Chương II
CHIẾC ce Traction 15 c.v từ Sài gòn lên đến đây hồi 3 giờ chiều, bị chết máy. Người chủ xe lui cui sửa chữa mãi, nó vẫn chưa chạy được. Gần tối, sẵn có hai người dân làng từ trong núi đi ra, chủ xe nhờ họ đẫy hộ xe xuống dốc để lấy trớn. Nhưng đến nửa dốc, xe vẫn không rồ máy, chủ nó đành phải ngừng trước một lúp nhà lá bên lề đường.
Chủ nhà, một người đàn ông mộc mạc, đã già, hé cửa ra xem. Khách lạ xuống xe bước vào chào hỏi.
- Xe tôi lỡ bị hỏng máy. Ông làm ơn cho tôi nghỉ nhờ đây đêm nay, có được không, thưa ông?
Chủ nhà, chính là chú Cai lục lộ, trông thấy khách có vẻ người sang trọng, lễ phép đáp:
- Dạ cũng được.
Chủ hỏi tiếp:
- Ông đi Đà lạt?
- Dạ phải. Tôi ở Sài gòn ra đi từ hồi 7 giờ sáng đáng lẽ chiều nay tới Đà lạt rồi. Không dè xe bết quá. Từ Sàigòn đến Biên hòa êm xui không sao. Từ Biên hòa lên đây bị hỏng máy ba lần. Tôi cố sửa chữa đặng lên tạm đến Blao, có người bà con. Nhưng tới đây nó lại chết máy nữa! Thôi đành chịu vậy! Sáng mai tôi phải đón xe đò lên Đà lạt, mướn tài xế quen xuống đây sửa xe đem về Sài gòn... Thành ra phải nhờ ông cho trọ tạm đêm nay.
- Dạ, rủi ro xe bị panh, thì mời ông ở đây nghỉ. Đường cái bây giờ thiệt xấu, xe cộ đi mau hư lốp lắm.
- Chiếc xe của tôi đã cũ. Ông cử xem cải bảng C.G.839 kia thì biết! Nhưng ở Sàigòn chạy vẫn tốt. Mấy lần trước tôi đi Đà lạt cùng không hề gì. Lần nầy sao xui xẻo quá...
Chủ xe lấy hành lý đem vào nhà, một gói bánh mì lạp xưởng và hai chai bia. Ông bầy các thức ăn lên bàn, mời chủ nhà dùng bữa tối với ông cho vui. Ông Cai Lục lộ đã ăn cơm xong với gia quyến, nhưng ông nể lời ngồi uống một ly rượu bia với khách, ông hỏi:
- Ông thường đi Đà lạt sao?
- Trước kia vài tháng tôi đi một lần. Vì tôi có nhà ở trên ấy. Từ hồi chiến tranh thỉnh thoảng tôi mới lên thăm nhà.
- Xin lỗi ông, ông làm việc ở Sàigòn?
- Tôi làm giáo sư. Những ngày lễ, tôi lên Đà lạt nghỉ, bệt thự của tôi trên ấy, tôi giao cho vợ chồng một đứa cháu coi ngó và săn sóc vườn tược. Vừa rồi tôi được thư thằng cháu gửi về, nói vợ chồng nó đau ốm luôn không chịu được khí hậu lạnh và xin về Sàigòn dưỡng bịnh. Vì vậy tôi phải lên coi, sắp đặt kiếm người thay thế. Ông có quen ai, giới thiệu giùm tôi? Biệt thự của tôi ở đường Prenn, có vườn rộng trồng rau và các giống cây có trái. Tôi giao vườn cho người ta làm. Tôi giúp vốn cho để mua phân, rồi người ta thu lấy huê lợi làm kế sinh nhai. Hoa quả ở vườn, tôi cũng cho bán lấy tiền, chớ tôi không lấy. Ngoài ra, mỗi tháng tôi trả thêm một số lương 500$. Tôi có một căn nhà để riêng cho gác dan, bằng gỗ, lợp tôn, rộng rãi, mát mẻ, đủ ở được một gia đình năm, sáu người. Tôi giao toàn quyền trồng tỉa trong vườn tôi, miễn coi ngó giùm nhà cửa của tôi chu đáo là được. Dạo này đồng bào tản cư bắt đầu trở về khá đông, nhiều kẻ gian phi thừa cơ cướp bóc các nhà còn bỏ hoang, Cho nên tôi cần có một người quản gia đáng tin cậy để giữ nhà.
- Thưa ông, còn gia đình ông, ở Sàigòn?
- Tôi không có gia đình, ở Sàigòn tôi cũng ở một mình tôi.
Thấy ông khách không có gia đình, chú cai Lục lộ ngạc nhiên, tò mò hỏi:
- Thưa ông, vậy chứ bà nhà ở đâu?
- Vợ tôi chết đã bốn năm nay. Tôi lấy vợ hồi 21 tuổi. 25 tuổi thì nhà tôi mất. Chúng tôi không có con. Còn ông? Ông ở đây làm khá không? Có ruộng đất gì không?
- Dạ thưa ông, tôi cũng mới về ở đây bốn năm năm nay thôi. Trước tôi làm cai Lục lộ ở Biên hòa. Sau mua được miếng đất rừng nầy định về lập nghiệp, sẵn có người bà con nhường lại cho một thủa ruộng trong núi. Nhưng mấy năm nay mất mùa luôn, không đủ nuôi sống gia đình ông à. Chúng tôi phải đi cưa gỗ thuê trong rừng cho các nhà buôn gỗ ở Biên hòa. Ngoài ra, hoa lợi ở đây chẳng có gì. Từ hồi loạn lạc đến nay, công việc làm ăn lại càng khó khăn nguy hiểm hơn. Núi rừng không yên ổn như trước...
Do câu chuyện ngẫu nhiên nầy, ông Giáo thoáng nghĩ rằng hoàn cảnh chú cai như thế thì chú có thể làm quản gia cho biệt thự của ông ở Đà lạt được. Nhưng ông không hỏi vội vì chưa hiểu rõ người ta như thế nào. Mặc dầu vậy, ông Giáo mới biết sơ chú Cai mà ông cũng đã thấy chú là người thật thà, chất phác, có thể tin cậy được. Bà Cai thì quê mùa, khúm núm bưng bình trà lên để trên bàn mời khách rất lễ phép, rồi xuống bếp liền.
Đêm ấy, vợ chồng chú Cai có nhã ý quét dọn chiếc giường gỗ độc nhất trong nhà trải chiếc chiếu bông, mời ông khách nghỉ. Gia đình chú nằm võng và giường tre dưới chái bếp cách nhà trên một căn buồng con đựng gạo, muối, và treo áo quần. Một bức màn cũ đã rách nát ngăn cách nhà trên.
.
Sáng thật sớm, trời còn đặc sương mù, ông Giáo đã thức dậy khoác áo ấm ra sân lui cui sửa xe nữa. Ông vặn mấy khu ốc, tháo bình xăng ra, thổi ba bốn hơi. Ông lắp trở vào, bơm xăng lên, rồi vô xe ngồi, kéo démarreur, đạp ga, không nổ. Bình tĩnh, ông lấy ma ni ven quây thật mạnh hàng chục lần, máy vẫn không rồ. Ông rút ma ni ven bỏ xuống đất, lại khom lưng vào đầu máy, mở hết bốn bu gi ra, thay vào bốn cái mới. Ông lại đút ma ni ven vào quây, máy cũng cứ không rồ. Hai bàn tay ông dính đầy dầu nhớt. Ông ngó đồng hồ đeo tay, đã 7 giờ. Mặt trời vừa lú lên như một hoa phượng đỏ tươi mới nở. Sương đã tan. Một làn nắng dịu tỏa ánh vàng a-1m áp trên núi rừng, cây cỏ.
Chú Cai mời ông Giáo vô nhà dùng cà phê. Ông Giáo cất ma ni ven trong xe và lượm hết các khí cụ dùng sửa chữa bỏ vào hộp sắt, cất vào cốp xe. Xong, ông đi vòng ra sau bếp để rửa tay. Ông chợt thấy thoáng bóng một thiếu nữ xách ấm nước sôi từ bếp vội bước lên nhà trên. Ông không để ý và không nhìn kỹ. Rửa tay xong, ông lại thấy thiếu nữ từ trên nhà trở xuống bếp với ấm nước. Lần nầy ông giáo bị xúc động lạ thường. Ông vừa trông thấy hình dung một cô gái nghèo, chưn không mang guốc, đầu tóc biếng cài, nhưng khuôn mặt trái xoan tuyệt đẹp. Trông cô ngây thơ, hiền lành quá. Ông khẽ nghiêng đầu, lễ phép:
- Chào cô.
Cô gái bẽn lẽn:
- Dạ, chào ông.
Tiếng nói của cô trong suốt như pha lê. Cặp mắt của cô rung động dịu dàng như một mành tơ liễu.
Nhưng cô lánh mặt, ngồi xuống bếp chụm thêm củi.
Ông giáo cảm thấy trong giây phút tâm hồn ông hoàn toàn bị xao xuyến.
Ông 29 tuổi. Từ khi bà giáo thất lộc đến nay đã bốn năm, ông nhất định ở vậy, chưa muốn cưới vợ khác. Ông quen biết bao nhiêu thiếu nữ xinh đẹp và tình tứ, ở Sàigòn, Đà lạt, nhưng ông thuộc vào hạng đàn ông khó tính, giao thiệp nhiều với phụ nữ nhưng rất dè dặt trong vấn đề tình ái. Người vợ đầu tiên của ông là một cô nữ sinh do ông cụ thân sinh của ông buộc ông phải cưới chạy tang hai ngày trước khi ông Cụ mất. Cưới về được một năm bà giáo đau nặng rồi qua đời, không có con để ông góa bụa mới 25 tuổi.
Ông giáo nói thật với bạn bè rằng ông chưa gặp được một người đàn bà nào vừa ý ông. Chưa một người nào, dù đẹp thế mấy đi nữa, cảm hóa được ông. Ông thường nói: ‘‘Sao tôi thấy cô nào cũng như cô nào. Như một bóng trắng bay thoáng qua trước mắt tôi. Như một làn gió nhẹ. Thổi phớt qua tâm hồn tôi. Chưa có một tiếng sét đánh mạnh vào tim tôi!’’ Một bà triệu phú quen biết ông ở Sàigòn cô có con gái 19 tuổi học với ông. Một hôm, bà hỏi giỡn ông:
- Sao ông giáo không chịulấy vợ?
Ông giáo sư Triết học tủm tỉm cười, đáp:
- Bởi vì, thưa Bà, tôi đã gặp nhiều người đàn bà quá mà y như tôi chưa được gặp một người đàn bà nào!
- Ông khó tính như thế vậy?
- Nhưng tôi tin rằng trên đường đời của tôi không sớm thì muộn cũng sẽ hiện ra một vị Nữ thần.Vị Nữ thần ấy sẽ là vợ tôi, chắc chắn.
- Chà! Vị Nữ thần của ông chắc là đẹp lộng lẫy đó hả! Chắc nàng còn ở trong một động tiên nào đó, đầy vàng ngọc châu báuphải hôn, ông giáo? Ông giáo sư văn chương và triết học, hèn chi mơ mộng quá xá!
Suốt trong thời gian 4 năm ở góa, ông giáo sư văn chương và triết học ngồi điềm nhiên trên nguyên tắc ‘‘kénvợ’’. Cánh cửa của cõi tim ông khép kín, không có một bóng hồng nào thướt tha lọt vào được.
Ông giáo kén vợ là phải. Vì ở địa vị của ông, sang trọng và giàu có, ông muốn cưới vợ nào lại không được, cưới lúc nào lại không được, cần chi phải hấp tấp vội vàng? Đã bị góa vợ một lần rồi, lần nầy ông thận trọng, nhất định không để cho tình cảm bồng bột nhứt thời quyến rủ được ông.
Bỗng dưng sáng sớm hôm nay, vừa thấy thoáng bóng một thiếu nữ nghèo nàn trong một chái bếp ở rừng hoang núi thẳm, ông giáo sư triết học đã cảm thấy trong giây phút tiêu tan hết cả những ý nghĩ cứng rắn của ông. Cô gái quê mùa kia có điện lực gì thu hút được tâm hồn ông đột ngột và mãnh liệt như thế? Trên con đường đi Đà lạt, cao chót vót như đường về nơi Tiên cảnh, vị Nữ thần của Ái tình đã hiện ra trước mắt ông dưới mái nhà lụp xụp kia chăng?
Ngồi uống cà phê với chú Cai lục lộ, ông giáo trầm ngâm một lúc thật lâu. Rồi ông khẽ hỏi chú, với vẻ mặt hơi thẹn thùng, nguợng nghịu:
- Người thiếu nữ vừa xách ấm nước lên đó là ai, ông chủ nhỉ?
- Dạ, con gái của tôi.
- Cô ấy mấy tuổi, thưa ông?
- Dạ cháu năm nay 19 tuổi.
- Tên cô là gì?
- Dạ tên cháu là Mỹ Phượng.
Ông giáo làm thinh, uống cạn tách cà phê không còn một chút cặn.
Một lúc lâu, thật lâu, ông mới hỏi sang chuyện khác:
- Mấy giờ có xe đò qua đây, ông chủ?
- Dạ, thưa ông, xe đò thì dạo này không có. Chỉ có xe hàng, nhưng họ chạy không chừng đổi gì hết. Hai ba ngày mới có một chuyến, có khi họ chạy đêm.
- Bất cứ lúc nào, hễ có xe là tôi xin đi quá giang lên Đà lạt được chớ?
- Dạ, được. Lượt xuống cũng vậy, phải đi quá giang xe chở rau.
Chú Cai uống một hụm trà, rồi lễ phép hỏi tiếp:
- Thưa ông, khi hôm ông nói ông muốn kiếm một người gác dan để coi nhà cho ông ở Đà lạt, có phải không à?
- Phải. Nếu ông Cai quen biết ai, chỉ giùm tôi. Tôi rất cảm ơn. Hồi trước chiến tranh tôi có người quản gia giỏi lắm. Tôi rất tin cậy. Vì vườn của tôi khá rộng, anh ta trồng rau đến mùa bán được bạc ngàn. Tôi cho hết, không lấy đồng nào. Anh la lại nuôi gà, vịt, heo, hoa lợi cũng không ít. Tôi còn giúp cho vợ anh buôn bán ngoài chợ. Kế đến thời kỳ tản cư, anh ta chay xuống đến Phan rang rồi biệt tin luôn cho đến nay. Có mấy người cùng chạy giặc với anh một lượt, vừa rồi đã trở về Đà lạt, cho tôi biết rằng anh gác dan của tôi đã chết ở Nha trang lúc Pháp đổ bộ. Tôi rất tiếc Anh đi tản cư mà không kịp thì giờ cho tôi hay, nên biệt thự của tôi bỏ hoang gần một năm trời, không ai coi ngó tới. Nhưng cũng may, khi tôi có dịp lên Đà lạt, thấy cửa ngỏ còn khóa y nguyên, đồ đạc trong nhà không mất mát gì. Tôi lên ở sáu tháng trong lúc Đà lạt hãy còn vắng lắm. Đồng bào phần đông đi tản cư chưa về. Sau tôi nhận được giấy gọi về Sàigòn dạy học, tôi mới cho hai vợ chồng đứa cháu tôi lên ở coi nhà. Nhưng bây giờ chúng nó lại nhứt định xin về. Khí hậu Đà lạt lạnh quá chúng nó không chịu nổi. Vì vậy mà tôi phải vội vàng trở lên để kiếm người thay thế cho nó. Ở Đà lạt hiện giờ tôi cũng có quen nhiều người làm vườn chuyên môn, có lẽ tôi có thể nhờ cậy họ được. Nhưng nếu ông Cai muốn lên ở coi nhà giùm tôi và làm quản gia cho tôi, thì được lắm. Tôi rất cám ơn. Sẵn dịp tôi đi Đà lạt chuyến nầy, mời ông cùng đi với tôi để xem rõ tình thế.
- Dạ. Không nói giấu gì ông giáo, khi hôm tôi có bàn với vợ tôi, vợ tôi cũng muốn sẵn cơ hội nầy, để tôi đi Đà lạt xem có thể làm công việc cai quản nhà cửa vườn tược của ông giáo được không.
- Thế thì tiện lắm, vậy ông Cai sửa sọan đi. Có xe là chúng ta đi ngay.
- Dạ.
Cả buổi sáng hôm ấy cho mãi đến trưa chiều, chẳng có chiếc xe nào. Ông giáo muốn đi dạo chơi trong rừng,lại sợ lỡ có xe đến thình lình.
Không biết làm gì hơn là mở đầu máy xe của ông ra, lui cui sửa chữa nữa... sửa mãi mà xe cứ không rồ. Ông cũng không còn thấy bóng người thiếu nữ đẹp lạ lùng kia nữa. Trưa, chú Cai lục lộ đãi ông giáo một bữa cơm gà, chỉ có thím Cai dọn cơm lên. Lúc pha trà, cũng thím Cai xách ấm nước sôi lên... Ông giáo điềm tỉnh như không để ý đến sự vắng bóng đột nhiên của thiếu nữ.
Nhưng ông bồn chồn trong dạ, cơm nước xong ông đứng dậy, vừa lúc một làn gió thổi phất phơ ở bức màn rách, ông chợt thấy bóng cô Mỹ Phượng đang ngồi chụm lửa nơi xó bếp.
Làn gió như dậy men, thổi vào lòng ông, nửa say nửa tỉnh...
Chiều gần 4 giờ, mới có một chiếc xe cam nhông, hiệu ‘‘Long-Vân’’ chở hàng hóa từ Sàigòn lên. Ông giáo và chú Cai vội vàng chạy ra đường đón xe. Xe từ từ ngừng, chủ xe hỏi:
- Gì đó các ông?
- Ông cho chúng tôi đi nhờ xe lên Đà lạt được không?
- Xin lỗi, xe đầy ẹc hàng hóa, không có chỗ.
- Ông làm phước cho chúng tôi quá giang vì có việc gấp phải đi Đà lạt. Ông nhét cho
chúng tôi chỗ nào cũng được. Chúng tôi trả tiền lộ phí bao nhiêu cũng đưọc mà!
- Ba trăm đồng một người, nhưng quý ông chịu phiền nằm tạm dưới mui xe.
- Được!
Chủ xe gọi anh ét ngồi phía sau:
- Sáu ơi, mầy coi còn chỗ nào chỉ cho mấy ổng ngồi đỡ lên Đà lạt, mầy!
Anh ét cằn nhằn biếu hai ông nằm trên bao bố trải trên mấy thùng đựng nước mắm. Hai ông bằng lòng, leo lên. Xe chạy. Hai người nằm bẹp sát dưới mui xe, thò hai cái đầu ra bị nước mắm dưới thùng tạt lên mặt. Bà Cai đứng trước cửa ngó lên, cười dòn dã. Ông giáo lại thấy lấp ló sau lưng bà, gương mặt trái xoan, rực rỡ của cô Mỹ Phượng.
Xe lên đèo, nặng nề, rầm rộ. Ông Giáo sư triết học thọc tay vào túi quần moi ra chiếc khăn lau mấy giọt nước mắm văng đầy lên trên mặt và trên tóc ông. Ông khẽ hỏi chú Cai:
- Cô Phượng đã có chồng chưa, thưa ông?
Chú Cai đang thoa dầu nhị thiên đường vào hai lỗ mũi. Mùi dầu nồng lên khó chịu. Chú vừa hít ha, vừa trả lời cụt ngủn:
- Dạ..., chưa.
Từ đó lên đến Đà lạt, ông Giáo lặng thinh, không nói thêm một lời. Nhưng ông hút hết một gói thuốc bao xanh vừa mới mở.