← Quay lại trang sách

Chương 21

Bước khỏi giường, mở toang cửa sổ, vật đầu tiên đập vào mắt Arkadi lại chính là ông Vaxili Ivanovich. Mặc chiếc áo khoác ngoài kiểu vùng Bukhara, lưng thắt một chiếc mùi xoa, ông già đang hì hục đào bới trong vườn rau. Nhìn thấy vị khách trẻ tuổi của mình, ông bèn chống xẻng, kêu to:

- Chúc sức khỏe nhé! Cậu nghỉ ngơi thế nào?

- Tốt lắm ạ, - Arkadi đáp.

- Còn tôi ở đây, như cậu thấy đấy, tôi đang đánh luống trồng cải củ vụ cuối, y như cái ông Cincinnatus 1 vậy. Cũng nhờ trời mà bây giờ đã đến lúc mỗi người phải tự tay mình kiếm lấy miếng ăn. Không thể trông gì vào người khác được, phải tự mình lao động thôi. Và té ra là cụ Jean Jacques Rousseau 2 cụ ấy đúng. Nhưng, thưa quý cậu, nếu cậu thấy tôi cách đây nửa tiếng thì tôi lại ở một vị trí khác hẳn kia! Có một bà đến kêu là bị đi ra máu, đó là theo cách của họ, còn ta thì ta nói là chứng kiết lỵ, thì tôi... nói thế nào cho hay hơn nhỉ... tôi đã tiếp nha phiến cho bà ta. Lại một bà khác thì đã được tôi nhổ răng cho. Cái bà này tôi bảo là để tôi ête hóa cho trước khi nhổ... thế mà bà ấy chẳng chịu. Mọi việc đó tôi đều làm gratis cả, - ăngnamatơ mà lại. Thật ra thì điều đó đối với tôi chẳng có gì lạ cả, tôi chỉ là cái anh cùng đinh, homo novus thôi, không phải thuộc dòng cao sang gì, chẳng được như bà nó nhà tôi đâu... Cậu ra đây, đứng ở chỗ bóng mát này, thở hít khí mát ban mai trước khi dùng trà có nhẽ hay hơn chăng?

Arkadi bèn bước ra chỗ ông già.

- Một lần nữa xin hoan nghênh cậu! - ông Vaxili Ivanovich nói, đưa tay lên chiếc mũ mềm, tròn, bê bết dầu mỡ đội trên đầu để chào theo kiểu nhà binh. - Tôi cũng biết là cậu đã quen cảnh phú quý phong lưu rồi, nhưng những kẻ cả trên đời cũng thường chẳng từ chối vi hành một thời gian ngắn dưới những mái nhà tranh.

- Cháu xin bác, - Arkadi thốt lên, - cháu đâu phải kẻ cả trên đời? Mà cháu cũng chẳng quen cảnh phú quý đâu.

- Xin cậu, xin cậu, - ông Vaxili Ivanovich chống chế với một bộ điệu lịch thiệp. - Mặc dù bây giờ tôi đã bị xếp xó rồi, nhưng cũng đã từng va chạm nhiều trên đời, nên tôi cũng biết trông mặt mà bắt được hình dong. Tôi cũng là một nhà tâm lý học theo cách của tôi và cũng biết cả xem tướng nữa đấy. Tôi dám nói với cậu rằng nếu tôi không có được cái tài đó, thì tôi chết dúi từ lâu rồi, một con người hèn kém như tôi đã bị người ta vùi xuống đất đen mất rồi. Chẳng phải là khen ngợi gì, nhưng tôi xin nói với cậu rằng tình bạn mà tôi nhận thấy giữa cậu và con trai tôi khiến tôi thật tình vui lòng đấy. Tôi vừa gặp nó ở đây xong. Theo lệ của nó mà chắc cậu đã biết, nó đã chồm dậy từ rất sớm để chạy chơi khắp vùng quanh đây rồi. Cậu cho phép được tò mò, cậu quen biết với thằng Evgheni nhà tôi đã lâu chưa?

- Từ mùa đông năm nay ạ.

- Ra vậy. Và cậu cho phép hỏi thêm nữa, - ta có ghé ngồi tạm xuống đây một chút không? - Cậu cho phép tôi, là một người cha, với tất cả tấm lòng thành thực của mình, được hỏi cậu là cậu có ý kiến thế nào về thằng Evgheni nhà tôi?

- Con trai của bác là một trong những người kiệt xuất nhất mà cháu từng được gặp cho tới nay, - Arkadi sốt sắng đáp.

Cặp mắt của ông Vaxili Ivanovich đột nhiên trợn tròn và đôi má ông cũng hơi ửng đỏ lên. Chiếc xẻng tuột khỏi tay ông.

- Vậy là, cậu cho rằng, - ông cất tiếng...

- Cháu tin chắc rằng, - Arkadi hòa theo, - con trai của bác sẽ có một tương lai cực kỳ to lớn, anh ấy sẽ làm rạng rỡ thanh danh của bác. Cháu đã vững tin điều đó ngay từ lúc gặp anh ấy lần đầu.

- Chuyện... chuyện ấy xảy ra như thế nào? - phải khó khăn lắm ông Vaxili Ivanovich mới nói nên lời. Một nụ cười khoái trá đã khiến đôi môi rộng của ông càng thêm mở rộng, và nó đã không tắt đi trên đôi môi ấy.

- Bác muốn biết chúng cháu đã gặp nhau như thế nào phải không ạ?

- Vâng... và nói chung là...

Arkadi bèn kể lại và nói đến Bazarov với một vẻ sôi nổi, với một lòng say mê hơn cả cái buổi tối mà chàng nhảy điệu mazurka với bà Odintxova.

Ông Vaxili Ivanovich cứ ngồi nghe, nghe hoài, rồi ông hỉ mũi, đôi tay vo tròn chiếc mùi xoa, ông phát ho lên, xoa bù cả đầu tóc, - rồi cuối cùng không nhịn nổi, ông đã cúi xuống mà hôn vào vai Arkadi.

- Cậu làm tôi sung sướng quá chừng, - ông nói, miệng vẫn luôn nở một nụ cười, - tôi phải nói thật với cậu là tôi... mến phục thằng con trai tôi lắm đấy. Về bà lão của tôi thì tôi chẳng nói nữa, những điều đó đã rõ rồi, bà ấy là người mẹ mà lại! Nhưng có mặt thằng con trai tôi thì tôi cũng chẳng dám bộc lộ tình cảm của mình ra đâu, bởi lẽ nó chẳng thích thế. Nó là nó chúa ghét mọi kiểu bộc lộ tình cảm. Nhiều người thậm chí chê trách, bảo là tính nó cứng rắn quá, cho là ở đó có cái vẻ kiêu ngạo hay nhẫn tâm gì đấy. Nhưng những người như nó không thể dùng con mắt thường mà đo được, phải không cậu? Thì đấy, cứ thí dụ như nếu là đứa khác, vào địa vị nó thì đã bòn bòn, rút rút của bố mẹ rồi. Nhưng đằng này, liệu cậu có tin được không, cả đời nó chẳng hề xin thêm đồng xu nhỏ nào, trời đất ạ!- Anh ấy là con người thật thà, không vụ lợi, - Arkadi nhận xét.

- Đúng là nó không vụ lợi, cậu Arkadi ạ. Còn tôi thì chẳng những tôi mến phục nó, mà còn hãnh diện vì nó, và tất cả cái lòng hiếu danh hiếu thắng của tôi chỉ vẻn vẹn là muốn làm sao cho với thời gian, trong tiểu sử của nó có mấy hàng chữ sau đây: “Con trai của một người quân y sĩ tuy tầm thường nhưng từ sớm đã đoán biết được triển vọng của con mình và đã không tiếc công sức để dậy dỗ cho con...” Nói đến đây thì giọng ông lão lạc hẳn đi.

Arkadi siết chặt lấy bàn tay ông.

- Cậu nghĩ thế nào, - sau một hồi im lặng, ông Vaxili Ivanovich hỏi, - cái danh vọng mà nó sẽ đạt được, như cậu đã đoán trước, sẽ không phải là trong lĩnh vực y học sao?

- Dĩ nhiên không phải trong y học, mặc dù ngay cả trong lĩnh vực đó anh ấy cũng sẽ là một trong những nhà bác học hàng đầu.

- Vậy thì trong lĩnh vực nào hở cậu Arkadi?

- Bây giờ thì còn khó nói, nhưng nhất định anh ấy sẽ rất nổi tiếng.

- Nó sẽ rất nổi tiếng! - ông lão nhắc lại và đăm chiêu suy nghĩ.

- Bà Arina Vlaxievna lệnh cho con mời cụ với cậu vào dùng trà ạ, - mụ Anphixuska đi ngang qua trình lời, hai tay bê một đĩa to tướng đựng đầy những quả mâm xôi chín mọng.

Ông Vaxili Ivanovich giật thót người:

- Thế có kem sữa lạnh để ăn với quả mâm xôi không? - Có đấy ạ.

- À mà kem sữa lạnh thật đây! Cậu Arkadi ạ, cậu chớ khách khí, cậu cứ lấy nhiều đi. Mà sao Evgheni đâu chưa thấy đến nhỉ?

- Con đây ạ, - tiếng Bazarov vang ra từ căn buồng của Arkadi.

Ông Vaxili Ivanovich lanh lẹn quay người lại.

- À hà! Con định vào thăm anh bạn hả. Nhưng con chậm mất rồi, amice, bố đã nói được với cậu ấy một câu chuyện dài rồi. Bây giờ phải đi uống trà thôi, mẹ con đang gọi đấy. Nhân thể, bố cũng có việc cần bàn với con

- Chuyện gì đấy ạ?

- Có một thằng bé nông dân ở đây nó bị bệnh vàng da...

- Nghĩa là bệnh hoàng đảm?

- Phải, một chứng bệnh vàng da kinh niên, rất khó chữa. Bố đã kê đơn cho nó các loại thuốc lá như thiên kim thảo, địa nhĩ thảo, bắt nó phải ăn cà rốt, cho uống xôđa rồi. Nhưng tất cả những cái đó đều chỉ là những biện pháp thuốc trị tạm đỡ mà thôi, phải có phương thuốc gì quyết liệt hơn mới được. Dù con có chê cười y học đi nữa, nhưng bố vẫn tin là con có thể góp được cho bố những ý kiến thiết thực. Nhưng chuyện ấy ta để sau. Bây giờ hãy đi uống trà cái đã.

Ông Vaxili Ivanovich nhanh nhẹn rời chiếc ghế dài đứng vọt dậy, hát lên đôi câu trong bài ca Robert 3:

Luật lệ, luật lệ chúng ta tự đặt ra cho mình

Để rồi... để rồi được sống cảnh âu ca thanh bình!

- Sức sống tuyệt vời đấy! - rời khỏi khung cửa sổ, Bazarov nói.

Đã giữa trưa. Mặt trời chói chang chiếu qua tấm màn mỏng của những đám mây mờ trắng và dày đặc. Mọi vật đều ìm lìm, duy chỉ có những con gà trống hăng hái gáy đáp nhau trong thôn xóm, khiến cho mỗi ai nghe thấy đều có một cảm giác ngái ngủ và buồn lắng một cách kỳ lạ. Ở đâu đó trên chỏm cây cao tít lại còn vang lên da diết tiếng chít chít của một con diều hâu non dại đang não nùng gọi mẹ. Dưới bóng râm một đống cỏ khô không cao lắm, Arkadi và Bazarov nằm lên đôi ba bó cỏ tuy đã khô lạo xạo, nhưng vẫn mang màu xanh và tỏa mùi thơm ngát.

- Cây liễu hoàn diệp kia nhắc mình nhớ đến hồi còn nhỏ, - Bazarov cất lời. - Nó mọc bên bờ cái hồ to của một vựa thóc bằng gạch trước đây. Vậy mà lúc bấy giờ mình tin rằng cả cái hồ và cây liễu hoàn diệp ấy đều có một bùa phép gì đặc biệt lắm, cứ đến đấy là mình chẳng còn thấy buồn tí nào. Hồi đó mình không hiểu rằng sở dĩ mình thấy vui bởi vì mình chỉ là một đứa bé con mà thôi. Ừ, bây giờ lớn rồi, mình thấy bùa phép chẳng có tác động gì nữa cả.

- Cậu ở đây tất cả được bao nhiêu lâu? - Arkadi hỏi.

- Hai năm liền, sau đó gia đình mình đi khắp nơi. Gia đình mình sống kiểu lang bạt kỳ hồ, phần lớn là ở các thành phố.

- Thế cái nhà này có từ lâu chưa?

- Lâu rồi. Từ đời ông mình, tức ông ngoại mình đã xây nên nó.

- Ông ngoại cậu là ai?- Có quỷ biết được. Cụ là thiếu hiệu gì đó. Cụ đã từng phục vụ trong quân đội thời Xuvorov 4, do đó luôn kể chuyện về cuộc hành quân qua dãy núi Alps. Chắc là cụ phịa thôi.

- Thảo nào trong phòng khách nhà cậu có treo bức chân dung Xuvorov. Thế mà mình lại thích những ngôi nhà nho nhỏ như nhà cậu, vừa cổ cổ, lại vừa ấm áp, và có một cái mùi gì đặc biệt lắm.

- Mùi dầu thắp đèn thờ thánh với lại mùi nhựa donnik 5 đấy, - Bazarov vừa nói vừa ngáp. - Thế nhưng trong những ngôi nhà nhỏ bé xinh xắn ấy biết bao là ruồi... Ôi chao!

- Cậu này, - sau giây lát im lặng, Arkadi cất tiếng, - hồi nhỏ cậu có bị bố mẹ o ép lắm không?

- Cậu thấy bố mẹ tớ rồi đấy. Các cụ không phải là những con người nghiêm khắc gì.

- Cậu có yêu bố mẹ không, Evgheni?

- Tớ yêu bố mẹ, Arkadi ạ!- Các cụ yêu quý cậu biết bao!Bazarov nín lặng.

- Cậu có biết mình hiện đang nghĩ gì không? - cuối cùng, đưa hai tay lên lót dưới đầu, chàng nói.

- Không biết. Cậu nghĩ gì thế?

- Mình nghĩ là kể ra bố mẹ mình cũng vui sống ở đời đấy. Ông cụ đã sáu mươi rồi mà vẫn còn chạy vạy chăm lo, bàn luận về những biện pháp “thuốc trị tạm đỡ”, còn chữa bệnh cho người, còn tỏ vẻ khoan hồng độ lượng với nông dân, tóm lại là cụ còn ăn chơi chán! Cả cụ bà mình cũng vui sống nữa. Ngày nào cụ cũng bận tíu tít đủ thứ việc, hết kêu ối giời lại ái dà, thậm chí chẳng mở được mắt ra nữa. Còn mình thì...

- Thì sao?

- Thì mình lại nghĩ: đấy, mình vẫn nằm dưới đống cỏ khô này... Cái chỗ nhỏ hẹp mình đang choán này thật là bé nhỏ xiết bao so với tất cả không gian, so với tất cả những nơi mà mình không có mặt và chẳng có liên can gì đến mình cả. Và phần thời gian mà mình sẽ có thể sống được cũng chẳng nghĩa lý gì so với cái vĩnh cửu mà trong đó đã và sẽ không có mình... Thế mà trong cái nguyên tử ấy, trong cái điểm toán học ấy, máu vẫn tuần hoàn, não vẫn làm việc và lại còn ham muốn một cái gì nữa kia chứ... Quái gở thật! Vớ vẩn thật!

- Tớ xin nêu với cậu một nhận xét: điều cậu nói đến áp dụng chung cho tất cả mọi người...

- Cậu nói đúng, - Bazarov đỡ lời. - Nhưng ý tớ muốn nói rằng các cụ, nghĩa là bố mẹ tớ ấy mà, các cụ cứ bận hoài như thế và chẳng bận tâm gì đến cái vô vị của chính mình cả, các cụ chẳng thấy nó có gì là thối tha cả... còn mình... mình chỉ thấy những buồn chán và hằn học.

- Hằn học? Tại sao lại hằn học?

- Tại sao à? Còn tại sao nữa? Vậy ra cậu đã lãng quên rồi sao?

- Tớ nhớ hết, thế nhưng tớ thấy cậu chẳng có quyền gì để hằn học cả. Cậu không may, tớ đồng ý, nhưng...

- Chà! Cậu Arkadi, tớ thấy cậu hiểu tình yêu hệt như mọi chàng trai trẻ tối tân hiện nay vậy. Chít-bậpbập, chít-bập-bập, và khi con gà mái tơ mon men đến là ba chân bốn cẳng chạy mất! Tớ thì chẳng thế đâu. Nhưng chuyện ấy nói thế là đủ rồi. Cái gì mình chẳng giúp đỡ nổi thì nói đến chỉ tổ ngượng mặt mà thôi. – Chàng trở mình nằm nghiêng. - Ê-hê này, một chú kiến cừ khôi đang tha một con ruồi vẫn còn ngoắc ngoải này. Cứ tha đi, người anh em, cứ tha đi! Con ruồi nó có bướng bỉnh thì cứ kệ nó, hãy cứ sử dụng ưu thế của mình là một giống vật, do đó không thừa nhận cái tình cảm xót thương một ai hết, và hãy đừng làm như người anh em của chúng ta đây đã từng tự phá vỡ cuộc đời mình!

- Cậu mà lại nói thế ư, Evgheni! Cậu tự phá vỡ cuộc đời mình từ bao giờ?

Bazarov hơi ngẩng đầu lên:

- Chính đó lại là điều duy nhất mà mình tự hào đấy. Chính mình đã không tự phá vỡ cuộc đời mình, thì chẳng đàn bà nào phá vỡ nổi nó! Chấm hết! Cậu sẽ chẳng bao giờ nghe mình nói gì thêm về chuyện đó nữa đâu.

Hai người bạn lại nằm im lìm trong chốc lát.

- Phải rồi, - Bazarov mở lời, - con người thật là một sinh vật kỳ dị. Nếu ta đứng sang một bên và từ xa nhìn vào cuộc sống vắng lặng của “những người cha” chúng ta ở đây, thì ta tưởng chừng như sống như vậy còn gì tốt đẹp hơn nữa! Ăn, uống và tự biết rằng cách ứng xử của mình là đúng đắn nhất, hợp lý nhất. Thế mà không phải vậy đâu, ta vẫn thấy lòng mình buồn da diết lắm. Ta vẫn muốn quan tâm đến mọi người, dù có mắng chửi họ chăng nữa thì vẫn cứ muốn quan tâm đến họ.

- Phải sắp xếp cuộc sống để sao cho mỗi giây phút trong cuộc sống đều có ý nghĩa, - Arkadi nói với vẻ tư lự.

- Ai bảo thế! Cái có ý nghĩa có khi là giả dối, mà lại ngọt ngào nữa kia, song với cái không có ý nghĩa thì ta còn có thể chịu được... còn như nếu đấy là chuyện cãi vã về những điều vặt vãnh, những điều nhỏ nhặt... thì đó mới là tai họa.

- Những chuyện cãi vã về những điều vặt vãnh sẽ không tồn tại nếu như ta không thừa nhận nó.

- Hừm... đấy là cậu nói đến một phương vị chung đối lập.

- Cái gì kia? Cậu hàm ý gì với thuật ngữ đó?

- Vấn đề là thế này: tỷ dụ như nếu cậu bảo giáo dục là có ích, thì đó là phương vị chung. Còn nếu cậu bảo giáo dục là có hại, thì đó là phương vị chung đối lập. Nói vậy thì có vẻ bóng bẩy hơn đấy, nhưng thực chất cũng chỉ là một.- Thế thì lẽ phải ở đâu, lẽ phải thuộc bên nào?

- Ở đâu ấy à? Thì tớ cũng trả lời cậu bằng cách lặp lại chính câu hỏi đó: ở đâu?

- Tâm trạng của cậu hôm nay là đa sầu mất rồi, Evgheni ạ.

- Thật vậy sao? Hẳn là nắng đã làm mình toát cả mồ hôi ra rồi, và lẽ ra cũng không nên ăn quá nhiều quả mâm xôi như thế.- Vậy thì ta chợp mắt một lúc cũng không phải là không hay, - Arkadi nhận xét.

- Có lẽ thế. Nhưng cậu đừng nhìn tớ đấy nhé, ai ngủ mặt trông cũng đần độn ra thế nào ấy.

- Ai nghĩ về cậu như thế nào, cậu cũng bất kể kia mà?- Biết nói với cậu thế nào cho phải bây giờ. Đã là một người chân chính thì chẳng nên quan tâm đến chuyện đó làm gì. Con người chân chính là một người mà người ta không phải nghĩ ngợi gì về người đó cả, là một người mà người ta hoặc phải tuân theo, hoặc phải căm ghét.

- Quái lạ thật! Mình chẳng căm ghét ai sất cả, - suy nghĩ một lát, Arkadi nói.

- Mình thì lại căm ghét nhiều người. Cậu là một tâm hồn ủy mị, một con người nhu nhược, cậu còn căm ghét ai được!... Cậu nhút nhát, cậu ít trông mong được vào chính bản thân cậu...

- Vậy cậu trông mong được vào chính bản thân cậu sao? - Arkadi ngắt lời, - cậu tự đánh giá cao bản thân mình sao?

Bazarov làm thinh.

- Khi nào tớ gặp một ai đó không chịu thua tớ, - chàng rành rẽ nói, - thì tớ sẽ thay đổi ý kiến về bản thân tớ. Tớ căm ghét đấy. Tỷ như hôm nay chẳng hạn, khi đi qua ngôi nhà gỗ của ông thôn trưởng Philipp làng ta, một ngôi nhà trắng toát, đẹp ra trò, thì cậu bảo rằng nước Nga sẽ đạt tới chỗ toàn thiện khi nào người nông dân cuối cùng có được một ngôi nhà như vậy, và mỗi người chúng ta đều phải góp phần thúc đẩy sự nghiệp ấy... Nhưng tớ thì tớ lại căm ghét cái mà anh nông dân cuối cùng đó, dù đấy là Philipp hay là Xidor đi nữa, dù chính vì anh ta mình đã phải cố gắng hết mình, thậm chí chẳng nhận được của anh ta một lời cảm ơn nào... với lại, mình cần đến lời cảm ơn của anh ta làm gì kia chứ? Ờ, thì anh ta cứ ở trong cái ngôi nhà gỗ trắng lốp ấy, còn mình thì sẽ chỉ làm phân bón cho một cây ngưu bàng thôi! Ờ, thế rồi thì sao nữa nhỉ?

- Đủ rồi đấy, cậu Evgheni ạ... Nghe cậu nói hôm nay tự nhiên mình lại đâm ra phải đồng ý với những người đang trách chúng mình là vô nguyên tắc mất.

- Cậu nói y hệt ông bác cậu. Chẳng có nguyên tắc nguyên tiếc gì cả đâu, thế mà cho tới giờ cậu vẫn chưa vỡ nhẽ. Chỉ có những cảm giác mà thôi. Tất cả đều chỉ do đó mà ra.

- Sao lại thế được?

- Nó là thế đấy. Thí dụ như tớ khi tớ theo một phương hướng phủ định nào đó chẳng hạn, thì đấy là do cảm giác của tớ. Tớ thấy thích phủ định, bộ não của tớ nó được sắp đặt theo hướng đó, thế thôi! Tại sao tớ lại thích hóa học? Tại sao cậu lại thích ăn táo? Cũng là do cảm giác mà ra. Tất cả những hiện tượng đó đều thống nhất cả. Con người không bao giờ có thể thâm nhập sâu hơn điều đó được. Chuyện này không phải ai ai cũng có thể nói với cậu, mà mình thì cũng sẽ không nói lại với cậu chuyện đó nữa đâu.

- Vậy là sao? Cả tính thật thà cũng là cảm giác thôi ư?

- Còn gì nữa!

- Evgheni! - Arkadi cất lên một giọng buồn rầu.

- Hả? Sao? Không hợp khẩu vị hả? - Bazarov cắt ngang. - Không, người anh em ạ! Để quyết tâm ngả rạ thì chính mình cũng phải lăn mình xuống!... Nhưng chúng ta đã triết lý quá đủ rồi đấy. “Thiên nhiên khêu gợi cái thầm lặng của giấc mơ”, - Puskin đã nói thế.- Puskin chẳng nói thế bao giờ cả, - Arkadi nói.

- Ờ, dù Puskin không nói thế thì ông ấy vẫn có thể và phải nói thế với tư cách là một thi sĩ. Mà chắc hẳn là Puskin cũng đã phục vụ trong quân đội rồi.

- Puskin chưa bao giờ là nhà quân sự cả.

- Thôi xin cậu, trang sách nào của ông ta mà chẳng đầy rẫy những câu: Xung phong, xung phong! Vì danh dự của nước Nga! 6

- Sao cậu bịa ra lắm chuyện thế! Rút cục đó là một sự vu cáo đấy.

- Vu cáo? Quan trọng thế kia ư! Cậu nghĩ ra cái từ như thế để dọa tớ sao! Dù cậu có vu cáo con người đến đâu chăng nữa thì về thực chất con người vẫn đáng vu cáo gấp hai chục lần hơn thế nữa kia!

- Thôi thà ngủ đi còn hơn! - Arkadi nói với vẻ bực bội.

- Hết sức vui lòng, - Bazarov đáp.Nhưng cũng chẳng một ai ngủ được. Cả hai chàng trai trẻ đều thấy lòng mình tràn ngập một tình cảm hầu như thù nghịch nào đó. Năm phút sau họ lại mở mắt ra và lặng lẽ đưa mắt nhìn nhau.

- Cậu trông kìa, - Arkadi bỗng nói, - một chiếc lá phong khô rụng ra và đang rơi xuống đất. Nó bay lượn chẳng khác nào một cánh bướm. Kỳ dị đấy chứ? Cái héo tàn và buồn thảm nhất thì lại hệt như cái sống động và vui tươi nhất.

- Ôi, anh bạn Arkadi! - Bazarov kêu lên, - tớ xin cậu một điều: cậu đừng nói văn hoa nữa.

- Biết cách nói thế nào thì tớ nói thế... Mà rút cục thái độ cậu như thế là chuyên quyền độc đoán đấy. Tớ có ý nghĩ nẩy ra trong đầu, tại sao tớ lại không được nói ra?

- Được rồi. Thế thì cả tớ nữa, tại sao tớ lại không được phát biểu ý nghĩ của tớ. Tớ thấy thói văn hoa chẳng hay ho gì.

- Vậy thế nào là hay ho? Chửi nhau chăng?

- Ê, ề! Tớ thấy đúng là cậu định đi theo bước ông bác rồi đấy. Nếu cái ông ngu xuẩn ấy mà nghe được lời cậu nói thì ông ấy khoái biết chừng nào!

- Cậu gọi ông Pavel Petrovich là gì thế?

- Tớ gọi một cách đúng mức rằng ông ấy là kẻ ngu xuẩn.

- Nhưng cậu nói thế thì ai mà chịu nổi! - Arkadi kêu lên.

- A-ha! Lại nổi tình máu mủ lên rồi đấy, - Bazarov bình tĩnh nói. - Tớ thấy rồi, cái thứ tình cảm ấy thường ăn sâu bám chắc trong con người ta. Con người ta sẵn sàng từ chối hết thảy, sẵn sàng từ bỏ bất kỳ một thành kiến nào. Thế nhưng nếu phải thừa nhận rằng cậu em ruột mình đi thó khăn tay của người ta chẳng hạn, là kẻ ăn cắp chẳng hạn, thì cái đó lại vượt quá sức lực của con người ta mất rồi. Mà cũng quả là như vậy thật: thằng em của tôi, thằng em của tôi ấy mà, nó cũng chẳng phải thần thánh gì... liệu có thể được không?

- Thế nhưng ở tớ chỉ là thái độ công bằng một cách bình thường thôi, chứ chẳng phải là tình máu mủ gì cả, - Arkadi nổi nóng lên, cãi lại. - Nếu như cậu không hiểu được thái độ đó, nếu như cậu không có cái cảm giác đó, thì cậu cũng không thể xét đoán về nó được.- Nói cách khác, ông Arkadi Kirxanov là quá cao xa so với sự hiểu biết của tôi. Vậy thì tôi xin cúi đầu bái phục và xin ngậm miệng vậy.

- Thôi đủ rồi, Evgheni, xin cậu. Cuối cùng khéo chúng ta lại xích mích với nhau mất.

- Ôi, Arkadi! Cậu làm phúc, để chúng ta xích mích một trận cho ra trò đi, xích mích kịch liệt, đến tận chỗ tiêu diệt nhau đi.

- Nếu vậy thì có lẽ rốt cuộc chúng ta sẽ...

- Sẽ đánh nhau chăng? - Bazarov bắt lời. - Thì sao nào? Trong đồng cỏ khô ở đây, trong cảnh điền viên cách xa thế giới và ngoài tầm mắt người đời thế này thì chẳng can gì đâu. Nhưng cậu chẳng ăn được tớ đâu. Tớ sẽ tóm lấy cổ cậu ngay bây giờ...

Bazarov xòe ngay những ngón tay dài mà cứng của mình ra. Arkadi cũng quay ngoắt lại và chuẩn bị đối phó với vẻ đùa bỡn... Nhưng chàng lại thấy nét mặt của bạn có vẻ dữ dội, từ đôi môi anh ta méo xệch trong một tiếng cười gằn và từ đôi mắt nảy lửa của anh ta đều lộ ra một mối đe dọa thật sự đến nỗi chàng bất giác cảm thấy e dè...

- À! Té ra các cậu chui vào mãi tận đây! - chính trong giây lát đó đã vang lên tiếng ông Vaxili Ivanovich, và rồi ông nguyên quân y sĩ ấy đã hiện ra trước mặt hai chàng trai trẻ, mình ông bận một chiếc áo véttông bằng vải gai tự may lấy, đầu ông đội chiếc mũ rơm cũng tự tạo. - Thảo nào tôi cứ đi tìm các cậu hoài... Nhưng các cậu đã chọn được một chỗ cực tốt và đang làm một công chuyện cực hay. Nằm “đất” mà nhìn “trời”... Các cậu biết không... việc đó có một ý nghĩa đặc biệt nào đó đấy nhé!

- Con chỉ nhìn trời khi nào định hắt hơi mà thôi, - Bazarov càu nhàu, rồi chàng khẽ nói thêm với Arkadi, - tiếc là ông cụ đã ngăn trở tớ.

- Thôi đi, đủ rồi đấy, - Arkadi nói thêm, đoạn lén nắm lấy bàn tay của bạn. - Nhưng nếu cứ va chạm như thế mãi thì chẳng tình bạn nào đứng vững nổi đâu.

- Tôi đang nhìn các bạn đấy, các bạn đối thoại trẻ tuổi của tôi ạ, - trong khi đó, ông Vaxili Ivanovich đã khoanh hai tay dựa lên một chiếc gậy quấn vằn vèo rất khéo do ông tự chế ra, cán gậy lại là hình một anh Thổ Nhĩ Kỳ, rồi ông lắc đầu mà nói, - tôi nhìn và tôi không thể không ngắm nghía các bạn. Trong con người các bạn có biết bao sức lực, biết bao sức thanh xuân đang độ nở hoa, biết bao năng lực và tài trí! Đó thật là... Castor và Pollux! 7

- Cụ lại còn giở cả thần thoại ra nữa kia đấy! - Bazarov nói. - Bây giờ mới càng rõ đã có thời cụ là một nhà Latinh học cự phách! Con còn nhớ là bố đã từng được huy chương bạc về một bài luận văn phải không nhỉ?

- Các bạn là những vị Dioscuri, những vị Dioscuri! 8 - ông Vaxili Ivanovich nhắc lại.

- Nhưng thôi, đủ rồi, bố ạ, chớ sướt mướt ủy mị nữa.

- Cả một đời mới có một lần thì cũng chẳng sao, - ông già lẩm bẩm. - Tuy nhiên, thưa các vị, tôi đi tìm các vị không phải để khen ngợi các vị, mà là để, một là, thưa với các vị chúng ta sắp ăn bữa trưa, và hai là, riêng với Evgheni, bố định báo để con biết trước... Con là người thông minh, con biết được con người, con biết cả tâm lý phụ nữ, và do đó chắc con sẽ tha thứ... Mẹ con muốn làm một cái lễ tạ ơn Chúa nhân dịp con về thăm nhà. Con đừng tưởng là bố gọi con về dự lễ đó đâu, lễ đã làm xong xuôi rồi, nhưng cha Alekxei..

- Ông cố đạo ạ?

- Ờ phải, ông linh mục... ông ấy sẽ... ăn trưa với nhà ta... Bố cũng không ngờ và thậm chí cũng chẳng góp ý kiến như thế... nhưng chẳng biết thế nào nó lại xảy ra như vậy... ông ấy không hiểu hết ý bố... Ờ, mà cả mẹ con nữa... Tuy nhiên, ở địa phương này ông ấy cũng là con người rất tốt và rất biết điều.

- Chắc khi ngồi vào bàn ông ấy sẽ không ăn mất phần của con chứ? - Bazarov hỏi.

Ông Vaxili Ivanovich phì cười.

- Ấy, sao con lại nói thế!

- Thế thì con chẳng đòi hỏi gì hơn cả. Con sẵn sàng ngồi ăn với bất kỳ ai.Ông Vaxili Ivanovich sửa lại chiếc mũ trên đầu mình.

- Ngay từ đầu bố đã tin chắc là con đứng trên cả mọi thành kiến, - ông nói. - Ngay cả bố đây, một ông già đã sáu mươi hai tuổi đầu, mà bố cũng có thành kiến gì đâu. (Ông Vaxili Ivanovich không dám thừa nhận rằng chính ông cũng muốn có cuộc lễ tạ ơn này... Ông cũng sùng tín chẳng kém gì bà vợ). Còn cha Alekxei thì rất muốn làm quen với con. Con sẽ thích ông ấy cho mà xem. Nếu có đánh bài thì ông ấy cũng chẳng chối từ đâu, và thậm chí... đây là ta nói riêng với nhau thôi nhé... ông ấy hút cả thuốc tẩu nữa đấy.

- Có sao đâu? Ăn xong ta sẽ đánh bài êralasơ, và con sẽ đánh cho ông ấy thua cho coi.

- Hê-hê-hê, rồi ta sẽ xem! Cái đó thì chưa chắc đâu.

- Sao đấy! Bố định khơi dậy cái cũ hay sao đấy! - Bazarov nói với giọng nhấn mạnh đặc biệt.

Đôi má màu đồng đen của ông Vaxili Ivanovich vụt mờ đỏ lên.

- Evgheni, con nói thế mà không ngượng sao... Chuyện gì đã qua là đã qua rồi. Phải rồi, bố cũng sẵn sàng thừa nhận trước mặt cậu ấy là hồi còn trẻ, bố đã từng có sự say mê đó, đúng thế đấy. Và cũng đã phải trả giá đắt vì nó! Nhưng, sao nóng nực thế nhỉ. Các cậu cho phép ngồi ghé đây một chút. Chắc không phiền gì các cậu chứ?

- Không sao đâu ạ, - Arkadi đáp.

Ông Vaxili Ivanovich ì ạch ngồi xuống đống cỏ khô.

- Các cậu ạ, cái giường đặc biệt này của các cậu, - ông mở lời, - lại khiến tôi nhớ đến cuộc sống nhà binh, cuộc sống doanh trại dã chiến và những trạm băng bó của tôi hồi xưa, cũng ở cạnh các đống rơm, đụn cỏ như thế này, và được như vậy cũng là nhờ Trời rồi đấy. - Ông thở dài. - Cuộc đời tôi cũng đã cay đắng đủ mùi. Nếu các cậu cho phép, tôi sẽ kể các cậu nghe tỷ dụ như một trường hợp dịch hạch rất kỳ lạ ở vùng Bexarabia chẳng hạn.

- Do đó bố được huân chương Vladimir chứ gì? - Bazarov tiếp lời. - Chúng con biết rồi, chúng con biết rồi... Nhân thể hỏi bố tại sao bố lại không đeo huân chương?

- Thì bố đã nói với con nhiều lần là bố không có thành kiến mà lại, - ông Vaxili Ivanovich lủng bủng (chỉ tới hôm qua ông mới ra lệnh tháo chiếc dải đỏ ra khỏi chiếc áo ngoài của ông), đoạn ông bắt đầu kể câu chuyện dịch hạch ấy. - Mà nó ngủ mất rồi kìa, - ông bỗng trỏ tay vào Bazarov, ghé tai nói thầm với Arkadi và hiền lành nháy mắt với chàng. - Evgheni! Dậy thôi! - ông cất cao giọng nói thêm. - Ta về ăn trưa thôi!

Cha Alekxei là một người đàn ông trông bệ vệ và đầy đặn, mái tóc rậm chải rất cẩn thận, mặc một chiếc áo chùng lụa màu tím nhạt bó thắt lưng thêu. Té ra ông ta cũng là một con người rất khéo ở và tháo vát. Dường như biết trước rằng Arkadi và Bazarov chẳng cần gì đến sự cầu chúc của mình, ông đã chủ động chạy lại trước tiên để bắt tay hai chàng, và nói chung ông ứng xử một cách rất tự nhiên. Ông chẳng bộc lộ bản thân mình mà cũng tránh va chạm với người khác. Ông chế nhạo cái tiếng Latinh trong chủng viện nhưng lại bênh vực vị giáo chủ của mình. Ông uống cạn hai ly rượu nho, nhưng lại từ chối ly thứ ba. Ông nhận điếu xìgà Arkadi đưa, nhưng lại không hút, bảo rằng sẽ mang về nhà. Ông ta chỉ có mỗi một điều khiến người ta không lấy gì làm dễ chịu lắm là chốc chốc ông lại từ từ và thận trọng đưa tay lên để tóm lấy những con ruồi đậu trên mặt và thậm chí thỉnh thoảng bóp chết chúng. Khi ngồi vào bàn đánh bài ông tỏ vẻ vui lòng một cách có chừng mực, và kết cục là Bazarov đã thua ông một khoản tính ra tiền giấy là hai rúp năm mươi kôpếch, bởi vì trong nhà bà Arina Vlaxievna không ai có khái niệm về việc thanh toán bằng bạc trắng... Bà Arina Vlaxievna vẫn cứ ngồi cạnh cậu con trai như thế (bà vốn không đánh bài), vẫn cứ đưa nắm tay nhỏ bé lên tì má như thế, và chỉ thỉnh thoảng đứng dậy để bảo bưng lên món ăn gì đó. Bà sợ không dám tỏ ra chiều chuộng Bazarov, còn Bazarov không khuyến khích mẹ chiều chuộng mình mà cũng chẳng tìm cách làm nũng mẹ. Hơn nữa, chính ông Vaxili Ivanovich cũng đã có khuyên nhủ bà không nên quá “quấy rầy” cậu con trai. Ông luôn nhắc bà: “Thanh niên bây giờ nó chẳng thích thế đâu” (và bữa ăn hôm đó thì khỏi phải nói nữa: bác Timopheich phải thân chinh phóng ngựa đi từ sáng tinh mơ để mua thứ thịt bò vùng Tserkaxx đặc biệt nào đó; ông thôn trưởng cũng phải đi xe ngựa đến một địa phương khác để mua giúp cá tuyết sông, cá dầy, tôm; chỉ riêng khoản nấm mấy bà nông dân cũng đã thu được tới bốn mươi hai kôpếch). Thế nhưng đôi mắt bà Arina Vlaxievna đăm đăm nhìn Bazarov không chỉ biểu tỏ lòng tận tụy và niềm trìu mến, mà người ta còn thấy ở đó cả một nỗi buồn xen lẫn vẻ tò mò và sợ hãi, cùng với một thái độ trách móc nhẫn chịu nào đó.

Tuy nhiên, Bazarov nào có để tâm gì đến việc phân tích xem đích thực đôi mắt mẹ mình nói lên điều gì. Chàng ít khi nói chuyện với bà, và có nói thì cũng chỉ là những câu hỏi cụt lủn mà thôi. Có một lần, chàng xin được nắm tay bà để “lấy may”, bà bèn nhẹ nhàng đặt bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại của mình vào lòng bàn tay to lớn, cứng cáp của con.

- Sao, - sau đó một lát bà hỏi, - có ăn thua gì không?

- Lại càng tồi tệ hơn ấy, - chàng cười khẩy với vẻ khinh thường mà đáp.

- Họ đánh mạo hiểm quá sá rồi đấy, - cha Alekxei dường như tỏ vẻ tiếc, rồi đưa tay vuốt chòm râu đẹp đẽ.

- Quy tắc của Napoleon đấy, cha ạ, đấy là quy tắc của Napoleon, - ông Vaxili Ivanovich hòa lời rồi đặt xuống một con át.

- Chính quy tắc ấy đã đưa ông ta đến đảo Saint-Helen 9, - cha Alekxei nói, đoạn đem con chủ bài chặn lên con át.- Có muốn uống nước phúc bồn tử không, Evgheni? - bà Arina Vlaxievna hỏi.

Bazarov chỉ nhún hai vai.

- Không! Ngày mai mình sẽ ra đi thôi, - ngày hôm sau chàng bảo Arkadi. - Buồn chán rồi. Muốn làm việc mà ở đây thì không sao làm việc được. Mình sẽ lại sang quê cậu thôi, các đồ pha chế mình còn để cả bên ấy. Ở chỗ cậu chí ít còn có thể đóng chặt cửa lại được. Còn ở đây, ông cụ luôn mồm bảo mình: “Thư phòng bố để con hoàn toàn sử dụng, sẽ không ai quấy rầy con được đâu”, thế mà chính ông cụ lại không rời mình nửa bước. Nếu đóng chặt cửa không cho cụ vào thì mình cũng thấy ngường ngượng thế nào ấy. Lại cả bà cụ nữa chứ. Mình nghe cụ cứ thở dài hoài bên kia vách, nhưng muốn sang gặp cụ cũng chẳng có gì để nói với cụ được cả.

- Cụ bà sẽ buồn phiền lắm đấy, - Arkadi nói, - và cả cụ ông nữa.

- Mình sẽ còn quay về kia mà.

- Bao giờ?

- Thì khi mình lên Peterburg ấy.

- Mình thương hại nhất là mẹ cậu.

- Thế là thế nào? Cụ cho cậu ăn dâu tây rồi chứ gì?

Arkadi đưa mắt nhìn xuống.

- Evgheni ạ, cậu chưa hiểu mẹ cậu đâu. Cụ chẳng những là một phụ nữ tuyệt vời, mà lại còn rất thông minh nữa là khác, thật thế đấy. Sáng nay cụ nói chuyện với mình đến nửa tiếng đồng hồ, mà cụ nói thiết thực lắm, hay lắm.

- Chắc cụ lại rặt huyên thuyên về tớ chứ gì?

- Không chỉ nói về cậu mà thôi.

- Có thể thế. Cậu ở ngoài, thấy rõ hơn. Một khi người phụ nữ đã kiên trì nói chuyện được tới nửa tiếng đồng hồ thì đó đã là một điềm hay. Nhưng dù sao tớ vẫn sẽ lên đường.

- Đối với cậu, việc báo tin đó cho các cụ cũng không phải chuyện dễ đâu. Các cụ hiện đang chỉ bàn tính xem chúng ta sẽ làm gì trong hai tuần tới.

- Không dễ. Mà ngày hôm nay quỷ đã xui khiến mình phải trêu chọc ông cụ, bởi lẽ mới đây ông cụ đã ra lệnh đánh đòn một người nông dân cấy rẽ cho nhà mình, và ông cụ làm điều ấy rất tốt đấy! Phải, phải, cậu chớ nhìn mình với vẻ khủng khiếp thế, cụ làm thế là rất tốt, bởi vì đối với kẻ ăn cắp và say rượu thì cụ là người cực kỳ đáng sợ. Có điều cụ không ngờ, như người ta thường nói, mình lại biết tỏng ra rồi. Thế là cụ rất lúng túng, và giờ đây mình lại phải làm phiền lòng cụ thêm chút nữa... Không sao đâu! Sứt sát qua loa thôi!

Tuy Bazarov nói “Không sao đâu!”, nhưng cả một ngày trôi qua mà chàng ta vẫn chưa dám báo cho ông Vaxili Ivanovich biết ý định của mình. Cuối cùng, mãi tới khi chào ông cụ trước khi đi ngủ tại thư phòng, chàng ta mới vừa ngáp dài vừa nói:

- À vâng... suýt nữa con quên không nói với bố... Bố bảo ngày mai đưa sẵn ngựa đến chỗ bác Phedot để chờ xe đến thay ngựa.

Ông Vaxili Ivanovich sửng sốt.

- Cậu Kirxanov đi khỏi nơi đây hay sao?

- Vâng, cả con cũng cùng đi với cậu ấy.Ông Vaxili Ivanovich quay ngoắt hẳn lại:- Con đi sao?

- Vâng... con cần đi. Bố bảo bố trí ngựa cho con nhé.

- Được... - ông lão lắp bắp, - đưa sẵn ngựa đến để chờ thay... được... có điều là... có điều là... Tại sao lại thế nhỉ?

- Con cần đến chỗ cậu ấy một thời gian ngắn. Rồi con sẽ quay lại đây nữa mà.

- Ờ! Một thời gian ngắn... Được. - Ông Vaxili Ivanovich rút ra chiếc mùi xoa và rồi vừa hỉ mũi ông vừa cúi rạp chỉ một tí nữa là xuống đến tận đất. - Có sao? Cái đó... sẽ có đủ. Bố ngỡ là con sẽ ở nhà với bố mẹ... được lâu hơn... Mới được ba ngày... Chừng ấy, chừng ấy, sau ba năm trời, hơi ít, hơi ít đấy, Evgheni ạ!

- Thì con đã bảo bố là con sẽ trở về mau thôi mà. Việc con cần phải thế.

- Cần phải thế... Có sao đâu? Trước hết phải làm tròn bổn phận đã... Vậy là phải cho ngựa đi trước chứ gì? Được thôi. Tất nhiên là bố với mẹ con chẳng ngờ thế đâu. Đấy, con xem, mẹ con đã xin bà hàng xóm cho ít hoa, định để bày biện trong buồng cho con. (Ông Vaxili Ivanovich cũng còn chưa kể đến chuyện sáng sáng ngay từ lúc tinh mơ, cứ chân không mà xỏ vào đôi giày đi trong nhà, ông đã đứng bàn bạc với bác Timopheich, bằng những ngón tay run lẩy bẩy đưa cho bác từng tờ bạc giấy rách nát một, để giao cho bác đi mua thứ này thứ nọ, nhất là mua thức ăn và mua thứ rượu vang đỏ mà ta có thể nhận xét là hai chàng trai trẻ đều rất thích uống). Điều chủ yếu là được tự do. Nguyên tắc của bố là... không nên ép buộc... không nên...

Ông bỗng ngừng bặt rồi tiến ra phía cửa.

- Chúng ta lại gặp nhau chóng thôi mà, bố ạ, thật thế đấy.

Nhưng ông Vaxili Ivanovich vẫn không ngoái lại, chỉ phẩy tay mà đi ra. Trở về buồng ngủ, thấy bà vợ mình đã nằm trong giường ông bèn lên tiếng khe khẽ cầu kinh để bà khỏi thức giấc. Thế nhưng bà vẫn tỉnh dậy.

- Ông đấy ư, ông Vaxili Ivanovich? - bà hỏi.

- Tôi đây, mẹ nó ạ!

- Ông ở chỗ thằng Evgheni về đó ư? Ông ạ, tôi sợ rằng không biết nó ngủ trên chiếc đivăng có được yên không? Tôi đã bảo mụ Anphixuska trải cho nó chiếc đệm hành quân nho nhỏ của ông và mấy chiếc gối mới. Tôi còn định đưa cho nó cả tấm đệm nhồi lông chim của ta nữa, nhưng sực nhớ là nó không thích nằm đệm quá êm.

- Không sao đâu, mẹ nó ạ, đừng lo. Nó ổn rồi. Lạy Chúa, hãy thương chúng con là kẻ có tội, - ông tiếp tục lầm rầm cầu kinh. Ông Vaxili Ivanovich thương hại bà già của mình. Đang đêm ông chẳng muốn cho bà biết trước nỗi đau khổ nào đang chờ đợi bà.

Ngày hôm sau, Bazarov cùng Arkadi lên đường. Ngay từ sáng trong nhà ai nấy đều đã cảm thấy chán nản. Bát đĩa cứ tuột ra khỏi tay mụ Anphixuska. Đến cả Phetka cũng cảm thấy ngỡ ngàng và rút cục đã phải tháo bỏ đôi ủng ra. Ông Vaxili Ivanovich thì đã tíu tít lên hơn lúc nào hết: ông làm ra vẻ gan góc, nói to, chân nện thình thịch, nhưng mặt ông trông hốc hác đi và thường ông không dám nhìn thẳng vào mặt cậu con trai. Bà Arina Vlaxievna đành chỉ khóc thầm. Nếu như sáng sớm nay ông cụ không bỏ ra cả hai tiếng đồng hồ liền để khuyên can bà thì có lẽ bà đã hoàn toàn hoang mang và không sao tự chủ được nữa. Thế rồi, sau nhiều lần hứa hẹn nhất định sẽ quay trở về chậm nhất là trong vòng một tháng, cuối cùng Bazarov đã dứt ra khỏi những vòng tay đang níu chàng lại để ngồi lên chiếc xe ngựa. Thế rồi khi ngựa đã cất bước, tiếng nhạc ngựa đã reo vang, và xe đã chuyển bánh, - và sau đó dù có rõi nhìn theo cũng chẳng để làm gì nữa cả, bụi đường đã lắng xuống, bác Timopheich lưng gù hẳn đi, đã thất tha thất thểu lê bước trở lại căn phòng xép của mình. Và thế rồi khi chỉ còn lại hai cụ già nhỏ bé trơ trọi trong ngôi nhà ấy, ngôi nhà mà người ta tưởng chừng như nó cũng đột nhiên co rúm lại và già khọm xuống, thì ông Vaxili Ivanovich mới cách đây vài phút còn hiên ngang đứng ra bậc thềm để đưa khăn lên vẫy, giờ đây đã ngồi sụp xuống ghế, đầu gục xuống tận ngực. “Nó bỏ chúng ta, nó bỏ chúng ta mà đi rồi! - ông lắp bắp. - Nó bỏ đi rồi. Sống với chúng ta nó buồn mất rồi. Bây giờ ta lại cô đơn, một mình một bóng!” - ông nhắc đi nhắc lại vài lần như thế và cứ mỗi lần ông lại đưa bàn tay chĩa riêng ngón trỏ ra phía trước. Lúc ấy, bà Arina Vlaxievna bèn tiến lại gần ông, tựa mái đầu bạc của mình vào mái đầu bạc của ông mà nói: “Ông Vaxili Ivanovich, biết làm thế nào được! Con trai như một lát bánh đã cắt riêng, nó chẳng khác nào con chim ưng, thích thì bay lại, không thích nữa thì bay đi. Còn tôi với ông chỉ như nấm mọc hốc cây, ngồi lại bên nhau, chẳng nhúc nhích đi đâu được. Dù sao, tôi cũng như ông, chúng ta sẽ suốt đời chung thủy sống bên nhau”.

Ông Vaxili Ivanovich liền buông đôi tay đang bưng lấy mặt mà ôm lấy bà vợ mình, ôm lấy người bạn đường của mình, và ôm chặt như hồi còn trẻ chưa hề ôm bà chặt thế bao giờ. Bà đã an ủi ông trong lúc sầu thương.

Chú thích:

1 Cincinnatus Lucius Quinetius (thế kỉ VI-V trước Công nguyên): nhà quý tộc, lãnh sự La Mã. Sống một cuộc sống thanh bạch, tự trồng trọt canh tác, nổi tiếng là một công dân kiểu mẫu.

2 Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778): nhà khai sáng, nhà dân chủ và nhân đạo Pháp, kẻ thù của giới quý tộc. Trong cuốn sách Bàn luận về nguồn gốc và cơ sở của sự không bình đẳng giữa con người (1755) của mình, ông đã đối lập xã hội hiện đại với “cuộc sống hạnh phúc của con người” ở trạng thái “tự nhiên”, thoát ra ngoài những ảnh hưởng tai hại của sự xa hoa và dư thừa quá mức, mà theo ý ông là bản chất của nền văn minh hiện đại. Rousseau cho rằng một trong những điều kiện để giáo dục và để cho cuộc sống con người có hạnh phúc là lao động chân tay.

3 Tức là vở opera Robert - con quỷ (1831) của nhà soạn nhạc Italia Giacomo Meyerbeer (1791 - 1864).

4 Xuvorov Alekxandr (1729 - 1800): thống soái kiệt xuất Nga.

5 Cây donnik - một loại cây họ đậu, khi được một - hai năm tuổi sử dụng như một vị thuốc nam.

6 Xung phong, xung phong! Vì danh dự của người Nga! - ở đây nhắc lại hầu như nguyên văn lời của nhà văn bình dân N. V. Uxpenxki nói về thơ của A. Puskin trong lần gặp gỡ với I. Turgenev ở Paris năm 1861. Nhân dịp này Turgenev đã viết thư cho P. V. Annienkov như sau: “Vừa rồi có ông Nikolai Uxpenxki yếm thế ghé thăm và dùng cơm với tôi. Và ông ta cho mình có bổn phận phải chỉ trích Puskin, ông ta khẳng định rằng trong toàn bộ thi ca của mình Puskin chỉ có hò hét mỗi một điều: “Xung phong, xung phong! Vì nước Nga thiêng liêng!” - (P. V. Annienkov. Hồi ký văn học, Peterburg, 1909).

7 - 8 Castor và Pollux (cũng là các Dioscuri - hai anh em sinh đôi trong thần thoại, con của thần Zeus và Leda). Ở đây có nghĩa là một tình bạn keo sơn.

9 Sau thất bại ở Waterloo, Napoleon thoái vị lần thứ hai (ngày 22 tháng Sáu năm 1815). Những năm cuối cùng ông bị người Anh đày ở đảo Saint-Helen.