← Quay lại trang sách

Chương III

CÔ Phượng thật không ngờ vì chiếc xe hơi hỏng máy của một người khách lạ qua đường một buổi chiều hè, mà đời sống của gia đình cô và của cô bắt đầu thay đổi hẳn. Cô chứng kiến những ngày tháng trôi qua, rực rỡ ánh hồng tươi đẹp mà cũng chứa đầy huyền bí mịt mờ. Cha mẹ cô và cô đã dọn lên ở Đà lạt, làm quản gia coi nhà cho ông Giáo. Công việc kể ra cũng hơi vất vả, nhưng sinh hoạt có phần dễ chịu, đầy đủ hơn trước nhiều, ông Giáo trợ cấp một số tiền hàng tháng. Ngoài ra, bao nhiêu hoa lợi trong vườn, rau, trái, bông hoa, gà, vịt, đã tạo cho gia đình ông Cai một sản nghiệp nho nhỏ nhưng dồi dào phong phú hơn xưa. Ngày hai buổi, cô Phượng giúp cha tưới rau, đổ phân, làm công việc ngoài vườn, và còn lo cơm nước, vá may, dọn dẹp nhà cửa. Tuy bận rộn suốt ngày, nhưng Phượng thấy công việc ngày một phát triển, nên cô ham thích lắm. Cô còn có thì giờ thêu, đan, và đọc sách, bỏ lại những ngày túng thiếu thuở xưa mà cô không sao thỏa mãn được lòng ham muốn mở mang khả năng và trí óc của cô, một thiếu nữ tài hoa chỉ phải cái tội sanh trưởng trong gia đình nghèo khó. Lên ở Đà lạt, chú Cai đã bán sở ruộng núi và nhà cửa ở Tân phú. Cô Phượng cũng không thích trở về khu rừng hẻo lánh từ ngày nhà binh Pháp mở cuộc bố ráp khủng khiếp và đốt cháy nhà cửa trong làng. Cô không sao quên đuợc đêm hãi hùng mà cha cô và cô xuýt bị bắt đi. Đêm ấy, một chiếc xe hàng từ Sàigòn lên có ngưng lại nửa tiếng đồng hồ để bỏ xuống nơi căn nhà ở đầu làng một bao muối và hai bao gạo. Chắc là có người mách với nhà binh Pháp sao đó nên hai ngày sau một đoàn xe thiết giáp đến nơi bao vây cả làng Tân phú. Lính xét từng nhà, lục soát từng người, và đánh đập tàn nhẫn những đồng bào lương thiện. Cha cô Phượng và cô cũng bị tra tấn gần một tiếng đồng hồ, may được thả ra với mấy người khác. Nhưng bảy người bị bắt giải về Biên hòa, bị tình nghi là tiếp tế cho Bưng biền. Ba căn nhà bị đốt. Tai nạn bất ngờ nầy đã xui khiến chú Cai Lục lộ và gia đình nhứt định từ giã đất Tân phú. Trước khi ra đi, Cô Phượng có khẩn khoản với mấy người hàng xóm còn ở lại, nếu khi nào cậu Tình được tìm về, nhờ nói giùm với cậu lên ngay Đà lạt, tìm cô tại nhà ông Giáo sư ở đường Prenn. Cô tin chắc chắn rằng thế nào Tình cũng sẽ trở về, và cô mơ tưởng sẽ cùng người yêu gặp nhau và làm lễ cưới ở Đà lạt, tại Biệt thự của ông Giáo. Bỏ Tân Phú lên ở Đà Lạt, gia đình chú Cai được thỏa mãn với hoàn cảnh mới. Ông Giáo đối đãi tử tế vô cùng họ không ngờ dịp may đã bỗng dưng đưa đến cho họ một đời sống đầy đủ, mà trước kia họ không bao giờ nghĩ đến. Cô Phượng không thể dững dưng với cuộc thay đổi khả quan, nhiều hy vọng ấy. Cô cũng không thể mãi mãi thờ ơ trước cảm tình nồng nàn chân thật của ông Giáo đối cô. Cử chỉ rất lịch sự đàng hoàng của ông trong nhiều trường hợp, những lời thân mật và đúng đắn ông nói với cô, đã gieo trong lòng cô một cảm mến âm thầm sâu sắc. Ông Giáo ở Sàigòn thỉnh thoảng mới về Đà lạt. Mỗi lần ông về, thường có nhiều cơ hội tự nhiên hai người gặp nhau, trao đổi với nhau những câu chuyện về quốc gia xã hội, nhơn tình thế cố, và hai người đã hiểu nhau nhiều, rất tâm đầu ý hợp. Những cuộc giao thiệp hiếm hoi và tao nhã ấy đã để cho Phượng những ý nghĩ tốt đẹp về tư cách và tính tình của ông Giáo. Gần ông, cô được học hỏi thêm nhiều, rất mở mang cho trí óc ham hiểu biết của cô. Tuy nhiên, đã hai lần ông Giáo thành thật ngỏ ý muốn kết bạn trăm năm với cô, hai lần cô đều từ chối, ông Giáo hơi ngạc nhiên. Cô không nói vì lý do gì. Cô không hề cho ông Giáo biết là cô đang chờ đợi người yêu đã cùng cô gắn bó lời thề giữa núi rừng Tân phú. Cô nhận xét ông Giáo là ân nhân của cô và của gia đình cô, là người có tư cách cao thượng, tính tình phong nhã, lại nhơn đức, hiền từ, phước hậu. Cô cũng thấy ông Giáo rất thuơng cô, ân cần săn sóc đến cô, và muốn dắt dần cô lên một địa vị cao sang. Ông Giáo lại là một người rất bình dâu, khiêm tốn: cô Phượng ghét những kẻ truởng giả phách lối bao nhiêu thì cô khâm phục và quí mến ông Giáo bấy nhiêu. Nhưng, hai lần cô từ chối tình yêu của ông Giáo và lời câu hôn tha thiết của ông, là vì cô Phượng quyết giữ mối chung tình với người yêu mộc mạc của Rừng Xanh. Cô buồn bã nhớ thương người tình nhân nghèo khổ đã nói với cô trên đỉnh nủi, lúc chiều tà : ‘‘Tôi muốn tặng em chiếc áo cưới màu hồng’’ ... Xinh đẹp xiết bao, chiếc áo cưới màu hồng của Tình tặng cho ! Phượng đã đem xấp hàng ra tự cắt lấy, tự may lấy, và đã mặc thử ; thật là vừa vặn, hồng hào, rực rỡ ! Chiếc áo cưới sít sao ôm chặt lấy tấm thân thướt tha duyên dáng của cô, cô vuốt ve nó, mơn trớn nó, đê mê, sung sướng, như tình yêu của chàng ôm chặt lấy tim cô ! Phượng cất chiếc áo cưới trong rương, chờ ngày Tình về cưới Phượng. Đã có lần mẹ cô hỏi thật ý cô đối với ông Giáo như thế nào. Cô đáp : - Ông giáo rất tử tế với con. Con biết ổng thương con nhiều lắm, và thật tình ông không có ý lợi dụng hoàn cảnh của nhà mình. Hai lần ông thành thật ngỏ lời muốn kết hôn với con, hai lần con từ chối, thì con thấy ổng rất buồn. Có lẽ ổng âm thầm đau khổ lắm. Thấy một người có địa vị sang trọng như ông mà quyến luyến đến thân con một cách tha thiết quá như vậy, con thật tình cảm động. Nhưng con không sao quên được lời thệ ngnyện gắn bó với vị hôn phu của con, Con đã trao duyên gởi phận cho anh Tình, cha mẹ đã nhận trầu cau của ảnh, thì con không thể nào bội ước được. Tuy chúng con chưa làm lể cưới, chiếc áo màu hồng của ảnh cho tuy con chưa mặc, nhưng chừng nào áo ấy rách mà anh chưa về thì họa may con mới lấy người chồng khác. Bà Cai buồn bã hỏi cô con gái : - Chiếc áo hồng không bao giờ con mặc, thì làm sao nó rách được ? - Dạ, thưa Mẹ, nó còn nguyên vẹn mãi, thì tình yêu của con với anh Tình cũng còn nguyên vẹn mãi. Than ôi ! Phượng quá yêu Tình nên Phượng nói thế thôi, chứ từ ngày Tình đi Biên hòa bị bắt, đã hai năm qua, Phượng đêm ngày ngóng trông mà biệt tăm biệt tích. Hai năm, đã hai lần, đến ngày 28 tháng 5 là ngày hai bên cha mẹ đã định làm lễ cưới cho đôi bạn trẻ, Tình vẫn chưa về. Hai năm, hai lần, ngày ấy Phượng đóng kín cửa buồng, nằm khóc một mình, bỏ ăn bỏ ngủ. Phượng buồn tủi vì ngày này đáng lẽ là ngày tưng bừng đẹp đẽ nhất trong đời cô, mà lại hóa ra một ngày u ám ảm đạm nhất ! 28 tháng 5 ! Bao nhiêu huyền mơ diễm lệ chỉ là mộng ảo phù hư chăng ? Bao nhiêu hy vọng thắm tươi chưa chi đã tàu tạ như lá úa rồi chăng ? Phượng mở rương lấy ra chiếc áo cưới, ôm ấp vào lòng, gục xuống giường thổn thức : - Anh Tình ơi ! Anh Tình của em ! Chiếc áo cưới màu hồng này, đến bao giờ em mới được mặc, hỡi anh?... Nặng lòng thương nhớ người yêu xa vắng, cô Phượng bỏ ăn, ngày đêm hao mòn thân thể. Cô ốm nặng, Cha mẹ cô hết sức lo lắng, không biết thuốc thang gì cho cô uống khỏi. Gia đình chỉ có ba người, cha mẹ cô già yếu, một mình cô là gái đảm đương mọi việc. Nay cô đau, nằm liệt giường liệt chiếu, lấy ai săn sóc cho cô mau mạnh? Lấy ai đi chợ, bán rau ? Lấy ai làm lụng việc nhà ? Cô cũng tự biết hoàn cảnh nhà cô như thế, nhưng làm sao được ? Phượng cố gắng gượng làm việc chút ít, đỡ đần cha mẹ. Nhưng vừa bớt cô đã ra giếng giặt đồ, liền bị đau lại lần nầy thật nặng. Nhàn dịp ngày lễ, ông Giáo ở Sàigòn về Đà lạt thăm nhà. Thấy cô Phượng thân hình ốm yếu và bịnh tình thêm trầm trọng, ông liền mời Bác sĩ đến thăm bịnh cho cô. Đà lạt lúc bấy giờ chỉ có vài bác sĩ, thiếu các dụng cụ, các ông đều khuyên cha mẹ cô Phượng đưa cô Phượng xuống bịnh viện lớn ở Sàigòn để chiếu điện, sợ cô bị bịnh đau tim nặng. Vợ chồng chú Cai khóc lóc với ông Giáo: - Trăm sự xin nhờ ông chủ. Bác sĩ ở đây đã nói như vậy, nếu ông chủ làm phước đưa cháu đi nhà thương Sàigòn thì ơn cao nghĩa nặng vợ chồng chúng tôi không dám quên. Chỉ sợ làm phiền ông chủ nhiều quá. - Không phiền gì đâu. Ông bà cứ yên lòng. Sáng sớm hôm sau, vợ chồng ông Cai đỡ cô Phượng vào chiếc xe hơi của ông Giáo để đi Sàigòn. Cô Phượng bằng Iòng đi, vì cô tin cậy ông Giáo là người đàng hoàng đứng đắn. Cô muốn đi, vì cô nghe Bác sĩ nói tại nhà thương lớn ở Sàigòn người ta sẽ chữa cho cô khỏi bịnh, nhờ có đủ máy chiếu điện, đủ thuốc men, và bác sĩ giỏi, Cô sợ nếu cô chết ,ở Đàlạt thì còn ai nuôi dưỡng cha mẹ già ? Thà cô liều nghe lời bác sĩ, đi Sàigòn chữa bịnh may khỏi được, đó là phước đức cho gia đình cô. Ngó chiếc va-li quần áo của cô đã để trong xe, cô khóc lóc từ giã mẹ cha. Bà Cai bịn rịn bảo con: - Mẹ cầu nguyện Phật Trời phù hộ cho con mau khỏi bịnh. Cô Phượng vô ngồi ghế sau. Ông Giáo để một chiếc gối: - Cô nằm xuống cho đỡ mệt. Bình thường cô Phượng hồng hào béo tốt, nay mới đau nặng mười lăm ngày cô đã gầy ốm rất nhiều, da mặt nhợt nhạt, đôi mắt sâu hỏm, tay chưn bủn rủn. Cô nằm chèo queo trên ghế xe, không cử động, gần như một xác chết. Xuống Sàigòn ba giờ chiều, ông Giáo lái xe đưa cô thẳng vào bịnh viện lớn. Hằng ngày ông vào thăm cô, mỗi buổi trưa và buổi tối, đem vào các thứ trái cây mời cô ăn để mau lấy lại sức, theo lời dặn của Bác sĩ. Cô Phượng cảm phục tư cách của ông Giáo mỗi lần vào thăm, ông hỏi han về bịnh tình, săn sóc cô rất chu đáo, lo cho cô từng ly từng tí, nhưng không bao giờ tán tĩnh lợi dụng cô. Không bao giờ ông nói một lời chọc ghẹo, lẳng lơ hay sổ sàng. Ông đối xử tự nhiên, rất nhã nhặn, không hề quá thân mật, không thố lộ một tình ý nào cả. Thái độ vui vẻ. Âu yếm, nhưng rất dè dặt của ông Giáo cũng phải khiến Phượng ngạc nhiên và cảm động. Suốt một tháng cô nằm nhà thương, hoàn toàn nhờ ông, nuôi nấng, săn sóc thuốc men, rất là tận tụy, khổ sở, tốn biết bao nhiêu thì giờ và tiền của, cô không nghe ông Giáo than phiền hay kể ơn lần nào. Nhiều đêm cô sốt nặng, ông ở trong phòng cô cho đến sáng mới về đi dạy học. Mỗi lần cô chợt tĩnh dậy đều thấy ông nằm trên chiếc giường con ở góc phòng, xem sách. Thấy thế, cô tội nghiệp cho ông, thương ông quá, nhưng không dám nói ra. Chỉ có một lần, lần ấy cô nóng lạnh, nằm ngủ phải đắp mền, nửa đêm cô ngủ mê đạp tung chăn ra. Ông Giáo khẽ héo mền đắp lại cho cô khỏi lạnh. Cô sực tĩnh dậy, thấy ông lui cui đắp kín hai bàn chưn cô, cô cảm động quá, khẽ bảo : - Thưa ông, ông chưa đi nghĩ? Ông cười rất tự nhiên: - Tôi sắp đi nghỉ đây... Cô bớt lạnh chưa? - Thưa ông, đã bớt. Ông mặc sơ mi, quần tây, mang giày tây, cứ để như thế ông lên nằm trên chiếc giường con của ông nơi góc phòng. Phượng kéo mền trùm kín mặt rưng rưng nước mắt. khóc thầm vì cảm thương ông Giáo quá. Nằm nhà thương một tháng, Phượng đã hết bịnh, ông mời cô về nhà ông ở đường Testard, Nghỉ hai hôm chờ đến ngày ông được rãnh đưa cô về Đà lạt. Trong hai hôm, ông Giáo để cô nằm một phòng riêng, trang hoàng lịch sự. Ông tiếp đãi cô như một người bạn quý. Ông tránh tất cả những cử chỉ quá thân mật, sợ cô Phượng hiểu lầm rằng ông quyến rủ cô, hoặc lợi dụng hoàn cảnh của cô. Thấy Phượng không đeo một món nữ trang nào, mặc những áo quần sơ sài, giản dị, ông muốn mua tặng cô một chiếc nhẫn, hay một vài xấp hàng, nhưng ông lại sợ Phượng hiểu lầm rằng ông muốn lấy tiền bạc và châu báu để mua chuộc Tình yêu của cô. Ông biết trọng danh dự nhất là đối với một thiếu nữ có sắc đẹp mê hồn, có tính nết dịu dàng hiền hậu mà ông đã yêu say sưa đắm đuối từ hai năm nay, một tình yêu thất vọng ! Ông âm thầm đau đớn, buồn bã, nhưng đối với Phượng ông không cho biết tâm sự xót xa não nuột của ông. Phượng cũng thừa biết rằng vì ông yêu quí cô nhiều lắm, thành thật, không có chút giả dối nào, nên ông mới tận tụy với cô như thế, nhưng cô cũng hiểu không phải ông muốn lợi dụng cơ hội để chiếm đoạt trái tim cô đâu. Một tháng nằm nhà thương và mấy ngày ở chung trong nhà riêng của ông ở Sàigòn đã cho Phượng hiểu rõ hơn ai hết, tư cách cao thượng và lòng thương thiết tha thầm kín của ông. Lúc cô đã Iành mạnh, ông có mua biếu cô mười hộp thnốc bổ và năm quyển sách Việt ngữ toàn những sách bổ ích về văn hóa, mà cô đọc dễ hiểu. Hôm ra về, ông sắp đặt đầy đủ, lo lắng cho cô chu tất. Đó là hôm chúa nhựt, ông chỉ nghỉ được một ngày lái xe đưa Phượng về Đà lạt, rồi sáng sớm hôm sau ông lại phải trở xuống Sàigòn. Thấy con gái bình phục trở về, vợ chồng ông Cai vui mừng khôn xiết. Hai ông bà già lăng xăng đón cô gái cưng với bao nhiêu nỗi niềm, âu yếm. Chiều tối ông Giáo lái xe ra tiệm ăn cơm theo lệ quen mỗi khi ông lên Đà lạt. Muốn tỏ lòng biết ơn ông Giáo, vợ chồng ông Cai đã sắp đặt chờ tám giờ ông ở tiệm về. Ông vừa khép cửa vào nhà một lúc thì có tiếng gõ cửa. Ông Giáo ra mở, rất ngạc nhiên thấy ông Cai khăn đen áo dài như ngày Tết, bà Cai cũng áo dài. Hai vợ chồng khúm núm bước vào, bưng một khay gỗ cũ kỹ, trong có một chai rượu trắng Ông Cai lễ phép nói : - Thưa ông Giáo, cháu Phượng đã sống được trở về đây với vợ chồng chúng tôi, công ơn của ông Giáo vô biên, chúng tôi nghèo nàn không biết lấy chi đền đáp được. Vợ chồng chúng tôi chỉ xin dâng ông một chai rượu trắng tôi nấu ở nhà, gọi là chút lòng tri ân hèn mọn của chúng tôi, xin ông Giáo nhận cho. Ông Giáo không nói được một lời. Ông thấy lòng ông nôn nao thương xót vì cử chỉ mộc mạc quá cảm động của hai vợ chồng già. Ông vui vẻ nhận lấy chai rượu: - Tôi xin thành thật cám ơn ông bà. Đây là món quà quý nhất trong đời tôi. Tôi không biết uống rượu, nhưng tôi sẽ đem về Sàigòn từ nay mỗi khi nhớ đến ông bà, tôi sẽ uống một ly...

Ngay lúc đó, ở gian nhà gác dan, trong căn phòng lặng lẽ của cô, Phượng nằm khóc một mình. Ngổn ngang trăm mối bên lòng, Phượng khóc vì cô không biết duyên phận của cô rồi đây sẽ ra thế nào? Cô khóc vì cô mong nhớ cậu Tìnk mỗi ngày một biệt tin, biết bao giờ tái ngộ ? Biết bao giờ Tình về để cùng cô lập gia thất, sống cuộc đời nghèo nàn nhưng ân ái êm đềm như đôi tình nhân đã hứa hẹn cùng nhau? Xa cách Tình trong hai năm, Phượng cảm thấy thân thế của mình là con chim lạc đàn, phiêu dạt giữa gió sương. Tiếng khóc của cô là tiếug kêu bi đát não nùng của con tim lạnh lẽo đìu hiu trong đêm vắng ! Gia đình cô bây giờ không đến nỗi thiếu hụt khổ sở như trước, cha mẹ cô được đời sống đầy đủ phong lưu hơn nhiều, riêng cô cũng thảnh thơi sung sướng hơn lúc ở nơi xó rừng quạnh quẽ. Mặc dù vậy, đời cô đã vui tươi vì có Tình, tâm hồn cô đã phấn khởi vì cảm thông với Tình, lòng cô đã hồi hộp đê mê vì yêu Tình. Cô đã yêu, hồi mười tám tuổi, người con trai đứng đắn, hiền- ành, can đảm. Tình yêu say mê đắm đuối ấy như ánh nắng êm dịu của mùa xuân đã in sắc màu rực rỡ trên tuổi thơ tươi thắm của cô. Hình ảnh đau khổ của Tình Ià hình ảnh của cuộc đời Phượng. Hình ảnh ấy làm sao xóa mờ được? Hai năm xa cách, Phượng đã khóc bao nhiều nước mắt ! Trằn trọc thổn thức bao nhiều đêm trường! Hai năm xa cách, đời sống của Phượng đã thay đổi nhiều, mà lòng Phượng vẫn chưa hề thay đổi. Nhưng Phượng càng khóc nhiều khi nghĩ đến tình yêu rộng lớn mênh mông của ông Giáo. Tuy ông có địa vị sang trọng, chủ cái biệt thự lộng lẫy mà cô chỉ là con gái nghèo hèn của người gác dan, nhưng ông Giáo yêu cô rất nồng nàn chân thật, một tình yêu tha thiết vô cùng. Hai năm, ông không được cô hứa hẹn một lời nào, nhưng ông vẫn một lòng quý mến cô, kiên nhẫn, trung thành, không bao giờ hờn giận, không bao giờ chán nản. Ông đối đãi với cha mẹ cô rất là bình đẳng, coi cô như một người bạn thân chớ không phải như kẻ tôi tớ, không phân chia giai cấp, không phân biệt giàu nghèo, lúc nào cũng dịu dàng, vui vẻ, nhã nhặn. Công ơn của ông đối với gia đình cô thật không bờ bến. Nhưng không bao giờ ông lấy đó làm điều hãnh diện, không ỷ thế cậy quyền bắt buộc cha mẹ cô hay cô, một điều gì. Ông Giáo quả là người cao thượng, đáng kính phục, quý mến vô cùng. Đời tư của ông cũng rất trong sạch. Mặc dầu góa vợ và giàu sang, ông vẫn sống thanh bạch, không hề trụy lạc, không thích rượu chè, không chơi bời lêu lổng như hạng trưởng giả vô đạo đức, vô tư cách mà cô Phượng đã thấy nhan nhản ở thời buổi nầy. Ông Giáo hoàn toàn là một nhà trí thức gương mẫu. Cử chỉ của ông đối với cô lúc nào cũng để trong trí óc cô một niềm cảm mến thành thật sâu xa. Thật ra, nếu Phượng chưa hứa hôn với Tình, chưa gắn bó cùng Tình bởi một lời thề son sắt, thì Phượng không có lý do gì từ chối tình yêu của ông Giáo. Cô thấy rõ rằng ông thương yêu cô không phải như một người giàu sang thương kẻ nghèo hèn, vì sắc đẹp hay vì dục tình đê tiện. Sự thật, Phượng cũng biết ông Giáo mê sắc đẹp của cô lắm, sắc đẹp hồn nhiêu đã vô tình làm cho lòng ông xao xuyến rạo rực ngay buổi sáng đầu tiên ông đã thoáng thấy bóng cô. Nhưng hai năm tiếp xúc thường với cô ông lại cảm mến cả tính nết hiền lành thùy mị của cô nữa. Ông đã thấy cô không màu mè giả dối như phần đông các cô gái khác, ông nhận xét nơi Phượng những đức tính quý báu của một người thiếu nữ có tài ba, một người vợ dịu dàng, thanh nhã, một người nội trợ đảm đương chu đáo. Hơn nữa, tuy cô là con gái một chú Cai Lục lộ, vào bực nghèo hèn trong xã hội, nhưng cô vẫn có học chút ít, và ham đọc sách, ưa trau dồi về văn bóa, chớ không như nhiều cô gái nhà nghèo chỉ lo làm có tiền để sắm sửa xa hoa, theo đòi vật chất. Phượng nằm để tay Iên trán nhớ lại những lần cô đã ngẫu nhiên trực tiếp với ông Giáo sư.

.

Một hôm, nhân lễ Hai Bà Trưng, ông Giáo từ Sàigòn về nghỉ ở Đàlạt hai ngày. Sáng hôm ấy cô Phượng gánh một gánh phân nặng ra vườn rau Cô vừa bước lên tấm ván mỏng bắt ngang qua mương thì ván sụp, cô té xuống nước, với cả gánh phân nhào đổ hết. Ông Giáo đang ngồi bắt sâu và bón phân cho mấy giồng hoa trước sân biệt thự. Nghe tiếng sụp té và thấy cô Phượng loây hoây dưới mương, ông hốt hoảng, chạy xuống. Đến nơi, Phượng đã lóp ngóp ngồi dậy, áo quần đầy bùn, chưa leo được lên bờ. Cô bị trẹo nơi chân, đau điếng, ngồi nhăn nhó. Gánh phân thì nằm nghiêng dưới nước. Thấy ông Giáo chạy ra, Phượng mắc cở quá, luýnh quýnh dưới bùn lầy. Ông nhảy qua bên kia mương, đưa hai tay ra muốn đỡ cô. Phượng vừa đau vừa thẹn, cảm ơn ông nhưng cô tự sức leo lên, không dám nắm tay ông. Cô vừa bám lấy một bụi cỏ thì cỏ tróc rễ, cô lại té xuống khá mạnh. Nước và bùn bắn lên cả áo quần ông Giáo. Ông không quan tâm, đứng cúi xuống mương, đưa tay ra cho Phượng : - Cô để tôi đỡ cô lên. Thấy bộ đồ pyjama của ông Giáo đã bị lấm bùn nhiều vết, vì lỗi tại cô, Phượng ái ngại, và không dám phụ lòng ông, liền đưa tay ra cho ông đở cô lên bờ. Ông bảo : - Cô vào nhà tắm rửa và thay đồ. Chốc tôi sẽ đem thuốc nóng để cô bóp chỗ xương chưn bị trẹo, Tôi phải kéo gánh phân lên kẻo nước trôi hết. Phượng chạy vào nhà, nhưng một ống chân bị thương, chắc bị miểng chai đâm, chảy máu nhiều nơi, cô phải bước chậm chậm. Ông Giáo xăn ống quần pyjama lên tận đầu gối, và vén tay áo lên đến cùi chỏ, nhảy xuống mương đem gánh phân lên. Một nửa thùng phân đã bị nước cuốn trôi. Ông trở vào kho, tìm một tấm ván khác chắc hơn, vác trên vai đem ra đặt trên mương, thay cây cầu vốn mục đã bị sụp làm cô Phượng té. Muốn cho chắc, ông còn lấy bốn cái nọc đóng kèm hai bên đầu cầu. Trong buồng tắm, Phượng dòm ra nơi khe cửa, thấy ông Giáo lom khom vác ván ra mương, và làm các công việc kia. Cô tủm tỉm cười, phục ông Giáo làm việc lao động không kém một anh nông dân. Xong hết, ông vào nhà, tay chưn quần áo lấm đầy cả bùn. Tắm rửa, thay đồ rồi, ông cầm chai dầu nóng xuống nhà gác dan. Phượng ái ngại không dám để ông xoa bóp. Ông đưa chai dầu cho cô, và chạy trở lên nhà lấy thuốc tím, thuốc xức, bông gòn và băng keo đem xuống. Ông hỏi Phượng: - Cộ đã bóp Salicylate chưa? - Dạ, thưa ông, rồi. - Cô đã thấy bớt đau chưa ? - Dạ còn trặc quá. - Cô phài bóp thật mạnh mới được, nếu không, không ăn thua gì. Cô trặc chỗ nào? Phượng chỉ nơi gần mắt cá. Ông bảo . - Cô ngồi xuống ghế. Để tôi sửa lại cho cô Thấy Phượng mắc cở, ông cười: - Cô đừng ngại. Cô cứ tưởng tượng như tôi là một bác sĩ chữa bịnh cho cô vậy thôi. Có thế cô mới hết trặc chân ! Phượng bẽn lẽn ngồi trên ghế. Ông Giáo lấy bông gòn thấm dầu nóng, ngồi bên chân cô, nắm lấy nhẹ nhàng bàn chân cô, và đánh dầu nóng lên nơi trặc xương, nhiều lần cho thấm dầu. Ông vừa xoa dầu vừa bóp gân một lúc lâu. Cô Phượng hết trặc. Xong, ông rửa với thuốc tím mấy vết thương bị miểng chai cắt còn rỉ máu. Ông xức pommade, đặt bông gòn lên, rồi dán băng keo.