bàn tay tôi. Với tôi là trung tâm, những con sóng âm thanh ngọt ngào trong trẻo đang hoà tan vào trái tim mọi người.

Đến giữa chừng có thêm tiếng đàn cello và cuối cùng là giọng hát của cô Sara Klaus. Giọng hát của cô cùng tiếng đàn của chúng tôi dường như không phải thứ tồn tại trên trần thế.

Phải chăng đó là tấm lòng hướng về Chúa Trời của những người đã vượt qua những nỗi đau cùng cực nhất con người có thể chịu đựng… Bản nhạc này như đang gửi tới trời xanh những lời nguyện cầu, mong cho muôn vàn nạn nhân vô tội được yên nghỉ ở cõi vĩnh hằng, khiến khán giả ai nấy đều phải ngăn dòng nước mắt đang chực trào ra.

Khi bản “Ave Maria” kết thúc, không có tiếng vỗ tay, cũng không ai đứng dậy khỏi ghế.

Ba người chúng tôi cầm tay nhau, đồng loạt cúi đầu chào.

Đúng lúc đó những người ở hàng ghế đầu tiên vừa vỗ tay vừa đứng dậy và tiến về phía trước. Thấy vậy, những người ở hàng ghế phía sau cũng đứng dậy di chuyển dần lên phía trên.

Mọi người trong hội trường đều đổ dồn về phía chúng tôi, tất cả đứng lên vỗ tay nhiệt liệt.

Vậy là toàn bộ các buổi biểu diễn đã kết thúc thành công rực rỡ.