Giới thiệu tác giả và tác phẩm
Mishima Yukio (Tam Đảo, Du Kỷ Phu) tên thật là Hiraoka Kimitake (Bình Cương, Công Uy) sinh ngày mùng 4 tháng Giêng năm 1925 tại Tokyo trong một gia đình quan chức, ông nội từng làm Phó Tổng trấn đảo Karafuto nay thuộc Nga. Mishima tuy rất tự hào về ông nội mình nhưng thường gắn bó với gia đình bà nội hơn vì bà vốn dòng dõi samurai đích thực chứ không phải gốc nhà nông như người ông. Bà nội Mishima là người có văn hóa cao nhưng tính tình thất thường, cứng rắn, khắt khe, và có lẽ vì cớ đó mà gia đình đã phải gả bà cho một người chồng có gốc gác xã hội thấp kém hơn. Thuở nhỏ, Mishima được gửi vào Gakushuuin (Học Tập Viện), một trường dành cho con nhà quý tộc nhưng nhận cả con em ngoài tầng lớp đó. Ở đây, ông được dạy dỗ theo truyền thống khắc kỷ như quân đội.
Lúc bấy giờ ông đã tỏ ra có khiếu văn chương và có chân trong một câu lạc bộ văn học của nhà trường. Học xong khoa Đức ngữ ở trung học Gakushuuin, ông vào học Luật ở Đại học Đông Kinh. Sau khi tốt nghiệp, dẫu đỗ vào ngành công chức cao cấp Bộ Tài chính, ông đã từ chức lúc vừa hết một năm sống đời “sáng vác ô đi tối vác về” để chọn con đường viết văn gian nan gai góc hơn. Tháng Hai năm 1945, lúc Nhật Bản sắp thua trận, ông tình nguyện nhập ngũ nhưng khi đi khám sức khỏe lại không đủ điều kiện nên phải quay về. Trung đoàn đáng lẽ ông tham dự đã bị tiêu diệt ở chiến trường Philippines. Vừa vặn ngày 15 tháng Tám năm ấy, chiến tranh kết thúc.
Ông lập gia đình với Sugiyama Yôko (Dao Tử), con gái một nhà danh họa, sinh được một trai, một gái. Tuy có cuộc sống gia đình có vẻ bình thường nhưng ngoài xã hội, ông hành động không giống những nhà văn khác như thích luyện cơ bắp, tập võ, đánh kiếm, lái máy bay, tranh luận trước công chúng, tham dự huấn luyện quân sự và thành lập một đội quân tư nhân với khoảng trên dưới bốn mươi thành viên, phần lớn là sinh viên trẻ và có ý thức hệ cực hữu.
Về mặt sáng tác, Mishima Yukio học hỏi phong cách và phương pháp viết của Âu Tây nhưng tin tưởng rằng có một nguyên lý Nhật Bản biểu hiện qua thần thoại và trật tự xã hội cổ truyền. Tín điều này làm phong phú sự nghiệp văn học nghệ thuật vốn rất đa dạng của ông (thi ca, luận thuyết, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch hiện đại, tuồng Nô kiểu mới, tuồng Kabuki, nhiếp ảnh, đạo diễn và diễn xuất điện ảnh) nhưng tất cả cũng góp phần vào việc dẫn ông đến hành động quá khích và tự diệt.
Là người có lý tưởng tôn quân bảo hoàng, ông tôn sùng những sĩ quan trẻ mưu toan đảo chánh ngày 26/2/1936 (Chính Biến Niriroku) với mục đích trung hưng thế lực Hoàng gia, hòng đưa nước Nhật trở lại vị trí một quốc gia hùng cường. Theo gương họ nhưng chọn nhầm thời, ông đã cùng các bạn đồng chí hướng trong tổ chức Tate No Kai (Hội Cái Khiên) xâm nhập doanh trại của quân đội Nhật ở Ichigaya (Tokyo) trưa ngày 25/11/1970 kêu gọi binh lính ở đó hành động để gây áp lực trên dư luận nhằm sửa đổi hiến pháp cho phép Nhật Bản tái vũ trang. Giữa sự thờ ơ và chế nhạo của mọi người, ông đã mổ bụng tự sát.
Tác phẩmTuy có nhiều cách đánh giá một văn nghiệp, tác phẩm chính (dưới dạng trung hay trường biên) của Mishima có thể kể ra như sau:
- Lời tự thú của mặt nạ (Kamen no Kokuhaku, 1949)
- Khát tình (Ai no Kawaki, 1950)
- Tình kiểu cấm (Kinjiki, 1951)
- Tiếng sóng xao (Shiosai, 1954)
- Kim Các Tự (Kinkakuji, 1956)
- Sau bữa tiệc (Utage no Ato, 1960)
- Bể Phong Nhiêu (Hôjô no Umi, khởi đăng từ 1965) gồm có 4 tập: Tuyết mùa xuân (Haru no Yuki, 1969), Ngựa bon (Honba, 1969); Ngôi chùa trong bình minh (Akatsuki no Tera, 1970) và Người tiên bị đọa (Tennin Gosui, 1970).
Phong cách trữ tình:
Lúc đầu, khi còn ở trên ghế nhà trường, ông làm thơ mới và haiku. Nhà thơ ông yêu thích, Tachihara Michizô (Lập Nguyên Đạo Tạo, 1914-39) đã ảnh hưởng đến phong cách trữ tình của thơ văn ông. Về văn xuôi, năm 1938, lúc mới có 13 tuổi, ông đã viết đoản thiên đầu tay Một câu chuyện tọa thiền (Zazen monogatari), tuy nhiên sử dụng bút hiệu Mishima lần đầu tiên với Khu rừng kết hoa (Hanazakari no mori) năm 16 tuổi (1941).
Biển cả và nắng ấm:
Sẵn tài thơ ca nên văn ông viết như thơ. Khu rừng kết hoa là một kho tàng về tu từ học vì đầy những ẩn dụ, so sánh và thể hiện phong cách văn học lãng mạn của ông về sau. Tác phẩm này đặt nặng vai trò của truyền thống trong lịch sử. Người kể chuyện trong đó (một lão già sống cô độc xa tổ quốc) có cảm tưởng tổ tiên lúc nào cũng hiện hữu bên cạnh ông ta tuy không can thiệp vào hành động của mình. Những vị tổ tiên này cùng chia sẻ với ông ta tình yêu đối với biển cả và một phương Nam đầy nắng ấm. Biển cả sẽ là trung tâm của tác phẩm Mishima, từ Tiếng sóng xao, Lỡ chuyến tàu chiều cho đến Bể Phong Nhiêu.
Kết nối Đông phương với Tây phương
Về các tác giả Tây phương, ông đặc biệt thích Oscar Wilde, sau đó đến các tác phẩm cổ điển Hi Lạp, rồi Raymond Radiguet, François Mauriac, Thomas Mann, Hofmanthal, Strindberg, Yeats và Baudelaire. Ông rất rành về cổ điển Nhật Bản. Khác với văn nhân đương thời vốn chủ trương đoạn tuyệt với văn chương thời Tiền Meiji, ông lại tìm nguồn cảm hứng từ các tác phẩm cổ điển ấy. Tứ bộ tác mà ông để lại như di chúc chịu ảnh hưởng các tác phẩm thời Heian (cuối thế kỷ thứ 8 đến giữa thế kỷ 12). Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga (Shigadera shônin no koi) cũng mượn bối cảnh thời này. Trung thế (Chuusei, 1945) nói về nỗi buồn mất con của Tướng quân Ashikaga Yoshimasa lồng trong không khí thời đại Muromachi (1333-1568). Những tác phẩm cổ điển như tập thần thoại Cổ sự ký (Kojiki), tập thơ Cổ kim tập (Kokin-shuu), Nhật ký của bà Izumi Shikibu, tuồng Nô, Diệp Ẩn (Hagakure - tập sách về giáo lý vũ sĩ đạo viết hồi thế kỷ thứ 18), truyện kinh dị thời Edo của Ueda Akinari... đều là nguồn cội của văn chương Mishima.
Bút danh Mishima do những người đỡ đầu (thầy học và nhà xuất bản) đặt cho khi họ họp với nhau trong một cái quán ở Mishima, một thành phố nghỉ mát vùng biển gần núi Fuji, để bàn về việc cho ra mắt một tác phẩm của ông khi còn là học sinh trung học. Mishima đã bắt đầu viết trong chiến tranh (1941) nên người viết văn học sử khó xếp ông hoàn toàn vào phái hậu chiến, nếu không nói phong cách văn chương ông còn là “phản hậu chiến” nữa. Nhưng đó cũng có thể là điểm son. Ông độc lập, không chạy theo thời cuộc, một phần cũng vì có sự tự tin ở tài nghệ của mình.
Ám ảnh về cái chết:
Sau chiến tranh, ông cho ra mắt Truyện ở đầu mũi đất (Misaki nite no monogatari, 1945-1946) và tiểu thuyết dài Bọn đạo tặc (Tôzoku 1946-1948). Cái chết đã theo đuổi ông kể từ Truyện ở đầu mũi đất trong đó nhân vật xưng “tôi” hồi tưởng lại một lần chơi ú tim với hai người bạn nhỏ tình cờ gặp được vào năm anh mới 11 tuổi trên một bãi biển vùng Chiba. Hai người bạn ấy, một nam một nữ rất xinh đẹp, giữa cuộc chơi bỗng nhiên mất dạng sau một ghềnh đá. Nhân vật “tôi” chắc chắn là mình đã nghe những tiếng rú thảm thiết từ phía đó nhưng khi nhìn xuống dưới ghềnh thì chỉ thấy cát trắng chứ không có xác người. Từ đó cho đến tuổi trưởng thành, anh ta bị ám ảnh bởi việc mình đã chứng kiến hiện tượng lạ lùng ấy. Với “Bọn đạo tặc”, Mishima dù bước vào thời hậu chiến nhưng vẫn làm ngơ với thực tế hậu chiến. Đây là một cuốn tiểu thuyết dài trình bày xã hội thượng lưu Nhật Bản của những năm 1930, cũng nói về ám ảnh muốn tự sát của một cặp vợ chồng quý tộc, cưới nhau sau khi mỗi bên đều đã trải qua một quan hệ đồng tính. Ông cho biết đã chịu ảnh hưởng của thiên tài yểu mệnh người pháp Raymond Radiguet (1903-1923) qua tác phẩm Buổi dạ vũ của bá tước d'Orgel (Le Bal du Comte d'Orgel), vốn đã được nhà thơ Nhật Horiguchi Daigaku (1892-1981) dịch sang tiếng Nhật. Tác phẩm này cũng bộc lộ ám ảnh về cái chết trong tâm trí Mishima mà ông xem là một hành động đẹp đẽ.
Lời tự thú của mặt nạ
Lời tự thú của mặt nạ (Kamen no kokuhaku) (1949), tập tự truyện (giả dối) của một tác giả mang mặt nạ xưng là “tôi”. Còn Tình kiểu cấm (1951) “Tình kiểu cấm” nói về thế giới những người kê-gian (sodomite) trong các quán rượu giữa Tokyo. Cả hai đều đề cập đến hiện tượng đồng tính luyến ái giữa nam giới (trong xã hội thời trung cổ, người ta gọi là “nam sắc” hay danshoku). Có lẽ Mishima là nhà văn Nhật thứ hai sau Ihara Saikaku (Tỉnh Nguyên, Tây Hạc, 1642-1693) thời Edo đã khai triển đề tài này một cách rõ ràng. Trong chương cuối của Lời tự thú của mặt nạ, người kể truyện tên Yuuichi (mang ít nhiều yếu tố có tính cách tự truyện của tác giả) nói đến một xung động không cưỡng nổi đã kéo mình ra khỏi ảnh hưởng của Sonoko, cô con gái anh ta tôn thờ, để hướng về phía “gã đàn ông thô lỗ mình mẩy đẫm mồ hôi”. Ở một đoạn khác, người ấy cho biết đã bị kích tình đến cực điểm (orgasm) lần đầu trong đời khi xem bức tranh Thánh Sebastian tuẫn đạo (với nét mặt u buồn nhưng hạnh phúc khi bị những mũi tên đâm đầy người) của Guido Reni. Ta nhớ rằng lúc cuối đời, Mishima cũng làm mẫu cho người ta chụp ảnh trong tư thế của thánh Sébastien bị những mũi tên đâm như thế và đã chọn cái chết bằng mổ bụng, một cái chết rất đau đớn.
Kim Các tự
Kim Các tự (Kinkakuji, 1956) của Mishima cũng như Shinkuu Chitai tức “Khoảng chân không” của Noma Hiroshi (1915-1991) là hai quyển truyện nổi tiếng của hai nhà văn lớn cùng thời. Thế nhưng Kinkakuji đã đối chọi với Shinkuu Chitai về văn thể, phong cách lẫn đề tài.
Kim Các tự là một tiểu thuyết dài, lấy cảm hứng từ một sự thực: vụ phóng hỏa xảy ra năm Shôwa 25 (1950) thiêu hủy ngôi chùa vàng Kim Các tự. Chùa này vốn tên là Lộc Uyển Tự của phái thiền Rinzai (Lâm Tế) do Shôgun Ashikaga Yoshimichi (1358-1408) cho xây lên ở Kyoto. Tuy nhiên, truyện kể biến chuyển tâm lý đã đưa thủ phạm, chú tiểu có tật nói lắp Mizoguchi, đến việc đốt chùa và quy cho việc anh ta đã bị vẻ đẹp của ngôi chùa thu hút, làm mình không còn là mình nữa. Đối với anh ta, chỉ có việc phóng hỏa thiêu rụi ngôi chùa mới giúp anh sống lại một cuộc đời mới. Nội dung thiên về phân tích tâm lý. Văn thể trong sáng và tinh tế của Mishima trong Kim Các tự làm cho quyển truyện có một chỗ đứng độc lập đối với Shinkuu Chitai nhưng cả hai đều đáng gọi là tác phẩm tiêu biểu một thời của văn học hậu chiến.
Cho dù nó chỉ đến bất chợt trong đầu tôi nhưng cái ý nghĩ đốt chùa Kinkaku sao mà tôi cảm thấy nó vừa khít với tôi như một bộ quần áo được thợ may đúng ni tấc. Làm như thể từ hồi mới sinh ra đời, tôi đã nuôi chí thực hiện chuyện đó rồi. Ít nhất là từ ngày đầu tiên đi theo cha đến ngắm chùa Kinkaku, ý tưởng đó thành hình dần dần để đợi ngày sinh hoa kết trái trong tôi. Kinkaku đã hiện ra trong cặp mắt trẻ thơ như một cái đẹp không thể nào tồn tại vĩnh viễn và điều đó là nguồn gốc của muôn ngàn lý do xui khiến tôi trở thành người phóng hỏa.
(Trích Kim Các tự, chương 8, NNT dịch)
Câu chuyện nói trên bắt đầu từ một sự kiện có thực nhưng ba mươi năm sau Kim Các tự, một nhà văn khác, Minakami Tsutomu đã viết cuốn truyện khác nhan đề Kim Các tự trong biển lửa thu thập rất nhiều tài liệu sống thực, đã đưa ra một cái nhìn khác hẳn với lối nhìn lãng mạn của Mishima.
Ưu quốc:
Không có một chữ tương đương trong Anh hoặc Pháp ngữ để dịch Ưu quốc (Yuukoku, 1961) “Ưu tư vận nước”, một truyện ngắn tiêu biểu của ông. Từ “Patriotism” mà Edward Seidensticker đã dùng trong bản tiếng Anh chỉ có thể dùng để dịch chữ Ái quốc. May thay, với vốn liếng Hán Việt ta có thể hiểu Ưu quốc theo một nghĩa năng động hơn là “lo lắng và hiến thân cho đất nước”. Như thế, ý nghĩa của Yuukoku trịnh trọng và u uẩn hơn là ái quốc. Tác phẩm này quan trọng trong sự nghiệp và cuộc đời Mishima vì nó kết tinh tư tưởng quốc gia cực đoan lãng mạn và cực kỳ nguy hiểm và đã dẫn đến hành động chiếm đóng doanh trại lực lượng quân đội phòng thủ của Nhật (Jieitai) và việc tự sát bằng mổ bụng của ông ngày 25/11/1970 cùng với các đồng chí trong Tate no Kai “Hội Cái Khiên”, một “đạo quân” vài chục người phần lớn là sinh viên. Ông đã làm rập khuôn như nhân vật trong truyện của ông, Trung úy Takeyama Shinji thuộc một đơn vị tên là Konoe sau khi cuộc nổi loạn của các bạn ông ta ngày 26/02/1936 bất thành. Chính biến này gọi là Ni.niroku (tức ngày 26/2) nhằm phục hồi lại uy quyền Thiên Hoàng và vinh quang Nhật Bản do một số sĩ quan trẻ gọi là “phái Hoàng đạo” (Kôdôha, chủ trương tôn quân) đề xướng. Nhóm người này đã tấn công các công thự và giết một số nhân vật trong chính quyền mà họ xem là “gian thần” trong ngày đầu nhưng đến ngày thứ tư, chính Thiên Hoàng Hirohito (1901-1989) đã ra lệnh bắt tất cả phải trở về doanh trại nếu không sẽ bị tiêu diệt. Với tội danh phiến loạn, các sĩ quan cầm đầu bị hành quyết giữa Tokyo và viên Trung úy Takeyama vì tình liên đới với những người đồng chí hướng đã mổ bụng chết theo sau một đêm ân ái tuyệt vời với người vợ mới cưới. Câu truyện tiểu thuyết hóa để tán dương tinh thần võ sĩ đạo của những quân nhân nổi loạn lồng khung trong một bối cảnh có đầy mỹ cảm và đam mê. Năm 1965, Ưu quốc đã được dựng thành một cuốn phim ngắn do Mishima sản xuất, đạo diễn, viết kịch bản.
Khát tình:
Khát tình (Ai no Kawaki, 1950)[44] với bối cảnh vùng Osaka, kể chuyện một góa phụ, Etsuko, tình nhân của cha người chồng quá cố nhưng yêu thầm anh làm vườn trẻ tuổi Saburô. Cô mê Saburô nhưng khi anh ta biết và tìm đến để đáp lại thì cô lại cự tuyệt, hô hoán lên và giết anh ta. Đó là một thứ “tình yêu chỉ để cho mà không chịu nhận” của “người đàn ông” nấp trong thân xác phụ nữ của Etsuko. Tác phẩm này có lẽ đã mô phỏng Thésrèse Desqueyroux của nhà văn Pháp François Mauriac.
Các tác phẩm quan trọng khác, ngoài Kim Các tự tóm tắt ở trên, còn có: Sau bữa tiệc (Utage no ato) nói về đời tư của các chính trị gia, đã làm Mishima bị cựu Tổng trưởng Arita Hachirô (1884- 1965) đang là ứng cử viên chức thị Trưởng Tokyo đưa ra tòa vì tội xúc phạm đời tư (1960), Tiếng sóng xao (Shiosai, 1954) lấy cảm hứng từ tiểu thuyết cổ Hi Lạp nhan đề Daphnis và Chloe, lồng nó trong bối cảnh Nhật Bản bằng cách biến hai đứa bé chăn cừu thành hai đứa con làng chài Shiji và Hatsue, yêu nhau trong trắng và vượt qua nghịch cảnh, Lỡ chuyến tàu chiều (Gogo no eikô, 1963) nói về nỗi thất vọng của mấy gã trai trẻ không được người thuyền trưởng già cho ra khơi như đã hứa, đã quay lại giết con người sau khi đã dụ dỗ họ bằng những lời đẹp đẽ về biển cả mà lại bỏ rơi họ để trở về sống trên đất liền.
Bể phong nhiêu:Tứ bộ tác Bể phong nhiêu (Hôjô no Umi), Tuyết mùa xuân (Haru no Yuki), Ngựa bon (Honba), Ngôi chùa trong bình minh (Akatsuki no Tera) và Người tiên bị đọa (Tennin gosui) được đăng từ tháng Chín năm 1965 cho đến lúc ông chết (1970) trên tạp chí Shinchô (Tân Trào). Nguồn cảm hứng chính của bốn tập truyện này là luân hồi chuyển sinh (transmigration) và mộng. Đó là cuộc hành trình của những nhân vật thuộc gia đình công tước Matsugae, một người có công mở nước thời Meiji qua nhiều kiếp không những trên đất Nhật mà còn ở nhiều nơi trên thế giới như Ấn Độ, Thái Lan. Họ còn nhận được ra nhau nhờ cái dấu (ba nốt ruồi) còn in trên thân thể và tái diễn lại cái “nghiệp” của những kiếp trước.
Tuồng và kịch:Ngoài những tác phẩm kể trên, Mishima còn viết và trình diễn các vở kịch Tổ kiến trắng (Shiraari, 1955, giải thưởng Kishida, theo tên nhà viết kịch Kishida Kunio), Sân cung vua hủi (Raiô no terasu, 1965-69), Nữ hầu tước de Sade (Sado Kôshaku Fujin, 1966), Hitler, bạn ta (Wa ga tomo Hittora, 1968), các vở tuồng Nô theo lối hiện đại trong Nôgaku-shuu (Năng Nhạc Tập, 1956) tức Tập tuồng Nô cận đại. Về nghị luận, ông có Mặt trời và thép (Taiyô to Tetsu, 1968) bàn về mỹ học của thân xác, Tìm hiểu Hagakure (Hagakure nyuumon, 1967), một nghiên cứu về tư tưởng võ sĩ đạo của nhà quốc học thời Edo là Yamamoto Jôchô (Sơn Bản, Thường Triều, 1659-1719).
Di chúc văn học:Trước khi tự mổ bụng theo nghi thức samurai ngày 25/11/1970, Mishima đã đem những trang cuối cùng của bản thảo Người tiên bị đọa (Tennin gosui), quyển cuối cùng của tứ bộ tác Bể phong nhiêu (Hôjô no Umi), tên một địa danh trên mặt trăng (Sea of Fertility, in từ 1965 đến 1971), giao cho nhà xuất bản.
Bản thân không theo đảng phái nào, không có hoạt động chính trị nhất quán và không có hệ thống có lý luận vững vàng, từ ngày viết Ưu quốc (Yuukoku), hình như Mishima (có lúc ký tên Mishima là Mỵ Tử Ma, tức Kẻ Mê Cái Chết) không còn phân biệt tiểu thuyết và đời thường nữa.
Cái chết của Mishima thật ra gây ấn tượng cho người ngoại quốc hơn là cho người Nhật và từ đó, Tây phương không ngừng phân tích tâm lý ông, viện cớ một tuổi trẻ ốm yếu, một nền giáo dục gia đình quý tộc hà khắc, khuynh hướng đồng tính luyến ái để giải thích hành động bất thường của ông. Có lẽ vì quá yêu mến văn tài mà họ đã trở nên quá dễ dãi và dung thứ.
Mishima và KawabataMishima có mối tình cảm thầy trò đặc biệt với Kawabata Yasunari, người đã giới thiệu tác phẩm Thuốc lá (Tabako) của ông trong tạp chí Ningen (Con Người) năm 1946 và đã tự sát bằng hơi ngạt hai năm sau ngày ông chết. Kawabata theo dõi văn nghiệp, làm chủ hôn cũng như chủ tang cho Mishima. Tính tình hai người hầu như đối lập, Kawabata kín đáo, điềm đạm trong khi Mishima sôi nổi, gây hấn. Học giả Donald Keene cho rằng tính nết của Mishima gần gũi với phong cách masuoburi (nam nhi) của Nhật Bản cổ xưa biểu hiện qua cái hùng tráng bạo tợn của những chiến sĩ thời Muromachi, khác với phong cách taoayame (nữ nhi) kín đáo và tinh tế như một thi nhân waka theo kiểu Kawabata. Chính vì thế mà Mishima xem Nấp dưới lá (Hagakure), một quyển kinh điển của người võ sĩ, như sách gối đầu giường, trong khi Kawabata tìm về cái đẹp cung đình của Truyện Genji.
Tuy nhiên, văn chương lãng mạn của họ có rất nhiều điểm chung. Do đó, nhiều nhà bình luận xếp họ vào cùng một khuynh hướng với Izumi Kyôka, Tanizaki Jun'ichirô và Satô Haruo. Những người này tượng trưng cho một khuynh hướng độc lập và có tính liên tục xuyên thời đại.
Mishima và Nhật Bản hậu chiếnNgược với lập luận xem Mishima bám chặt những tư tưởng chính trị xã hội tiền chiến, nhà phê bình cánh tả Nishikawa cho rằng dù muốn dù không, Mishima vẫn là một sản phẩm của thời hậu chiến. Chính Mishima tự thú đã “ăn nằm với thời đại” qua tập văn nghị luận Cuộc nghỉ hè của một tiểu thuyết gia (Shôsetsuka no kyuuka, 1955). Trong một tác phẩm ít được biết tới nhan đề Ngôi nhà của Kyôko (Kyôko no ie, 1954-56), có đả động tới một nơi mà năm nhân vật “nuôi những vết thương của cảnh điêu tàn hậu chiến trong tim” và lui tới ngôi nhà vì đó là nơi họ dùng để “tiếp xúc với ý tưởng của thời đại”. Hơn nữa, nhiều nhân vật của Mishima là con người của thời đại: họ là giám đốc hãng buôn, sinh viên, võ sĩ quyền Anh, họa sĩ, diễn viên... (như thấy trong Ngôi nhà của Kyôko hay Thời đại màu thiên thanh (Ao no jidai, 1950)). Ngoài ra, ông lấy cả tài liệu viết truyện từ thời sự báo chí (Kim Các tự, Khát Tình chẳng hạn).
Mishima làm thơ, viết luận thuyết, viết văn, dịch tuồng Nô, làm phim, dựng kịch, ông là một người đa tài đa năng. Phải chăng vì tài năng của ông bị xem là chỉ làm nở ra những cái “hoa ác” cho nên dù được đề cử giải Nobel văn chương nhiều lần, tư tưởng cực đoan của cá nhân ông đi ngược với tinh thần của Alfred Nobel đã là một cản trở không thể vượt nổi cho người muốn trao giải.
Theo tổng quan văn học sử Nhật Bản
Nguyễn Nam Trân biên soạn
Cập nhật 29 tháng Hai năm 2020