← Quay lại trang sách

Chương 71 BÁN ĐẢO LIZARD, CORNWALL

Họ có thể thấy là Gabriel đã trở thành một con người khác khi ông quay về từ Mỹ. Vết thương đã lành, sự vây hãm đã được tháo bỏ, và bất kỳ tai họa nào mà ông đã phải chịu đựng cuối cùng dường như cũng đã qua. Sau khi gặp Gabriel một buổi sáng có mưa phùn ngoài ngôi giáo đường cũ bằng đá, Vera Hobbs tuyên bố rằng ông ta đã hoàn toàn hồi phục và thích hợp để lên kế hoạch. Nhưng ai đã ủy thác công việc cho ông ta? “Người bạn bí mật của chúng ta ở vịnh không phải loại người cần người khác quan tâm,” Dottie Cox trả lời. “Nếu tôi có thể mạo hiểm đoán, thì tôi sẽ nói là ông ta tự để mình lên giá vẽ và làm công việc bằng chính tay mình. Đó là lý do tại sao ông ta xoay xở hay như vậy.”

Rồi giữa mùa thu với những ngày ngắn lại quay về một vài giờ với bầu trời màu xám nhạt bên cạnh những đêm tưởng chừng như không dứt. Họ có thể trông thấy ông xuống làng để đi chợ và vào buổi trưa khi ông tản bộ trên những mỏm đá một mình. Không có một chứng cứ nào cho thấy là ông đang làm một công việc đầy ý nghĩa. Thỉnh thoảng họ có thể thoáng nhìn thấy ông trên vọng lâu với một quyển sổ phác họa trên đùi, nhưng giá vẽ đặt trong xưởng của ông thì trống trơn. Dottie sợ rằng Gabriel một lần nữa là nạn nhân của căn bệnh vô định hướng, nhưng Vera thì nghi ngờ rằng lý do nằm ở một vấn đề khác. “Lần đầu tiên trong đời, anh ta hạnh phúc,” bà nói. “Tất cả những gì anh ta cần bây giờ là một vài đứa bé để thích hợp với cô vợ tuyệt đẹp của anh ta.”

Kỳ lạ thay, cô vợ lại là người bồn chồn. Cô ta vẫn luôn lịch sự, nhưng rõ ràng là cô ta đang lo sợ cho mùa đông sắp tới. Cô tự làm cho mình bận rộn bằng cách chế biến những món ăn tỏa ngát hương cây hương thảo, tỏi và cà chua khắp vịnh. Thỉnh thoảng nếu cửa sổ được mở và có ai đó đứng đúng vị trí, có thể nghe cô ta hát tiếng Ý bằng một chất giọng gợi cảm. Không thay đổi, điệu nhạc luôn rất buồn. Duncan Reynolds chần đoán tình trạng của cô ta như người bị bao vây trong nỗi sợ hãi và đề nghị những người đàn bà nên rủ cô ta đến quán Godolphin Arms để tận hưởng một đêm vui nhộn chỉ dành cho phụ nữ. Họ thử rủ, nhưng cô ta từ chối, một cách lịch sự, dĩ nhiên.

Nếu người phục chế tranh biết tình trạng khó khăn của vợ mình, ông ta cũng không hề để lộ ra ngoài, sợ rằng cặp vợ chồng sẽ rơi vào tình trạng khủng hoảng, Dottie Cox quyết định nói chuyện riêng với ông ta khi ông ta đến cửa hàng một mình. Phải chờ đến một tuần, bà mới tìm được dịp. Như thường lệ, ông ta vào tiệm lúc 10:30, lấy một túi nhựa trên ngăn gần cửa và bắt đầu cho đồ ông ta chọn vào, tâm trạng vui như một người lính tìm tòi đồ tiếp tế. Đứng sau máy tính tiền, Dottie bồn chồn nhìn ông ta, và tập lại những gì bà sắp nói trong đầu, nhưng khi người phục chế bắt đầu để những món đồ lên quầy, bà ta chỉ có thể nói câu thông thường của bà. “Chào ông yêu quý.”

Có một cái gì đó trong giọng của Dottie làm cho người phục chế nghi ngờ nhìn nhanh bà ta. Và rồi ông nhìn xuống những tờ báo xếp chồng dưới sàn và nhăn mặt trước khi đưa tờ hai mươi bảng nhàu nát. “Khoan đã,” bỗng nhiên ông ta cầm tờ Times lên và nói. “Tờ này nữa.” Dottie để tờ báo vào bao và người phục chế rời cửa hàng. Dottie chồm qua quầy và nhìn tờ báo. Mục chính của tờ báo dự đoán sự sụp đổ sắp tới của chế độ ở Syria, nhưng ngay phía dưới có mẩu tin về việc hiến tặng vô danh gần đây nhất một bức tranh của Titian cho Nhà Triển lãm Quốc gia ở London. Không ai ở Gunwalloe nghĩ ra được về mối liên hệ có thể có. Và họ sẽ chẳng bao giờ biết được.

❀ ❀ ❀

Nhà Triển lãm Quốc gia đưa ra một lời tuyên bố chính thức nhưng mơ hồ về việc hiến tặng, nhưng bên trong cơ quan tình báo của Anh thì sự thật được sơ lược tiết lộ không chính thức như sau. Dường như sĩ quan tình báo huyền thoại của Israel Gabriel Allon, với sự đồng thuận hoàn toàn của MI5, rõ ràng đã thu xếp một buổi đấu giá ở Nhà đấu giá Christie’s nhằm chuyển hàng triệu bảng vào mạng lưới khủng bố của Rashid al-Husseini. Kết quả là một bức tranh mới được tìm ra của Titian đã được chuyển vào bộ sưu tập của người thừa kế Ả Rập, Nadia al-Bakari. Nhưng sau cái chết của cô, bức tranh đã âm thầm lặng lẽ quay về đúng người chủ của nó, nhà buôn tranh được ghi nhận, Julian Isherwood ở London. Vì những lý do có thể hiểu được, ban đầu Isherwood đã định giữ bức tranh lại, nhưng sau khi suy nghĩ ông thấy sẽ tốt hơn nếu theo lời Allon đã đề nghị, nên cống hiến cho một nghĩa cử cao thượng hơn. Và rồi, Isherwood liên lạc với một người bạn cũ ở Nhà Triển lãm Quốc gia – một chuyên gia bậc thầy người Ý đã tình cờ đóng một vai trò trong việc lừa dối ban đầu – để tiến hành một trong những sự hiến tặng quan trọng nhất đã lâu mới có, cho một học viện ở Anh.

“Mà nhân tiện thì tôi vẫn chưa nhận được một xu nào từ CIA, người anh em ơi.”

“Tôi cũng vậy, Julian.”

“Họ không trả cho anh những công việc vặt vãnh mà anh làm cho họ sao?”

“Rõ ràng là họ xem những công việc đó như lợi ích công cộng.”

“Chắc là vậy rồi.”

Cả hai người đang tản bộ dọc theo đường mòn ven biển. Isherwood mặc quần áo bằng vải tweed và mang ủng Wellington. Isherwood bước đi không chắc chắn. Gabriel, như thường lệ, phải luôn kìm lại để không giúp Isherwood đi vững hơn.

“Anh định bắt tôi đi bao xa nữa đây?”

“Chỉ năm phút nữa thôi, Julian.”

“Có nghĩa là chúng ta đã vượt quá hai lần đoạn đường của tôi từ phòng trưng bày đến quán Green’s.”

“Oliver sao rồi?”

“Như mọi khi thôi.”

“Ông ta có cư xử đàng hoàng không?”

“Dĩ nhiên là không rồi,” Isherwood nói. “Nhưng anh ta không hé môi về vai trò của mình trong vở kịch của anh.”

“Vở kịch của chúng ta , Julian, ông cũng có can dự vào.”

“Nhưng tôi đã can dự vào từ khi bắt đầu,” Isherwood trả lời. “Tất cả đều mới và đầy thú vị đối với Oliver. Có Trời mới biết những lỗi lầm của anh ta, nhưng bên dưới của tất cả những thổn thức là nhịp đập của trái tim một kẻ yêu nước. Đừng bận tâm về Oliver. Đối với anh ta bí mật của anh được giữ kín.”

“Nếu không thì MI5 sẽ nói chuyện với ông ta.”

“Tôi nghĩ tôi cũng muốn thấy điều đó.” Bước chân của Isherwood bắt đầu không vững. “Tôi không nghĩ có một quán phía trước. Tôi đang muốn uống.”

“Để tính sau đi. Ông cần luyện tập đó Julian.”

“Chuyện gì đây?”

“Ông sẽ khỏe hơn.”

“Tôi khỏe, người anh em ơi.”

“Đó là lý do tại sao ông muốn tôi đảm nhận phòng tranh?”

Isherwood ngừng lại, tay chống hông. Một lúc sau ông ta nói “Không phải tuần sau, không phải tháng sau, cũng không phải năm sau. Nhưng một ngày nào đó.”

“Bán nó đi, Julian, về hưu đi. Hãy tận hưởng cuộc sống.”

“Bán nó cho ai? Oliver? Roddy? Một tên Nga giàu sụ đầy quyền lực muốn học đòi về văn hóa?” Isherwood lắc đầu. “Tôi đã đầu tư vào quá nhiều cho phòng tranh để có thể cho nó rơi vào tay người lạ. Tôi muốn nó được để lại cho gia đình. Và vì tôi không có ai, nên tôi muốn để nó lại cho anh.”

Gabriel im lặng. Isherwood lại miễn cưỡng tiếp tục đi.

“Tôi sẽ không bao giờ quên ngày đầu tiên Shamron đưa anh đến phòng tranh. Anh rất im lặng. Tôi còn không chắc là anh có thể nói. Thái dương của anh cũng bạc như của tôi. Shamron gọi như vậy…”

“Dấu vết của một cậu bé đã làm một công việc của một người đàn ông.”

Isherwood mỉm cười buồn bã. “Khi tôi thấy anh cầm cây cọ trong tay, tôi đã ghét điều mà Shamron đã làm. Ông ta phải để anh ở lại Bezalel để hoàn thành việc học của anh. Anh phải là một trong những họa sĩ tài danh của thế hệ anh. Cũng như bây giờ, mọi người ở New York đang thắc mắc xem ai là người đã vẽ bức chân dung của Nadia al-Bakari. Tôi chỉ mong họ biết được sự thật.”

Isherwood ngừng lại lần nữa và nhìn xuống những con sóng đập vào bờ đá đen ở cuối phía bắc của vịnh. “Hãy đến làm việc cho tôi,” Isherwood nói. “Tôi sẽ dạy anh mánh khóe của nghề buôn tranh, ví dụ như mất sạch cơ nghiệp chỉ trong mười bước hoặc ít hơn. Và khi, đến lúc tôi phải cống hiến sức lực còn lại cho vườn tược, tôi sẽ để lại cho anh nhiều nguồn tài chính hơn là đủ để tiếp tục công việc trong khi tôi vắng mặt. Đó là điều tôi muốn. Quan trọng hơn, đó là điều vợ anh muốn.”

“Rất hào phóng đó Julian, nhưng tôi không thể nhận.”

“Tại sao không?”

“Bởi vì, một ngày nào đó, một kẻ thù cũ sẽ hẹn gặp để xem một bức của Bordone hoặc của Luini, và tôi sẽ kết thúc bằng nhiều viên đạn vào đầu. Và Chiara cũng vậy.”

“Vợ anh sẽ thất vọng.”

“Thất vọng còn hơn bị giết.”

“Trời biết là tôi không phải là người rành về mối quan hệ vợ chồng,” Isherwood nói, “nhưng tôi có linh cảm rằng vợ anh cần thay đổi.”

“Đúng vậy,” Gabriel mỉm cười nói, “cô ấy đã nói rất rõ điều này.”

“Vậy thì đến London đi, ít ra trong mùa đông. Điều này sẽ đem đến hứng thú mà Chiara cần, và nó sẽ đỡ cho tôi một số tiền lớn cho phí chuyển hàng. Tôi có một bức của Piero di Cosimo đang rất cần bàn tay của anh. Tôi nghĩ rằng sẽ có lợi cho anh.”

“Thật ra tôi đang có một công việc ở Rome.”

“Thật sao?” Isherwood hỏi. “Công hay tư?”

“Tư,” Gabriel đáp. “Người chủ có một căn nhà rất rộng ở cuối đường Via della Conciliazione. Ông ta cho tôi cơ hội phục chế một trong những bức tranh yêu thích của tôi.”

“Bức nào?”

Gabriel trả lời.

“Tôi e rằng tôi không có khả năng để cạnh tranh, ông ta có trả cho anh gì không?” Isherwood nói.

“Rất ít,” Gabriel nói, “nhưng công việc này xứng đáng. Để cứu rỗi Chiara. Không có gì thêm.”

“Hãy cố gắng tránh xa rắc rối khi ở đó. Lần cuối cùng anh ra thành phố…”

Isherwood không nói tiếp. Qua nét mặt của Gabriel, rõ ràng là ông không muốn nói về quá khứ nữa.

Gió đã chọc thủng đám mây và mặt trời giống như một đĩa trắng, đã dần xuống ngay bên trên biển. Hai người đứng lâu thêm một chút nữa trên mỏm đá, cho đến khi mặt trời lặn, rồi quay về nhà. Khi họ về đến, họ có thể nghe Chiara đang hát. Một bài hát vớ vẩn dòng nhạc pop của Ý mà Chiara luôn hát khi nàng hạnh phúc.