GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ
CHÂN DUNG MỘT GIÁN ĐIỆP là một tác phẩm hư cấu. Tên, tính cách các nhân vật, vị trí và những biến cố xảy ra là do trí tưởng tượng của tác giả hoặc được sử dụng một cách hư cấu. Bất cứ sự giống nhau nào với những người đương thời, còn sống hay đã chết, những cơ sở kinh doanh, công ty, sự kiện, hoặc địa phương hoàn toàn là ngẫu nhiên.
Bức tranh Đức Mẹ và Chúa Hài đồng với Mary Magdalene được mô tả trong truyện là không có thật. Nếu có thì nó rất giống một bức tranh tương tự của Tiziano Vecellio, còn được biết dưới tên Titian, treo ở Bảo tàng Hermitage ở Saint Petersburg, Nga. Lô 12, Thổ hoàng và đỏ trên nền đỏ, tranh sơn dầu, của Mark Rothko, cũng là hư cấu, mặc dù vào tháng Năm, 2007, một bức tương tự, White Center (Yellow, Pink and Lavender on Rose) bán được với giá kỷ lục của tác giả là 72,84 triệu đô la ở buổi đấu giá tại New York. Theo thông tin được phát hành, người mua là một nhà lãnh đạo ở Qatar.
Những nhà buôn tranh, điều hành đấu giá và tư vấn xuất hiện trong cuốn sách này và những cuốn sách khác trong loạt truyện, được tác giả dựng lên và hoàn toàn không cố ý tạo dựng hư cấu rập khuôn những nhân vật có thật. Dĩ nhiên, có một phòng trưng bày mỹ thuật hấp dẫn ở 7-8 Mason’s Yard, London, mặc dù Patrick Matthiesen, người chủ không ai có thể bì được, không giống Julian Isherwood chút nào, ngoại trừ sự nồng nhiệt và trí thông minh tuyệt vời. Kỹ thuật phục chế và lót lại vải cho tranh được mô tả trong truyện là chính xác, kể cả tốc độ mà nhà phục chế tranh tài năng, nếu cần, có thể sắp xếp cho bức tranh thành hình, chân thành xin lỗi ban quản lý của nhà đấu giá Christie’s ở London khi sử dụng buổi bán đấu giá những tác phẩm của những bậc thầy để tài trợ cho một mạng lưới khủng bố, nhưng tôi nghĩ rằng chức năng về an ninh cần được xem như một việc cần giữ bí mật.
Những sinh viên nghiên cứu chiến tranh khủng bố toàn cầu chắc chắn sẽ nhận ra, khi xây dựng tính cách của Rashid al-Husseini, tôi đã vay mượn rất nhiều lý lịch của một giáo sĩ al-Qaeda, và là người tuyển mộ, gốc Mỹ, Anwar al-Awlaki – kể cả lai lịch người Yemen của hắn, mối quan hệ đáng lo ngại với hai không tặc ngày 11/9 ở San Diego và phía bắc Virginia, và cuộc hành trình từ ôn hòa đến chủ nghĩa cấp tiến rồi trở thành khủng bố của hắn. Nhân vật hư cấu Malik al-Zubair cũng được khơi nguồn từ kẻ chủ mưu khủng bố thực sự – tên gọi là Yahya Ayyash, kẻ chế tạo bom bậc thầy của phong trào kháng chiến Hồi giáo Hamas được biết đến như “Kỹ sư”, và Abu Musab al-Zarqawi, tên khủng bố người Jordan đã đưa al-Qaeda vào Iraq. Ayyash bị giết tháng Giêng năm 1997 vì một quả bom nhỏ giấu trong điện thoại. Zarqawi, người gây ra cái chết của hàng trăm người Iraq vô tội trong giai đoạn hỗn loạn của đất nước, bị giết trong trận Mỹ dội bom xuống căn nhà an toàn ở phía bắc Baghdad tháng Sáu năm 2006.
Nơi qua lại ở biên giới giữa Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Ả Rập Saudi, được mô tả trong truyện không có thật. Nơi qua lại thật thì ở nhiều dặm về phía bắc và trong những tháng gần đây hàng người chờ làm thủ tục có chiều hướng ngày càng dài ra do thay đổi quy trình hải quan của Ả Rập. Sự vùng lên và suy sụp ngoạn mục của Dubai đã được mô tả một cách trung thực, cùng với chính sách đối xử đáng trách đối với nhân viên ngoại quốc. Điều đáng tiếc là Dubai không phải là vương quốc vùng Vịnh duy nhất lạm dụng công nhân ngoại quốc hàng ngày và đối xử với họ như những gia nhân được giao kèo chính thức. Tháng Ba năm 2011, bảo tàng Guggenheim đang xây dựng gần Abu Dhabi đã phải đối diện với mối đe dọa bị tẩy chay của hơn hàng ngàn nghệ sĩ nổi tiếng vì những điều kiện làm việc của họ bị vi phạm. “Những người làm việc với gạch và vữa,” nghệ sĩ tạo hình Walid Raad người gốc Lebanon tuyên bố, “cần nhận được sự tôn trọng giống như những người làm việc với máy quay và cọ vẽ.”
Trong nhiều năm trở lại đây, tình báo tài chính, hoặc “finint” đã là một vũ khí quan trọng trong chiến tranh chống khủng bố. Văn phòng Tình báo về Khủng bố và Tài chính của bộ Ngân khố cũng như Phòng Tài trợ cho chiến dịch Chống khủng bố của FBI thu thập và phân tích dữ liệu giao dịch. Ngoài ra, CIA và rất nhiều công ty tư nhân kết nối với Cục An ninh Quốc gia rộng lớn để theo dõi hàng ngày lưu lượng tiền chảy vào những mạch của phong trào thánh chiến toàn cầu.
Đáng tiếc là một thập kỷ sau cuộc tấn công ngày 11/9, phần nhiều số tiền vẫn đến từ những người dân của Ả Rập Saudi và, với lượng ít hơn, từ những người Hồi giáo dòng Sunni của Vịnh Ba Tư. Trong một bức điện bí mật được tiết lộ tháng Mười hai 2010, bộ trưởng bộ Ngoại giao Hilary Clinton viết, “Thuyết phục chính quyền Ả Rập xem xét việc tài trợ của Ả Rập Saudi cho phong trào khủng bố như một chiến lược ưu tiên vẫn còn là công việc khó khăn.” Ở đoạn kết, bà Clinton bày tỏ rằng, “những người đóng góp ở Ả Rập Saudi là nguồn tài trợ đáng kể nhất cho nhóm khủng bố Sunni toàn cầu.”
Người ta có thể nghĩ rằng Ả Rập Saudi, đất nước đã sản sinh ra Osama Bin Laden và mười lăm không tặc của ngày 11/9, có thể làm nhiều hơn để kiểm soát chặt chẽ việc kiếm tiền cho khủng bố trên lãnh thổ của mình. Nhưng những bức điện ngoại giao đã cho thấy gia tộc Saud không có khả năng hoặc không muốn cắt lưu lượng tiền cho al-Qaeda và những đồng minh của họ. Ở Ả Rập, những nhóm người quá khích quyên tiền cho khủng bố một cách vô tội vạ hoặc thản nhiên xin tiền một cách công khai trong cuộc hành hương hàng năm Hajj đến Mecca. Hoàng tử Mohammad Bin Nayef, lãnh đạo phong trào chống khủng bố của Ả Rập Saudi, nói với một quan chức cao cấp Mỹ rằng “chúng tôi đang cố gắng hết sức mình” để ngăn cản lưu lượng tiền mặt đến nhóm cực đoan và sát nhân. Nhưng ông ta tiếp, “nếu tiền muốn vào tay” khủng bố, thì chính quyền Saudi không thể làm gì để ngăn chặn.
Và chẳng cần phải thảo luận làm gì: gia tộc Saud, một gia tộc đã có được quyền lực từ một giao ước hình thành cách đây hai thế kỷ với Muhammad Abdul Wahhab, có thực sự muốn cắt đứt quan hệ tài chính với phong trào cực đoan của nhóm Sunni mà Saud đã giúp đỡ để hình thành và nuôi dưỡng không? Một cuộc họp căng thẳng vào 2007 có thể cung cấp đầu mối quan trọng. Theo nguồn tin rò rỉ từ một bức điện của chính phủ, Frances Fragos Townsend, nhà tư vấn cao cấp chống khủng bố cho tổng thống George W. Bush, đã hỏi chính quyền Saudi giải thích vì sao ngài đại sứ vương quốc ở Philippines lại liên kết với những người bị nghi ngờ tài trợ cho khủng bố. Bộ trưởng Ngoại giao, hoàng tử Saud al-Faisal, gạt bỏ mối quan tâm của Townsend, khi tuyên bố rằng ngài đại sứ có lỗi vì “xét đoán không sâu sắc hơn là chủ tâm giúp đỡ khủng bố”. Và rồi ông ta quay lại chỉ trích ngân hàng Mỹ đã nêu ra “những câu hỏi không thích hợp và mang tính công kích” về những tài khoản của tòa đại sứ Ả Rập tại Washington, D.C.
Trong khi mối đe dọa khủng bố toàn cầu đã phát triển từ sáng ngày 11 tháng Chín, 2001, có một điều không thay đổi: al-Qaeda và những đồng minh của họ đang tích cực âm mưu ám sát và gây thương tích cho toàn thể phương Tây và Hoa Kỳ. Bà Eliza Manningham-Buller, người đứng đầu trước đây của MI5, tiên đoán vào 2006, rằng cuộc chiến chống lại khủng bố Hồi giáo sẽ “kề cận với chúng ta qua nhiều thế hệ”, trong khi những quan chức an ninh khác đã khuyến cáo “một cuộc chiến vĩnh cửu” sẽ bắt phương Tây duy trì chương trình chống khủng bố qua nhiều thập kỷ, có thể là lâu hơn. Dường như sự lan tỏa cuối cùng của trận chiến toàn cầu với khủng bố sẽ được một phần nào xác định bởi những biến cố làm rung chuyển thế giới Ả Rập khi tác phẩm này được hình thành. Phần đông sẽ phụ thuộc vào sự chiến thắng của bên nào. Nếu sức mạnh của sự ôn hòa và hiện đại hóa thắng, thì có thể mối đe dọa khủng bố sẽ tan biến. Nhưng nếu những giáo sĩ Hồi giáo cấp tiến và những tín đồ của họ chiếm chính quyền ở những nước như Ai Cập, Jordan, và Syria, thì chúng ta phải nhìn lại những tháng năm đầu tiên của thế kỷ 21 như một giai đoạn vàng của mối quan hệ giữa Hồi giáo và phương Tây.