Lời Bạt
Như một cầu thủ thừa sức bao sân, Mishima lúc sinh thời đã bay nhảy trong nhiều lãnh vực nghệ thuật, từ truyện ngắn, truyện dài, tùy bút, nghị luận, kịch nghệ đến điện ảnh. Tuyển tập truyện mà chúng tôi vừa gửi đến quý vị độc giả gồm 9 truyện và 2 vở kịch Nô cận đại, tất cả đều ngắn.
Phần lớn các truyện đều dịch từ nguyên tác Nhật ngữ nhưng đôi khi đã được dịch từ các bản dịch ngoại văn như Pháp và Anh. Cũng cần nói là ngay khi dịch từ nguyên tác, việc tham khảo các bản dịch ngoại văn nhiều khi còn là một điều cần thiết vì nó giúp các dịch giả tránh được những lỗi lầm vì sơ sót hay không quán triệt một văn mạch đa nghĩa.
1. Truyện Ưu quốc (Yuukoku) mở đường cho Tuyển tập có nhắc tới ngay trong phần đầu ngày 26 tháng Hai, một ngày máu đã đổ trên đất Phù Tang.
Biến cố 26 tháng Hai là cuộc đảo chính năm Chiêu Hòa 11 (1936) của một nhóm sĩ quan lục quân trẻ tuổi phái Bảo hoàng nhằm lật đổ Chính phủ (theo họ là một chính quyền thối nát, làm kinh tế suy sụp, gây nạn đói), để lập một Nội các mới. Nhóm sĩ quan này dẫn khoảng 1.400 người, phần lớn là tân binh, đi vây các dinh thự và giết chết năm Bộ trưởng phái Dân sự, nhưng lại để Thủ tướng thoát được. Tuy họ ủng hộ Thiên Hoàng, đòi ông ra thân chính, song Thiên Hoàng Chiêu Hòa (Shôwa hay Hirohito) lại không chấp nhận phiến loạn đã sát hại các đại thần do mình bổ nhiệm, nên ra lệnh cho hải quân tiễu trừ. Điều này đưa đến nghịch cảnh là một số quân nhân phái Bảo hoàng được lệnh nổ súng vào những người cùng chung chí hướng. Sau đó, loạn quân đã phải quay về doanh trại, và các sĩ quan cầm đầu bị hành quyết ngay giữa Tokyo. Tuy thất bại kỳ đó, nhưng sau này thế lực quân phiệt càng ngày càng mạnh, dần dà họ nắm trọn chính quyền với tướng Tojo Hideki (1884-1948), và nhảy vào Thế chiến thứ hai.
Mishima rất ngưỡng mộ lý tưởng của cuộc binh biến ngày 26 tháng Hai này, mà ông cho là “biểu tượng của tình yêu nước trong trắng, không vụ lợi”. Năm 1970, ông cùng ba, bốn mươi người đồng chí trong Câu lạc bộ Cái Khiên (Tate No Kai, Club of Shield, một binh đội tư nhân do ông thành lập) đã gây một vụ “đảo chính” tương tự ngay doanh trại Bộ Quốc phòng Nhật, nhưng không ai theo mà còn chế nhạo, nên ông đã mổ bụng tự sát, lúc đó ông mới bốn mươi lăm tuổi.
Truyện ngắn này đã được dựng thành một cuốn phim ngắn, rất diễm tình, do Mishima đóng vai chính.
2. Đoản thiên thứ hai Đôi Cánh (Tsubasa) được đăng tải lần đầu trên số báo tháng Năm năm 1951 của tạp chí Bungakukai (Văn học giới) trước khi in lại trong nhiều tuyển tập của nhà văn. “Một chuyện kể theo phong cách Gautier”, câu nói kèm theo tựa đề trên đầy ngụ ý là khi sáng tác, ông đã lấy cảm hứng từ cách viết phi hiện thực của nhà văn lãng mạn Pháp, Théophile Gautier (1811- 1872).
3. Truyện ngắn thứ 3 Dì Haruko (Haruko) chỉ là một truyện ít người để ý, nằm mất hút trong số gần hai vạn trang tác phẩm (kể cả phê bình và thư tín) trong toàn tập 36 quyển do nhà xuất bản Shinchô cho ra đời năm 1974, gom góp trọn một phần tư thế kỷ hoạt động văn học nghệ thuật vô cùng sung mãn của Mishima Yukio (1925-1970). Mới thoáng nhìn, nó chỉ là câu chuyện tình của một người đàn bà sống theo phong cách khác đời của nhà thơ nữ trữ tình và quý tộc Hy Lạp Sappho (610?-580? TCN) trên đảo Lesbos, nổi tiếng vì tình yêu của bà đối với người đồng giới tính. Tuy nhiên, bằng cách tiếp cận sâu sắc và độc đáo của mình, Mishima đã mô tả được một cái gì bàng bạc nuối tiếc ẩn giấu bên trong, nó “huy hoàng pha lẫn thương đau, tựa như những âm thanh xôn xao còn vang vọng khi cánh màn nhung hạ xuống và tấn tuồng đã vãn”, như chính tác giả định nghĩa. Nó còn là tiếng khóc trong hoan lạc và bi ai của những người yêu nhau muốn thoát ra khỏi sự hạn hẹp của xác thịt và giới tính, trong đó mình bị đóng khung để tìm về một tình yêu trọn vẹn và giải phóng bằng cách vay mượn thân xác người khác.
Tác phẩm này đã được đăng lần đầu tiên trong tập phụ trang tiểu thuyết của tạp chí Ningen (Con Người) vào tháng Mười hai năm 1947, năm tác giả mới hai mươi hai tuổi. Truyện lấy bối cảnh là những ngày cuối cùng của cuộc thế chiến thứ hai (1944-1945), trước khi Nhật Bản đầu hàng đồng minh. Không khí chiến tranh đến hồi tàn cuộc bao trùm lên câu chuyện như muốn đóng vai một nhân vật thứ tư bên cạnh ba người trong đó.
4. Onnagata - tiêu đề được để nguyên văn không dịch là truyện thứ tư của tuyển tập này - đặt trong bối cảnh của một nhà hát Kabuki, nói về diễn biến tâm lý của một diễn viên nam chuyên đóng vai nữ (Onnagata) trong mối quan hệ của ông đối với một người cùng giới tính trong nghề. Truyện này đặt vấn đề về liên hệ của người đồng tính và những chuyển biến từ ngưỡng mộ, yêu đương, ghen tuông sang đến hận thù trong một khung cảnh đặc thù là môi trường sân khấu để suy ra bản chất của con người nói chung.
5. Chết giữa mùa hè (Manatsu no shi, 1953), tác phẩm thứ năm, kể lại câu chuyện của Tomoko, vợ một tư chức, vì tai nạn đã mất hai đứa con và cô em chồng, họ chết đuối trong một chuyến đi nghỉ hè cùng nàng ở vùng biển Izu, làm cho lòng nàng tan nát và tràn đầy hối hận. Hai năm sau, vợ chồng nàng và hai đứa con, trong đó có một bé gái mới sinh, lòng đầy hy vọng vì đã khắc phục nghịch cảnh, trở lại bãi biển ngày xưa như để xóa đi quá khứ đau thương một lần cho trót. Thế nhưng chính trong lúc nhìn ra mặt biển mùa hè trải ra xanh ngắt, nàng thẫn thờ khi cảm thấy như có gì lôi cuốn, mời mọc mình. Đoạn kết của một câu chuyện tưởng đã trở thành tốt đẹp không ngờ lại dự báo cho những điều kinh khiếp có thể xảy ra cho gia đình nho nhỏ ấy trong tương lai.
Truyện này dài nhất trong tập, nơi đây Mishima huy động ngòi bút mô tả tâm lý tài tình của ông. Chúng tôi đã cố gắng dịch sát theo nguyên văn, cả những đoạn mà các dịch giả E. Seidensticker và D. Aury lược bỏ vì ngại rườm rà hay khó hiểu.
6. Tác phẩm thứ sáu Hồn Bướm (Chôchô) có một nguồn gốc ngoại quốc. Năm 1898, nhà văn Mỹ, John Luther Long, người chưa từng đặt chân lên đất Nhật, đã dựa vào thư tín và tài liệu của chị mình, vợ ông hiệu trưởng một trường đạo ở Nagasaki, để viết tiểu thuyết nhan đề Madam Butterfly (Hồ Điệp phu nhân). Truyện kể lại mối tình bi đát giữa một sĩ quan hải quân Mỹ tên Pinkerton và nàng con hát mới mười lăm tuổi có nghệ danh là Chôchô (Bươm Bướm) mà người chị nghe dân sở tại truyền tụng. Hình tượng nàng Chôchô ôm con đứng trên mỏm đất nhìn ra vịnh Nagasaki trông ngóng người chồng bạc tình ra đi không bao giờ trở lại, buồn tuyệt vọng rồi tự sát trước Phật đài năm mười tám tuổi... đã là nguồn cảm hứng cho nhà soạn nhạc người Ý, Puccini viết vở nhạc kịch opera cùng tên, công diễn lần đầu tiên ở nhà hát Scala thành phố Milano năm 1904. Vở nhạc kịch cảm động này vẫn tiếp tục được trình diễn từ trên một trăm năm nay. Dù có thực hay không, truyện nàng Chôchô chỉ là một thảm cảnh điển hình của bao người con gái Nhật Bản, phải bán thân làm “vợ trên bến” (genchizuma) những chàng thủy thủ lang bạt thời Nhật Bản vừa mở cửa.
Nhân vật thứ hai cũng quan trọng không kém, được nhắc đến trong truyện này, là danh ca giọng nữ cao (soprano) Miura Tamaki (1884-1946). Bà là người Nhật Bản giữ trọng trách đào chính (prima donna) trên sân khấu Opera House ở London năm 1915 trong vai Madama Butterfly, cho đến lúc đó, chỉ có người ngoại quốc chủ diễn. Bà đã đi khắp thế giới và diễn vai này trên hai nghìn lần. Puccini gặp bà năm 1920 và cho rằng tài diễn xuất và tiếng hát của bà đã hoàn thiện nhân vật sân khấu mà ông trông đợi. Ở Nhật, Miura Tamaki đồng nghĩa với Madama Butterfly. Lúc đã ngoài năm mươi tuổi, tiếng hát của bà vẫn trong thanh như thuở đôi mươi. Bà mất năm 1946 sau khi diễn lần cuối cùng mới có hai tuần, và như ý nguyện, được chôn ở bên hồ Yamanaka, cạnh núi Fuji, nơi bà có thời đi sơ tán trong chiến tranh.
Tuy nhiên, ta thấy ở đây hình như Mishima chỉ mượn hai nhân vật trên để nêu một câu hỏi khác có tính cách triết học. Nó liên quan đến sự đối lập giữa ngăn cách/đợi chờ, hy vọng/tuyệt vọng của con người mọi thời đại. Khác với chàng Pinkerton vĩnh viễn bỏ đi và là đầu mối của bi kịch đời nàng Chôchô, người đàn ông trong truyện này, Kiyohara, đã từ chiến trường trở về tìm lại người xưa nhưng chính điều đó lại là nguyên nhân của một bi kịch khác.
7. Mishima Yukio cho ra mắt Chim Công (Kujaku) - tác phẩm thứ bảy - lần đầu tiên trong Tạp chí Bungakukai vào tháng Hai năm 1965, và sau đó đã nhiều phen ghép nó vào các tuyển tập truyện ngắn của mình. Trong lời ghi chú của tác giả, ông từng định nghĩa Chim Công như một tác phẩm nói về “nỗi cô đơn của một người ở tuổi mới lớn”.
Mishima còn tỏ ra rất gắn bó với lối suy nghĩ xem “sự hủy hoại một vẻ đẹp đang ở giữa đỉnh cao là cách duy nhất để giữ cho nó được tồn tại vĩnh viễn”. Mô típ này từng được thấy nhiều lần trong văn chương Mishima, qua tác phẩm này cũng như trong Ưu quốc hay Kim Các Tự. Trong thực tế, ông đã chứng tỏ điều đó lần cuối cùng vào năm 1970 qua hành động tự kết liễu đời mình ở cái tuổi bốn mươi lăm trung niên sắp sửa về chiều.
8. Tình yêu đóng vai trò then chốt trong tác phẩm thứ tám Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga (Shigadera shônin no koi) nhưng tình yêu nơi đây không phải là một thứ tình yêu phàm tục của đời thường.
Thực vậy, năm 1946, Jean Cocteau (1889-1963) dựng phim Giai nhân và Ác Thú (La Belle et La Bête). Năm 1954, Mishima Yukio cho đăng lần đầu tiên Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga. Cả hai đều khai triển đề tài tình yêu tuyệt đối qua sự hòa điệu giữa những đối tượng mà bản chất vốn không thể hòa điệu nếu không nói là tương phản. Dựa trên một chi tiết nhỏ từ pho sách cũ, Mishima đã khéo dàn dựng rồi miêu tả biến chuyển bên trong tâm lý hai nhân vật chính, đúng ra là hai tượng trưng. Điều đó làm cho bối cảnh của đoản thiên này được giản lược tối đa giống như thế giới quan niệm có tính phổ quát thấy trong một vở tuồng Nô hiện đại mà ông thường sáng tác.
Trong cuộc đời, có những mối tình ngắn ngủi thoáng đến thoáng đi, hoặc kéo dài “trong một tháng trong một năm” như cách nói của nhà văn nữ F. Sagan. Cũng có những mối tình lâu dài “tình trong giây phút mà thành thiên thu” hay “mối tình mang xuống tuyền đài chưa tan”. Nhưng tất cả không biết đáng kể hay không nếu đem đặt bên cạnh mối tình lạ lùng của vị cao tăng chùa Shiga.
9. Truyện ngắn thứ chín nhan đề Bồn phun nước giữa cơn mưa (Ame no naka no funsui) là một truyện không cốt truyện xảy ra giữa một đôi thiếu niên nam nữ mà tùy theo diễn tiến của nó, cái gọi là tình yêu được thể hiện một cách đáng yêu hay đáng ghét, dịu dàng hay ác độc, ngược đãi và bị ngược đãi. Tác giả cho biết đã lấy cảm hứng từ tác phẩm Paul và Virginie của nhà văn Pháp Villier L’Isle d’Adam mà ông xem như cây viết bậc thầy.
Trong phần Phụ lục, chúng tôi có dành chỗ cho hai vở tuồng Nô cận đại tiêu biểu của Mishima.
10. Vở Nô cận đại thứ nhất nhan đề Nàng Aoi (Aoi) vốn xuất phát từ tuồng Vương phi Hoa Quỳ (Aoi no Ue) trong tuồng Nô cổ điển và từ một nguồn gốc xa hơn nữa là chương 9 của tác phẩm cổ điển vĩ đại Truyện Genji (Genji Monogatari, 1010?) Của nữ sĩ cung đình thời Heian là bà Murasaki Shikibu. Nhân vì chúng tôi đã đề cập đến một cách khá kỹ lưỡng trong bài viết về Mishima và Nô cận đại trên đây nên chỉ xin nhắc sơ qua ở đây.
11. Vở Nô cận đại thứ hai Đạo Thành Tự (Dojoji) là truyện về một nhà sư trẻ vì sợ một người con gái si tình đeo đuổi, đã trốn vào trong quả chuông lớn của chùa Dôjôji nhưng chuông lại đổ lên trùm kín anh. Tình yêu cuồng nhiệt biến cô thành rồng lửa. Rồng quấn quanh chuông bảy vòng, dùng miệng phun lửa đốt và lấy đuôi định đập vỡ quả chuông cho anh phải ra nhưng rốt cuộc anh chết cháy trong đống đồng chảy lỏng. Dĩ nhiên trong Nô cận đại của Mishima, câu chuyện trên đây cũng như câu chuyện trước đó (Nàng Aoi) đã được cận đại hóa với một bối cảnh khác (tiệm bán đồ cổ thay vì ngôi chùa Đạo Thành), một không gian khép kín khác (cái tủ áo được đem ra đấu giá thay vì quả chuông chùa), một nhân vật khác (cô đào hát Kiyoko thay vì người đàn bà si tình hóa rồng) để dẫn đến một kết luận khác (không hủy diệt cả mình lẫn tình nhân trong cơn tuyệt vọng mà vui vẻ đi theo một người đàn ông lạ vừa mới trao cho mình tấm danh thiếp).