Chương 20
Bazarov ló đầu ra khỏi mui xe, còn từ phía sau lưng bạn, Arkadi cũng thò cổ ra nhìn và thấy trên thềm ngôi nhà quý tộc nhỏ bé có một người cao lớn, với mái tóc bờm xờm, với chiếc mũi diều hâu nhỏ nhắn, và bận một chiếc áo nhà binh cũ kỹ để phanh ngực. Người đó đang đứng dạng chân, mồm hút một chiếc tẩu dài, mắt nheo lại vì nắng.
Mấy con ngựa dừng bước.
- Mãi bây giờ mới về tới nơi, - ông bố Bazarov nói, mồm vẫn tiếp tục hút thuốc, nhưng người ta thấy cái ống tẩu cứ nhảy lên bần bật trong những ngón tay ông. - Nào, xuống đi, xuống xe đi, ta chào hỏi nhau cái đã.
Ông ôm lấy cậu con trai... “Evgheni, Evgheni”, - đã nghe có tiếng gọi run rẩy của một người đàn bà. Cánh cửa mở toang và trên ngưỡng cửa thấy hiện ra một bà cụ người thấp bé, béo tròn, đội chiếc bonnê trắng và mặc chiếc áo cánh ngắn màu sặc sỡ. Bà kêu ối lên một tiếng, lảo đảo và hẳn là bà đã ngã xuống nếu không có Bazarov chạy lại đỡ lấy bà. Đôi tay nhỏ nhắn nhưng mũm mĩm của bà đã tức thời ôm vòng lấy cổ chàng, đầu bà gục vào ngực chàng, và lúc bấy giờ đâu đấy đều im
lặng, chỉ nghe thấy những tiếng nức nở đứt đoạn của bà.
Ông già Bazarov thở dốc và mắt ông càng nheo lại nhiều hơn trước.
- Thôi, đủ rồi, đủ rồi, bà Arina Vlaxievna! Thôi đi nào, - ông cất tiếng, sau khi đã cùng Arkadi (lúc ấy đang đứng im không nhúc nhích cạnh cỗ xe) đưa mắt nhìn nhau, còn người nông dân ngồi trên ghế giong xe thậm chí cũng phải quay mặt đi nơi khác. - Hoàn toàn không cần thiết thế đâu! Xin bà thôi đi cho.
- Ôi chao, ông Vaxili Ivanovich, - bà lão lắp bắp nói, - từ hồi nảo hồi nào đến giờ tôi mới được gặp thằng Evgheni thương nhớ, đứa con yêu quý của tôi... - và rồi, vẫn không nới lỏng đôi tay, bà ngẩng bộ mặt nhăn nhúm, đẫm lệ và thiết tha của mình lên mà nhìn vào cậu con trai bằng đôi mắt đờ đẫn, khá buồn cười, rồi lại gục đầu vào ngực cậu ta.
- Phải rồi, dĩ nhiên cũng là đúng với bản chất sự vật cả thôi, - ông Vaxili Ivanovich nói, - có điều là ta nên vào trong buồng đã thì hay hơn. Còn có ông khách cùng về với Evgheni nữa kia kìa. Xin lỗi cậu, - ông hướng về phía Arkadi nói thêm, khẽ kéo lết một bên chân, - cậu hiểu cho, đàn bà vốn yếu mềm, và lại thêm tấm lòng của người mẹ...T
hế nhưng đôi môi và đôi mày của chính ông cũng đang giần giật lên, cằm của ông cũng đang rung lên... Song rõ ràng là ông muốn nén lòng mình và muốn tỏ ra điềm tĩnh ít nhiều. Arkadi cúi đầu.
- Đúng thế đấy, mẹ ạ, ta đi vào thôi, - Bazarov nói, đoạn dẫn bà lão đã kiệt sức vào trong nhà. Dìu cho bà ngồi vào một chiếc ghế bành yên ấm xong, chàng lại vội vã quay ra ôm hôn ông bố và giới thiệu Arkadi với ông.
- Thành thật vui lòng được quen biết cậu, - ông Vaxili Ivanovich nói, - có điều là xin cậu lượng thứ cho, chỗ tôi ở đây cái gì cũng đơn giản thôi, theo kiểu nhà binh. Bà Arina Vlaxievna, xin bà hãy bình tâm lại cho tôi nhờ, sao bà nhu nhược quá thể như vậy? Vị khách đây sẽ phải trách cứ bà đấy.
- Cha mẹ ơi, - bà lão nói qua nước mắt, - cả họ tên cậu tôi cũng chưa hân hạnh được biết...
- Arkadi Kirxanov, - ông Vaxili Ivanovich bèn khẽ nhắc bà với vẻ trang trọng.
- Cậu tha lỗi cho tôi, cho bà lão ngu đần này. - Bà lão hỉ mũi, ngoẹo đầu hết sang bên phải lại sang bên trái, lau thật kỹ mắt bên này rồi lại lau mắt bên kia. - Cậu tha thứ cho tôi. Bởi vì tôi những tưởng là tới khi chết cũng không được gặp mặt thằng con yêu... yêu... yêu quý của tôi...
- Thưa quý bà, thế là quý bà đã gặp được nó rồi, - ông Vaxili Ivanovich đỡ lời. - Tanhiuska đâu, - ông nói với một con bé chừng mười ba tuổi, đi chân đất, mặc chiếc váy vải hoa màu đỏ chói, đang sợ hãi lấp ló ở ngoài cửa, - mang cho bà mày cốc nước, đặt lên khay hẳn hoi nhé, nghe chưa? Còn các quý ông đây, - ông nói thêm với một vẻ khách sáo cổ xưa nào đó, - thì tôi xin phép được mời vào thư phòng của một lão chiến binh đã về hưu.
- Evgheni, cho mẹ được ôm con một chút xíu nữa nào, - bà Arina Vlaxievna rên rỉ. Bazarov bèn cúi xuống với bà. - Mà bây giờ con đẹp trai quá chừng rồi!
- Ờ, đẹp trai hay không chả biết, - ông Vaxili Ivanovich nhận xét, - nhưng là một người đàn ông, là omphe như người ta thường nói. Thế còn bây giờ, bà Arina Vlaxievna ạ, tôi mong rằng, sau khi đã no lòng người mẹ rồi, thì bà sẽ chăm lo đến việc làm no lòng những vị khách quý của mình, bởi vì bà biết rằng có thực mới vực được đạo.
Bà lão nhỏm người dậy khỏi chiếc ghế bành.
- Ông Vaxili Ivanovich ạ, bàn ăn sẽ được dọn xong ngay bây giờ, tôi sẽ thân chinh chạy xuống bếp và sẽ bảo đặt chiếc ấm xamovar lên, sẽ có đủ, đủ hết. Đã ba năm nay tôi không thấy mặt nó, không được nấu nướng cho nó ăn, không được rót nước cho nó uống, đâu có phải chuyện dễ?- Được rồi, bà chủ ạ, bà liệu đấy, bà chăm lo đi, chớ để mang tiếng. Còn các quý vị thì xin mời quá bộ theo tôi. Kìa lại có bác Timopheich đến chào con nữa kia, Evgheni ạ. Cả cái con vện già này cũng mừng vui đấy. Sao? Cũng mừng vui đấy chứ, con vện già? Xin mời đi theo tôi.
Thế rồi ông Vaxili Ivanovich tất tả tiến lên, kéo lệt xệt đôi giày đã mòn vẹt.
Toàn bộ ngôi nhà nhỏ này của ông chỉ gồm sáu căn buồng bé tí tẹo. Một trong những căn buồng ấy, nơi ông đang dẫn hai bạn trẻ của chúng ta đến đó, được gọi là thư phòng. Một chiếc bàn có chân to tướng, trên chất đầy những giấy má đen ngòm bụi lưu niên hệt như bị hun khói, choán mất toàn bộ khoảng cách giữa hai khung cửa sổ. Trên tường treo những khẩu súng Thổ Nhĩ Kỳ, những chiếc roi da, một thanh gươm, hai tấm bản đồ, những tranh vẽ về giải phẫu gì đó, một bức chân dung của Hufeland 1, những chữ kết bằng tóc đặt trong một chiếc khung đen và một tấm văn bằng có lồng kính. Một đivăng da đã lún và rách đôi chỗ được đặt giữa hai chiếc tủ kếch sù bằng thứ gỗ bạch dương quý vùng Karelia. Trên những giá gỗ xếp chật ních và bừa bộn những sách, hộp, những con chim nhồi rơm. Ở một góc buồng là chiếc máy điện đã hỏng.
- Thưa cậu khách quý mến, - ông Vaxili Ivanovich cất tiếng, - tôi xin thưa trước để cậu rõ rằng chúng tôi sống ở đây có thể nói là theo kiểu cắm trại nhà binh.
- Thôi đi bố, sao bố cứ xin lỗi làm gì? - Bazarov cắt ngang. - Cậu Arkadi thừa hiểu rằng bố con mình đâu có phải Thạch Sùng, Vương Khải và nhà bố đâu có phải lâu đài, cung điện gì. Ta xếp cho cậu ấy nghỉ chỗ nào, đó là vấn đề.
- Được rồi, Evgheni ạ. Ở chái bên đằng kia bố có một căn buồng nhỏ rất tốt, anh ấy ở đấy sẽ rất tiện thôi.
- Vậy là bố đã làm thêm được cả chái bên rồi sao?
- Có chứ ạ, ở chỗ nhà tắm ấy ạ, - bác Timopheich xen lời.
- Nghĩa là ngay cạnh nhà tắm, - ông Vaxili Ivanovich vội vã đế thêm. - Bây giờ mùa hè rồi... Bố sẽ chạy xuống đấy xếp đặt ngay bây giờ. Còn bác Timopheich thì cứ ra tạm mang đồ lề của cậu ấy vào đi đã. Còn con, Evgheni ạ, dĩ nhiên là bố dành cho con nơi thư phòng của bố. Suum cuique.
- Đấy, cậu thấy chưa! Một ông già hết sức ngộ nghĩnh và cực kỳ tốt bụng, - Bazarov nói thêm ngay sau khi ông Vaxili Ivanovich vừa bước khỏi phòng. - Cũng kỳ khôi như ông cụ cậu vậy, nhưng theo kiểu khác. Bây giờ cụ đâm ra lắm điều tợn.
- Tớ nghĩ là cả mẹ cậu nữa, cũng là một người phụ nữ tuyệt vời, - Arkadi nhận xét.
- Ừ, bà mẹ tớ chẳng quanh co gì. Rồi cậu sẽ thấy cụ cho cánh mình ăn bữa trưa ra trò.
- Cậu chủ ạ, hôm nay không ngờ cậu về, thành thử không chở thịt bò về, - bác Timopheich vừa xách vali của Bazarov vào, nói vậy.
- Không có thịt bò cũng chẳng sao, cứ anh có tóc chứ ai cứ anh trọc đầu. Người ta thường nói: nghèo đâu phải tật xấu.
- Ông bố cậu có bao nhiêu nông nô? - Arkadi bỗng hỏi.
- Điền trang này không phải của bố tớ mà là của mẹ tớ. Số nông nô, mình nhớ là khoảng mười lăm người.
- Cộng tất cả là hai mươi hai đấy ạ, - bác Timopheich nói với vẻ không bằng lòng.
Nghe có tiếng giày lệt xệt và đã thấy ông Vaxili Ivanovich quay lại.
- Chỉ vài phút nữa là buồng của cậu sẽ sẵn sàng nghênh đón cậu, - ông kêu lên với vẻ đắc thắng, - cậu Arkadi... Kirxanov? Hình như quý tính đại danh là như thế phải không ạ? Thế còn đây là người hầu hạ cậu, - ông nói thêm, trỏ vào một thằng bé đầu húi cua, mình mặc chiếc áo nông dân màu xanh sẫm thủng ở khuỷu tay, chân đi ủng mượn của người khác, vừa theo ông bước vào phòng. - Tên nó là Phetka. Mặc dù thằng con tôi nó cấm, nhưng tôi cũng cứ xin thưa lại cậu là xin cậu lượng thứ cho. Tuy vậy thằng bé này nó cũng biết nhồi thuốc vào tẩu đấy. Cậu hút thuốc chứ gì?
- Cháu thường hay hút xìgà kia ạ. - Arkadi đáp.
- Cậu xử sự như thế cũng là rất hợp lý. Chính tôi cũng thích hút xìgà hơn, nhưng ở vùng hẻo lánh như chỗ chúng tôi đây, kiếm ra xìgà quả là cực kỳ khó khăn.
- Thôi, bố than thân trách phận thế đủ rồi, - Bazarov lại cắt ngang. - Tốt hơn là bố ngồi lên đivăng kia để con được xem xem bố ra thế nào nào.
Ông Vaxili Ivanovich bật cười, ngồi xuống. Bộ mặt ông rất giống bộ mặt cậu con trai, có điều là trán ông thấp và hẹp hơn, miệng có rộng hơn đôi chút, và ông thường đi đi lại lại liên tục, hay so vai lên hệt như mặc chiếc áo nách quá chật, hay nháy mắt, hay ho vặt và hay ngó ngoáy những ngón tay, còn con trai ông thì lại từ tốn với vẻ ngạo mạn.
- Than thân trách phận ư! - ông Vaxili Ivanovich nhắc lại. - Evgheni, con ạ, con đừng tưởng là bố muốn than vãn với khách rằng bố đang sống ở một nơi hiu quạnh đâu. Trái lại, bố cho rằng đối với người biết suy nghĩ thì chẳng có nơi nào là hiu quạnh cả. Chí ít bố cũng hết sức cố gắng, như người ta thường nói, không mọc rêu ra, không lạc hậu với thời đại
Ông Vaxili Ivanovich rút trong túi ra một chiếc khăn lụa mỏng màu vàng mà ông đã kịp mang theo khi chạy đến buồng Arkadi, phe phẩy nó trong không khí và tiếp tục nói:
- Tôi cũng chửa nói đến những chuyện tỷ dụ như tôi đã chuyển nông dân sang chế độ phát canh thu tô, cho đất để họ cấy rẽ, và làm như vậy cũng không phải là mình không có những sự hy sinh đáng kể. Tôi cho đấy là bổn phận của mình, mình chỉ cốt nghe theo lẽ phải, mặc cho những nhà địa chủ khác thậm chí cũng chẳng để tâm gì đến việc đó: ở đây tôi muốn nói đến khoa học, đến học vấn kia!
- Phải rồi. Ở kia con thấy bố có tờ Người bạn của sức khỏe 2 năm 1855, - Bazarov nhận xét.
- Tờ ấy là do một người bạn thân cũ giới thiệu và gửi cho bố đấy, - ông Vaxili Ivanovich vội vàng nói, - nhưng chúng tôi ở đây cũng có được khái niệm cả về tỷ dụ như não tướng học 3 chẳng hạn, - ông hướng nhiều hơn về Arkadi mà nói thêm, đồng thời trỏ vào một chiếc đầu nho nhỏ bằng thạch cao được chia thành những ô vuông có đánh số, đặt trên tủ, - chúng tôi ở đây cũng không đến nỗi không biết tới Schonlein 4 và cả Rademacher 5 nữa.
- Trong tỉnh N. người ta vẫn còn tin vào Rademacher sao? - Bazarov hỏi.
Ông Vaxili Ivanovich ho lên sù sụ.
- Trong tỉnh à... cái đó thì dĩ nhiên các cậu biết rõ hơn, chúng tôi làm sao đuổi kịp các cậu được? Chính các cậu đã đến để thay thế chúng tôi. Ngay như vào cái thời tôi ngày xưa, một ông Hoffman 6 nào đó nghiên cứu các dịch thể trong cơ thể con người, một ông Brown 7 nào đó đề xướng ra thuyết sinh khí 8 đều đã có vẻ tức cười, ấy thế mà mấy ông ấy đều đã oanh liệt một thời. Bây giờ đến thời các cậu, lại có ông nào đó thay thế Rademacher, các cậu sùng bái ông ta, nhưng rồi có lẽ hai mươi năm sau người ta lại chê cười ông ta cho mà xem.
- Con nói để bố khỏi buồn, - Bazarov nói, - là bây giờ nói chung chúng con đang chê cười y học và chẳng sùng bái ai hết.
- Sao lại thế được? Con muốn trở thành bác sĩ kia mà?
- Vâng, con muốn thế, nhưng hai việc đó có trở ngại gì lẫn nhau đâu.
Ông Vaxili Ivanovich lấy ngón tay giữa gõ vào chiếc tẩu, bởi vì trong tẩu vẫn còn một ít tàn nóng.
- Ờ, có lẽ thế, có lẽ thế, tôi cũng chẳng tranh luận làm gì. Bởi vì tôi là cái gì nhỉ? Chỉ là một quân y sĩ, voalatu, và bây giờ thì rơi vào hàng ngũ những nhà nông học. Tôi đã từng phục vụ trong lữ đoàn của ông nội cậu đấy, - ông lại quay sang phía Arkadi, - vâng, vâng, trong đời mình tôi đã từng lăn lộn, trải đủ mọi mùi đời. Chẳng giới nào trong xã hội mà tôi không giao thiệp, chẳng loại người nào mà tôi không liên hệ! Tôi, chính tôi, chính cái người mà các cậu đang thấy ở trước mặt mình, đã từng bắt mạch cả cho công tước Wittgenstein 9 và Jukovxki 10. Tất cả những ai trong cái quân đoàn phương Nam ấy, vào năm mười bốn ấy, các cậu hiểu chứ 11 (đến đây ông bậm môi lại một cách đầy ý nghĩa), là tôi biết mặt ráo! Ờ, bởi vì công việc của tôi là một lĩnh vực riêng mà lại, cứ biết đến con dao chích của tôi là đủ! Thế còn ông nội cậu là một người rất đáng kính, một quân nhân chân chính.
- Cứ nói thẳng ra là cụ có một chiếc dùi cui to ra trò, - Bazarov đủng đỉnh nói.
- Ôi, Evgheni, sao con lại nói thế được! Chớ ác khẩu thế... Hiển nhiên là tướng quân Kirxanov không vào loại các...
- Thôi đi, bố, - Bazarov nói. - Khi con đi xe ngựa gần về tới nhà, con thấy mừng thay cho khoảnh rừng bạch dương của bố. Nó mọc đẹp lắm.
Ông Vaxili Ivanovich hoạt bát hẳn lên.
- Rồi con sẽ xem mảnh vườn nhỏ của bố bây giờ ra sao! Tự tay bố đã vun trồng từng cây non một. Bây giờ hoa quả cũng có, dâu tây cũng có, các loại cỏ dùng làm thuốc cũng đủ thứ. Thưa các cậu, các cậu muốn tài giỏi, thế nhưng ông già Paracelsus 12 vẫn đã nói lên một chân lý thiêng liêng:
in herbis, verbis et lapidibus... Con biết đấy, bố đã bỏ nghề làm thuốc từ lâu rồi, vậy mà bây giờ cứ mỗi tuần hai lần lại phải giở nghề cũ ra đấy. Người ta đến hỏi thuốc, chẳng lẽ mình đuổi người ta ra khỏi cửa được à! Rồi thường có những người nghèo khó đến cầu cứu nữa. Mà ở đây có ông bác sĩ nào đâu! Ở đây cũng có một ông hàng xóm, ông ấy là thiếu tá đã về hưu, vậy mà con nghĩ thử xem, ông ta cũng chữa thuốc kia đấy. Bố bèn hỏi thử xem ông ta có học y khoa y khiếc gì không. Người ta bảo: không, ông ấy chẳng học y khoa gì, ông ấy chữa bệnh chủ yếu là do lòng thương người... Ha-ha, vì lòng thương người! Hả? Kỳ khôi đấy chứ! Ha-ha! Ha-ha!
- Phetka đâu! Nhồi cho tao tẩu thuốc! - Bazarov nói với vẻ khắc nghiệt.
- Ở đây lại có một ông bác sĩ khác, có lần ông ấy đến với người bệnh thì người bệnh đã ad patres rồi, - ông Vaxili Ivanovich tiếp tục kể lể với một nỗi tuyệt vọng nào đó, - người nhà bèn không cho ông bác sĩ vào, bảo rằng: bây giờ thì chẳng cần đến ông làm gì nữa. Ông bác sĩ chẳng ngờ sự tình lại đến nỗi đó, rất lúng túng, hỏi: “Thế nào, trước khi mất, ông nhà ta có nấc không?” - “Thưa có nấc ạ”. - “Có nấc nhiều đấy chứ?” - “Nhiều ạ”. - “Ờ, thế là tốt”. - Thế rồi ông bác sĩ cuốn gói chuồn. Ha-ha-ha!Chỉ có mình ông già cười lên được. Arkadi làm ra vẻ mỉm cười, còn Bazarov thì chỉ rít một hơi thuốc. Câu chuyện cứ kéo dài như vậy khoảng gần một tiếng đồng hồ. Giữa chừng, Arkadi cũng đã tranh thủ về xem được buồng mình và thấy hóa ra đó là phần phía trước của nhà tắm, nhưng vẫn rất ấm cúng và sạch sẽ. Cuối cùng, Tanhiuska đã tiến vào thưa là bữa ăn trưa đã chuẩn bị xong.
Ông Vaxili Ivanovich cất mình đứng dậy trước tiên.
- Mời các vị, ta đi thôi! Nếu tôi có khiến các vị phát ngán lên thì cũng xin các vị rộng lòng lượng thứ. Chưa biết chừng bà nội trợ của tôi lại sẽ làm cho các vị vui lòng hơn cả tôi đấy.
Mặc dù được chuẩn bị vội vàng, té ra bữa ăn trưa lại rất tốt, thậm chí rôm rả nữa là khác. Chỉ có điều là rượu vang không khá lắm, như người ta thường nói là chạy qua hàng rượu, và thật ra chỉ là một thứ rượu nho chua đen đen do bác Timopheich mua được của một thương nhân quen biết trong thành phố, nửa pha mùi vị tanh tanh như mùi đồng, nửa như mùi nhựa thông. Ngoài ra, lũ ruồi cũng kéo đến quấy rầy. Thường ngày vẫn có một thằng nhỏ cầm một cành lá xanh to đứng đuổi ruồi, nhưng lần này ông Vaxili Ivanovich đã xua biến nó đi bởi ông sợ những chàng thanh niên thuộc thế hệ trẻ sẽ lên án ông. Còn bà Arina Vlaxievna thì đã kịp thắng bộ cánh vào, bà đã đội chiếc mũ bonnê cao có dải lụa và quàng chiếc khăn san màu xanh da trời có hình hoa văn. Vừa trông thấy thằng Evgheni của mình, bà lại bật khóc lên, nhưng lần này ông chồng đã không phải khuyên giải nữa: chính bà đã mau chóng gạt nước mắt đi để khỏi làm hoen ố chiếc khăn san. Chỉ có hai chàng trai trẻ ăn, còn ông bà chủ đã ăn bữa trưa từ lâu rồi. Phục vụ cho bữa ăn là Phetka, rõ ràng là vất vả với đôi ủng quá khổ, giúp đỡ Phetka lại là một bà có bộ mặt đàn ông và chột một mắt, tên gọi Anphixuka, kiêm cả nhiệm vụ tay hòm chìa khóa, nuôi gà vịt và giặt rũ quần áo. Suốt trong thời gian ăn trưa, ông Vaxili Ivanovich cứ đi đi lại lại trong phòng, và với vẻ hết sức sung sướng, thậm chí mãn nguyện, ông nói tới những nỗi lo âu nghiêm trọng của mình đối với chính sách của Napoleon và đối với tính chất rối rắm của vấn đề Italia. Bà Arina Vlaxievna thì chẳng chú ý gì đến Arkadi, chẳng mời mọc gì chàng. Đôi môi nhỏ nhắn mọng đỏ màu anh đào cùng với những nốt ruồi trên má và phía trên lông mày khiến khuôn mặt của bà có vẻ rất mực hiền từ. Đưa nắm tay bé nhỏ lên đỡ lấy khuôn mặt tròn trĩnh của mình, bà đăm đăm nhìn cậu con trai và luôn luôn thở dài. Bà đang rất muốn hỏi xem nó về nhà được bao lâu, nhưng lại sợ không dám hỏi: “Ờ, chắc nó lại sẽ bảo chỉ hai ngày”, - bà nghĩ bụng, và lòng bà se lại. Sau món rán, bỗng ông Vaxili Ivanovich biến đâu mất và một lát sau thấy ông quay lại với một nửa chai sâmbanh đã mở sẵn. “Đây rồi, - ông reo lên, - dù sống ở nơi thôn quê hẻo lánh, chúng ta vẫn có cái để làm vui trong những dịp long trọng!”. Ông rót rượu vào ba cốc và một ly, nâng cốc chúc sức khỏe các “vị khách vô giá” rồi, theo kiểu nhà binh, ông vỗ vào cốc một cái, còn bà Arina Vlaxievna thì ông bắt bà phải cạn ly cho tới giọt cuối cùng. Khi ăn tới món mứt, mặc dù không thích của ngọt, nhưng Arkadi vẫn thấy mình có bổn phận phải nếm đủ bốn loại mứt khác nhau vừa mới được pha chế xong, nhất là trong khi Bazarov lại dứt khoát không chịu ăn mứt và ngay sau đó đã châm xìgà hút. Sau đó đến tiết mục trà uống với kem sữa, bơ và bánh quấn thừng; rồi ông Vaxili Ivanovich dẫn mọi người ra vườn để ngắm cảnh đẹp buổi chiều hôm. Đi ngang qua chiếc ghế dài, ông nói thầm với Arkadi:
- Đây là nơi tôi thích ngồi để suy tư triết lý trong khi ngắm cảnh hoàng hôn, ấy là khoảng thời gian rất thích hợp cho người ẩn sĩ. Còn ở đằng kia thì tôi đã trồng được mấy cây thuộc loại cây mà Horace 13 ưa thích. - Đó là loại cây gì vậy, bố? - Bazarov để tai nghe, và hỏi. - Cây keo... chứ còn loại cây gì.
Bazarov đã bắt đầu ngáp.
- Tôi nghĩ là đã đến lúc các nhà du lịch phải được ôm ấp trong đôi tay của Morfeuz 14 rồi, - ông Vaxili Ivanovich nhận xét.
- Nghĩa là đã đến lúc phải đi ngủ! - Bazarov hòa lời theo. - Sự xét đoán đó là có lý đấy. Đã đến lúc, đúng thế.
Chàng ôm hôn lên trán mẹ để từ biệt, còn bà Arina Vlaxievna đã ôm hôn chàng, rồi sau lưng chàng, bà còn lén làm dấu ba lần để chúc phúc cho chàng. Ông Vaxili Ivanovich đưa Arkadi về đến tận buồng và chúc chàng có “những giờ phút nghỉ ngơi tốt đẹp như tôi đã từng được hưởng khi tôi ở tuổi sung sướng như tuổi cậu bây giờ”. Quả vậy, Arkadi đã ngủ rất ngon trong cái chái ở trước buồng tắm ấy, với cái mùi bạc hà của nó và với hai con dế đua nhau kêu ti tỉ như ru ngủ ở đằng sau lò. Từ buồng Arkadi, ông Vaxili Ivanovich trở lại nơi thư phòng của mình, rồi thu mình ngồi lên đivăng, phía chân cậu con trai, ông định tán chuyện nữa với cậu ta. Nhưng Bazarov đã lập tức từ chối, bảo rằng mình buồn ngủ, nhưng thực ra cho tới tận sáng chàng vẫn không sao chợp mắt được. Mở to mắt, chàng bực tức nhìn vào đêm tối: những kỷ niệm thời thơ ấu không hề chi phối được chàng, nhưng vấn đề là chàng còn chưa sao cắt đứt được với những ấn tượng cay đắng vừa qua. Mới đầu, bà Arina Vlaxievna đã cầu nguyện thỏa thích, sau đó bà đã nói chuyện rất lâu, rất lâu với mụ Anphixuska. Còn mụ này thì cứ đứng như trời trồng trước mặt bà chủ, đăm đăm nhìn bà bằng con mắt duy nhất của mình, và bằng những lời thì thào bí ẩn, mụ ta nói lên mọi nhận xét và ý nghĩ của mình đối với cậu Evgheni. Do mừng vui, do rượu vang, do khói xìgà, đầu bà lão choáng váng hẳn đi. Ông lão định vào chuyện trò với bà, nhưng đành phẩy tay mà đi ra.
Bà Arina Vlaxievna đích thực là một bà quý tộc Nga của thời xưa. Lẽ ra bà phải sống cách đây chừng hai trăm năm, vào cái thời Maxcơva cổ đại mới phải. Bà rất sùng đạo và rất nhạy cảm, tin vào đủ mọi thứ điềm lành, điềm dữ, bói toán, sấm truyền, và mộng mị trên đời; tin vào các cuồng sĩ tiên tri, vào các ông công ông táo, thổ công hà bá, vào cơn may vận rủi, vào chuyện vỡ bát vỡ đĩa, hỏng tàu hỏng xe, vào các loại thuốc dân gian, vào muối ngày thứ năm và vào ngày tận thế không xa; tin rằng vào ngày đầu lễ Phục sinh, trong buổi cầu kinh từ đêm cho tới sáng, nếu nến không tắt thì lúa kiều mạch sẽ mọc tốt, và nếu nấm đã bị mắt người ta nhìn thấy thì sẽ không sao lớn lên được nữa; tin rằng nơi nào có nước thì quỷ thích đến và người Do Thái nào cũng đều có một vết máu ở ngực. Bà sợ chuột, rắn nước, ếch, chim sẻ, đỉa, sấm, nước lạnh, gió lùa, ngựa, dê, người tóc hung với cả mèo đen, và bà cho rằng dê và chó là những con vật uế tạp. Bà không ăn thịt bê, bồ câu, tôm, phomát, măng tây, quả cúc vu, thịt thỏ rừng, mà cũng chẳng ăn cả dưa hấu bởi vì quả dưa hấu bổ ra chẳng khác nào cái đầu của thánh Joan Tiên khu 15. Mỗi khi nói tới sò hến là y như rằng bà phát rùng mình. Bà cũng thích ăn uống nhưng lại kiêng khem chay tịnh rất ghê. Mỗi ngày bà ngủ đến mười tiếng đồng hồ, thế nhưng khi ông Vaxili Ivanovich chỉ hơi nhức đầu là bà lại chẳng đặt mình tẹo nào. Bà chẳng đọc một cuốn sách nào khác ngoài cuốn
Alexis hoặc mái nhà tranh trong rừng (16). Mỗi năm bà chỉ viết một, hoặc nhiều lắm là hai bức thư. Còn trong công việc nội trợ, trong việc phơi phóng, nấu nướng, bà đều rất tỏ tường, mặc dù bà chẳng hề mó tay vào công việc gì, và nói chung là chẳng thích cất bước đi đâu mảy may. Bà Arina Vlaxievna vốn rất hiền từ và cũng chẳng phải ngu đần gì, mặc dù theo kiểu của bà. Bà hiểu rằng trên đời có các vị quý tộc và các vị quý tộc đó phải ra lệnh, đồng thời cũng có những người dân thường và những người dân thường đó phải phục dịch, chính bởi vậy bà không hề coi khinh thái độ khúm núm hay những cái vái chào sát đất của kẻ tôi tớ. Song đối với họ bà tỏ ra ân cần, dịu dàng, không người ăn xin nào bà không bố thí, và bà chẳng hề oán trách một ai, tuy đôi khi bà cũng có đơm đặt chuyện này chuyện khác. Hồi còn trẻ bà rất xinh xắn, chơi được đàn cương cầm, biết nói dăm ba câu tiếng Pháp, nhưng qua nhiều năm bôn ba với chồng, - một người chồng mà bà đã kết hôn trái với ý mình, - thì bà đã đâm phát phì ra và quên cả âm nhạc lẫn tiếng Pháp. Đối với con trai mình thì bà vừa thương yêu lại vừa sợ một cách khó tả. Việc cai quản điền trang, bà phó thác hoàn toàn cho ông Vaxili Ivanovich, và từ đó bà chẳng hề đi sâu vào bất cứ công việc gì, rồi mỗi khi ông lão nói đến chuyện cải cách mà ông sắp tiến hành cùng với các kế hoạch của ông, thì bà chỉ những ối chà với ái chà, phẩy phẩy chiếc khăn tay, đôi mắt mỗi lúc một trố lên vì hoảng sợ. Bà là người cả nghĩ, luôn nơm nớp lo âu về một điều bất hạnh to lớn nào đó và mỗi khi nhớ đến điều gì buồn thương là lập tức òa khóc lên ngay... Những người đàn bà như thế bây giờ đã chẳng còn mấy ai. Điều đó có phải là điều đáng mừng không, có trời mà biết được!
Chú thích:
[1] Hufland Christof Wilhelm (1762 - 1836): bác sĩ người Đức, tác giả cuốn Nghệ thuật kéo dài tuổi thọ con người (1796) rất phổ biến vào thời đó.
[2] Ở đây muốn nói tới tờ báo y học Người bạn của sức khỏe xuất bản ở Peterburg từ năm 1833 đến năm 1869.
[3] Não tướng học - môn ngụy khoa học nói về sự lệ thuộc của tâm lý con người vào hình thể bên ngoài của sọ não.
[4] Schonlein Johann Lucas (1793 - 1864): giáo sư bác sĩ, người Đức.
[5] Rademacher Johann Gottfried (1772 - 1849): giáo sư y học, người Đức.
[7] Brown John (1735 - 1788): bác sĩ nội khoa người Anh.
[8] Thuyết sinh khí - một học thuyết duy tâm trong khoa sinh vật học về một thứ “sinh khí” tinh thần đặc biệt, như sự khởi đầu được điều khiển bởi những hiện tượng và những quá trình trong cơ thể sống.
[9]Wittgenstein Piotr Khrixtianovich (1768 - 1842): thống soái gốc Đức, phục vụ trong quân đội của nữ hoàng Nga Elizaveta Petrovna, tham gia cuộc Chiến tranh Ái quốc năm 1812, chỉ huy đạo quân số 2 (phía Nam), nơi có Hội bí mật phương Nam của những người tháng Chạp.
[10] Jukovxki Vaxili (1783 - 1852): nhà thơ và dịch giả nổi tiếng Nga.
[11] Ở đây muốn ám chỉ Hội bí mật phương Nam của những người tháng Chạp do Pavel Pesten (1793 - 1826) đứng đầu.
[12] Ở đây muốn nói tới nhà tự nhiên học, bác sĩ người Thụy Điển Paracelsus, tên thật là Theophrast Bombast von Hohenheim (1493 - 1541), người phát hiện ra rất nhiều vị thuốc lá, ông là người điều trị theo phương pháp quan sát.
[13] Horace (65 - 8 trước Công nguyên): nhà thơ La Mã.
[14] Morfeuz - trong thần thoại Hy Lạp là thần Chiêm bao.
[15] Joan Tiên khu - theo truyền thuyết trong Kinh thánh là người tiền bối và là người loan truyền về Chúa Jesus Christ; Irodiat, để trả thù Joan Tiên khu đã vạch trần cuộc sống trụy lạc của bà ta, đòi phải xử chém ông rồi lấy đầu đặt lên đĩa dâng cho mình.
[16] Alexis hoặc mái nhà tranh trong rừng - cuốn tiểu thuyết luân lý tình cảm của nhà văn Pháp Ducray Dumenil (1761 - 1819). Bản dịch tiếng Nga của tuốn tiểu thuyết này được in trong những năm 1794, 1800, 1804.