hai
Đoàn xe lửa qua khỏi Trảng Bom đã lâu. Hành khách chộn rộn. Sắp đến Hố Nai.
Dạo này, máy bay Đồng minh hay đánh phá, nên xe phải chạy đêm.
Tôi đứng lên, ngó mống qua cửa sổ. Các lô cao-su thẳng tắp như nghiêng mình xoáy ngược, lễ phép nhường đường cho đoàn xe lao vun vút, thi với vầng sáng phía đông mỗi lúc mỗi lớn dần. Cụm mây màu hồng giống miếng bông khổng lồ hút nhanh cái phần đùng đục còn sót lại của đêm tàn.
Một bà sồn sồn ngồi cạnh tôi cũng đứng lên. Bà nhắc thử đôi gióng. Hai gióng đặt hai cần xé mít, có trái chín buông mùi thơm phưởng phất.
Người nào đố trong toa ngủ gật chưa đẫy giấc, ngáp một tiếng át cả tiếng còi xe.
Bỗng từ toa hạng nhì vọng xuống:
- Cướp!
Có cả giọng ồ ề của một tên Nhật:
- Tô-kei! Nusumu!
- Tukamete gô! (1)
Toa tôi nhốn nháo, ngóng lên toa trên. Vừa lúc đó, ở đầu toa, hiện ra một gã cao lớn. Nếu gã không dáo dác thì khó mà nghĩ rằng gã chính là tên kẻ cướp. Ánh đèn xe tuy tù mù song đủ soi gã: quần áo ngắn, râu lún phún, mũi dọc, cằm bạnh, da trắng trẻo. Đôi chân mầy của gã rậm đen, mắt sâu và sáng quắc.
Gã nhảy gọn gàng qua gióng gánh,ngổn ngang. Đã nghe tiếng lao xao ở toa trên, có lẽ người ta sắp đuổi kịp gã. Gã hướng về phía cửa xe.
Tôi chụp cây đòn gánh của bà bán mít, giơ cao. Mấu đòn gánh chạm mạnh nóc xe. Tôi quyết giáng cho gã một đòn chí tử, nên dậm chân, nghiến răng trợ oai:
- Đồ ăn cướp cạn!... Bỏ tay ra!
Tay gã kè kè nơi bụng, chắc đang nắm chặt vật cướp được.
- Ê! Làm gì coi bậm trợn vậy hả “tụi”?
Gã cười cười nhìn tôi, đôi chân mầy - gã đứng càng gần, tôi càng thấy rõ đôi chân mầy cực kỳ rậm rạp của gã - nhướng nhướng như giễu cợt. Tôi chợt nhận ra cái thớ thịt cuồn cuộn trên bắp chân gã
- Y có “nghề”!
Tôi nghĩ liền đến cú đá của Sáu Cường. Xem võ đài tôi chứng kiến cú đá thần sầu quỷ khốc đó, đến nỗi cỡ Đông Phương Sóc vang danh lục tỉnh mà còn thiếu điều dập d... là! Mà gã này mường tượng Sáu Cường.
Hành khách nín thở chờ ngọn đòn gánh của tôi. Tôi lưỡng lự.
- Qua giựt của tụi Nhựt, mắc mớ gì chú nhỏ?
Gã thản nhiên, dù gã đang ở đứng tầm quật của tôi khi đầu toa lố nhố lính Nhật, gã vỗ đùi đánh “bách” nhẹ nhàng phóng qua cửa.
Lính Nhật nổ súng. Tôi kịp thấy gã lăn mấy vòng và mất hút vào bụi cây.
Xe giảm tốc độ. Tôi sực nhớ mình còn giương cây đòn gánh nên vội vàng hạ xuống.
Bà bán mít bĩu môi. Chẳng rõ bà bĩu môi vì ngại cây đòn gánh sứt móc hay vì cái gì khác, bởi bà nói trổng:
- May mà không đập “ổng”. Đập “ổng” thì bây giờ đã nằm ngay cán cuốc dưới đường rầy...
Xe ngừng. Bọn Nhật, bọn hai h ùa xuống, chân nện rào rạo ven đường, chạy ngược về nơi gã ăn cướp vừa nhảy.
Một sĩ quan Nhật lê thanh gươm trên sàn xe, vỗ vai tôi - ý chừng hắn trông thấy tôi và cây đòn gánh:
- Dô tô! [iii]
Bà bán mít phun bãi cỗ trầu:
- Bộ “ổng” mới mần ăn lần thứ nhứt sao? Tụi bây mà mò tới chỗ, còn thấy đống cứt của “ổng” là giỏi!.. Bắt cái máu đẻ chớ bắt...
Hành khách cười ồ. Tên sĩ quan Nhật ngơ ngác, chẳng hiểu tại sao thiên hạ cười...
*Lối nửa tháng sau vụ lộn xộn trên xe lửa, tôi ngồi trong một quán cơm đường Ba-tay, con đường buôn bán sầm uất nhất của chợ Biên Hòa.
Bàn tôi còn trống. Mải ăn, tôi không để ý một người vừa ngồi chỗ đó... Chắc là khách như tôi. Nhưng, tôi có cảm giác người đó nhìn tôi. Tôi ngước lên. Một người mặc áo sơ-mi màu hột gà. Đôi chân mầy rậm rì nhướng nhướng... Cha mẹ ơi! Gã! Chính gã.
Gã lập tâm tìm tôi. Tôi đinh ninh như vậy. Gã tìm tôi vì cây đòn gánh. Gã “hỏi tội” làm lanh của tôi. Dân “đá cá lăn dưa” thù dai, ai mà không biết!
- Mạnh giỏi hả chú nhỏ?
Trái với sự chờ đợi của lôi, gã hỏi mà giọng hiền khô. Tôi lấy lại bình tĩnh quan sát gã. Gã không có vẻ hề hấn chút nào trong vụ truy đuổi của bọn Nhật.
- Qua đi ngang tiệm, thấy chú nhỏ, nên ghé thăm chơi...
Tôi thở phào. Nghe tôi thở, gã hỏi:
- Bộ qua dữ dằn lắm sao?
Tôi đột nhiên hỏi gã:
- Tụi Nhựt bắn, mà không trúng chớ?
Gã cười, coi như tôi hỏi một câu ngớ ngẩn:
- Nhựt bắn thì làm sao trúng được!
Rồi gã than vãn:
- Cái đồng hồ của thằng quan Nhựt bán được có đồng rưỡi bạc! Thứ “Ô-tô-ma-lắc”... Chú nhỏ biết không, tụi Nhựt “rít chúa”, xài đồ “lạc son” không!
Gã bắt chuyện. Còn tôi, tôi lúng lúng. Nên nói chuyện với gã không? Một tên cướp giật có thể, như ý bà bán mít, một tên cướp giật chuyên nghề.
Dẫu sao, gã giật của Nhật, đúng là mắc mớ đến tôi? Gã không giật của bà bán mít, hay của hành khách toa hạng tư như chúng tôi. Cứ nhớ thái độ của hành khách bữa đó thì rõ.
Tôi tự lý luận và nhìn cặp chân mầy “sâu rọm” của gã mà tôi thinh thích. Có lẽ tôi cũng thích đôi mắt sâu như lọt trong hố, cái trán nhô có vẻ khiêu chiến. Và, bộ đá. Gã đích thị Sáu Cường chẳng sai. Hèn chi gã “phi thân” cái rẹt lúc xe lửa đang lao mà giống con chim sà xuống bãi cỏ.
- Chú Sáu nhảy xe tài quá trời!
Rốt cuộc, tôi vẫn nói và vẫn cho gã là Sáu Cường.
- Ối! Nhảy xe là thứ ruột của qua. Qua là lơ xe mà...
Tôi bắt gặp gã nhìn thèm thuồng đĩa cơm tôi đang ăn dở chừng. Gã hỏi, không hề ngượng ngập:
- Chú em còn tiền không?
Tỏi gật đầu. Tôi có bốn cắc.
- Qua đói!
Giọng gã tha thiết. Tôi gọi một dĩa cơm sườn, y như của tôi.
Người bán đang múc cơm vào dĩa thì một khách ngồi trong góc - chắc ngồi từ trước - bước đến bàn chúng tôi, vỗ vai gã:
- Anh Hai! Qua bàn em nhậu.
Khách vận áo xá xẩu lãnh đen láng bóng, người đẫy đà mặt nhung nhúc thịt, hai hàm răng bịt vàng khè.
- Anh Hai dùng chi? Gà quay nghen? Hay gà rút xương? Hay bò xào củ hành?
Khách cười mơn. Tôi đồ trong bụng gã mà nghe cái thực đơn này, ắt chịu liền.
Lạ quá! Gã không cục cựa. Mắt vẫn hau háu nhìn dĩa cơm mà người bán đang rưới lớp mỡ.
- À! - Khách làm như sực nhớ - Tiệm nầy có món sườn ngâm dấm, nhậu la-ve đã ghê!... Em kêu, nghe anh Hai... Ngồi đây cũng được.
Dĩa cơm sườn đặt trước. Gã gạt phắt tay khách giọng lạnh lùng:
- Tao hô không là không!
- Anh Hai kỳ thấy mồ! Gì chớ cơm sườn, em dám mời anh Hai suốt đời, mãn kiếp...
Khách người to rầm mà giọng eo éo y lại cái, nghe thật chướng.
- Tao ăn với chú nhỏ đây...
Gã trả lời rồi bỗng đấm bàn, chén đũa nhảy dựng.
- Mầy khiêng con heo quay lại biếu tao đổi dĩa cơm sườn nầy, tao cũng ỉa vào con heo quay của mầy!
Gã đã cúi xuống, cầm miếng sườn, cạp ngon lành. Khách xẻn lẻn rút lui.
Dĩa cơm sạch láng. Gã vét từng hột còn sót. Thấy vậy, tôi gọi dĩa thứ hai.
- Chú nhỏ tốt bụng thiệt tình! - Gã cười rạng rỡ - Để qua kêu, cũng một cắc thôi.
Gã gọi dĩa cơm trắng với con tôm càng ram.
- Nè chú nhỏ! Hễ làm ơn thì làm ơn cho trót. Chú cho qua một ly rượu bìm bịp. Năm xu... Mấy bữa thiếu rượu, con sâu men nó cựa, buồn ngủ thấy mồ tổ! - Ăn xong dĩa cơm, gã bảo tôi.
Tôi hơi tức cười về gã. Người sao vô tâm vô ý đến thế. Vừa quen, gã đã suồng sã như tôi và gã từng uống máu ăn thề không bằng!
Song, tôi vẫn thết gã một ly rượu. Gã nâng cái ly đen đen, ngửa cổ, ực một hơi một.
Chùi mép xong, gã quay tìm người khách. Khách vừa ra khỏi quản, sau khi ném lại cái liếc sắc như dao, không biết cho gã hay cho tôi.
- Ủa, va đi hồi nào? Chú nhỏ biết ai đó không? Không biết hả? Mười Lụa, anh-dít-ca-tơ [iv] của Ty lính kín...
Chắc giữa gã và Mười Lụa xích mích. Tất nhiên, chung quanh các “mối” làm ăn của mấy gã. - Tôi nghĩ thầm.
Gã nói, giọng tức giận:
- Qua mà thèm rình rập... Thằng chó đẻ!
Một lúc sau, gã dường như quên tay Mười Lụa, vỗ bụng:
- Mới lưng lửng thôi! Sức qua còn nổi một dĩa nữa ngặt chú nhỏ chắc ít tiền...
Tôi móc tiền trả. Người bán thối lại 5 xu.
- A! - Gã reo lên - Chú nhỏ còn 5 xu, cho qua bao thuốc.
Gã mua gói “Con Rồng” Đại Nam, rút một điếu mời tôi. Tôi lắc đầu. Gã châm lửa rít hơi dài.
Tôi còn 2 xu. Giữ 2 xu làm gì? Tôi đưa luôn cho gã,
- Giận lẫy hả? - Gã cười, trìu mến - Được, 2 xu thì quý 2 xu. Chiều, qua ăn bậy tô cơm tấm!
Gã nhét 2 xu vào túi, nheo mắt:
- Chú nhỏ muốn đặt cho qua thứ sáu, thứ mười lăm, hai chục, tùy chú nhỏ. Song đừng kêu qua là chú... Qua hơn chú nhỏ được mấy tuổi mà trèo đèo làm chú? Kêu bằng anh, hiểu chưa?
Gã bỏ đi. Có lẽ gã nói đúng: coi mòi gã lớn hơn tôi không bao nhiêu.
Tôi bỗng tiếc: Quên hỏi gã có phải là Sáu Cường không?
Đến đường rẽ vào bến xe, gã quay lại, vẫy tôi.
Chú thích:
[i] Đồng hồ! Ăn cắp! Bắt nó!
[ii] Bọn lính ngụy thời Nhựt.
[iii] Tốt
[iv] Điểm chỉ viên