← Quay lại trang sách

Chương 7 Thứ năm, 30 tháng 7-Đời con người máy

Thế rồi bỗng chốc lặng yên. Moxon tái xuất, nở nụ cười xin lỗi:

“Bỏ quá cho tôi vì rời đi đột ngột. Cái máy trong ấy nó nổi điên, quậy phá tứ tung.”

Nhìn lên má trái ông, thấy hằn lên bốn vết xước song song rỉ máu, tôi hỏi:

“Thế sao không cắt móng tay cho nó đi?”

Ambrose Bierce, Chủ của [*]Moxon

Trưa hôm sau, khi mưa ấm áp rơi, và mây đen phủ kín bầu trời thôn dã, Page lại ngồi tại bàn nơi phòng làm việc, trong đầu suy nghĩ những điều khác hẳn hôm qua.

Bước qua bước lại trước mặt anh, tiếng chân đều đều như tiếng mưa, là thanh tra Elliot.

Và chễm chệ trên chiếc ghế to nhất là tiến sĩ Gideon Fell.

Vừa đến Mallingford sáng nay, tiến sĩ thấy ngay đây là ca khó. Ngồi dựa ghế, ông thở nhẹ phì phò, tập trung nhìn vào góc bàn, không để ý đến vại bia rót sẵn để sát khuỷu tay. Mắt Fell đeo kính, dây kính to bản, màu đen. Ria mép ông để theo kiểu cướp biển, tua tủa như sẵn sàng tranh luận; mái tóc dày, ngả bạc, phủ xuống một bên tai. Trên một ghế khác cạnh bên, có chiếc mũ to vành, và cây can với tay cầm bằng ngà.

Giọng cười của Fell không sang sảng như mọi khi. Khuôn mặt ông vẫn đỏ au, đỏ hơn sức nóng mùa hè, song thiếu vắng vẻ vui tươi thường nhật. Đã nghe tả Fell là người cao lớn, dềnh dàng nhưng Page không nghĩ lại to béo thế này. Khi vừa bước vào, ông như choán cả căn phòng, giành hết chỗ của đồ vật bên trong.

Người dân Mallingford và Sloane chẳng thích gì tình cảnh hiện tại. Ai ai cũng thu mình, khiến sự im lìm gượng gạo bao trùm khu vực. Mọi người nay đã rõ: “Chuyên gia văn hóa dân gian” ở quán Bò Và Đồ Tể, không ai khác, chính là thanh tra thuộc Cục Điều tra Hình sự. Dẫu vậy, không ai bàn tán chi. Buổi sáng, khách hàng đến quán uống rượu đều thấp giọng thì thầm, và ra về sớm hơn thường lệ. Chỉ thế thôi! Quán rượu, hay gọi cho nhã là lữ quán, không còn chỗ cho tiến sĩ Fell, bởi hai phòng trọ đều đã có người. Page vui vẻ cho ông ở tạm nhà mình.

Ngoài tiến sĩ Fell, Page cũng mến viên thanh tra. Andrew MacAndrew Elliot trông không ra nhà dân gian học, cũng chẳng giống nhân viên Scotland Yard. Anh còn khá trẻ, điệu bộ nghiêm trang, người xương xương, tóc sáng màu. Elliot thích tranh luận, hay nói chuyện theo lối “tinh vi”, cái lối mà chánh thanh tra Hadley rất ghét. Hấp thụ nền giáo dục Scotland truyền thống, nên ngay các vấn đề nhỏ nhặt nhất, anh cũng xem xét thật tỉ mỉ. Giờ đây, trong cơn mưa hạ, anh đang đi lại giữa phòng, tìm cách diễn giải quan điểm của mình sao cho mạch lạc.

“Hừm hừm,” tiến sĩ Fell càu nhàu. “Đến giờ đã làm được những gì?”

“Ông giám đốc cảnh sát, tức đại úy Marchbanks, đã điện lên Scotland Yard hồi sáng, sau đó phủi tay khỏi trách nhiệm vụ này,” Elliot đáp. “Theo thông lệ, họ phải cử chánh tranh tra đến đây. Tuy nhiên, vì tôi hiện đang có mặt, và đang điều tra một vụ có thể có liên quan.

(Hẳn là vụ giết cô Victoria Daly,” Page nghĩ. “Nhưng liên quan như thế nào?)

“Tốt lắm,” tiến sĩ Fell nói. “Vậy là anh được giao nhiệm vụ.”

“Vâng, tôi được giao nhiệm vụ,” Elliot chống nắm tay đầy tàn nhang lên bàn, dựa cả thân hình vào nó. “Đây cũng là cơ hội mà tôi cần tận dụng, chắc tiến sĩ cũng hiểu. Thế nhưng…” anh thở hắt ra, “sắp tới sẽ đầy những khó khăn. Muốn dòm ngó nội tình mà không sao dòm được. Dân địa phương khóa miệng chặt hơn khóa cửa sổ. Họ ngồi quán uống bia, chuyện gẫu như thường, nhưng ta khơi đề tài thì họ lảng đi hết. Với tầng lớp thượng lưu thì còn khó hơn nữa, ngay cả trước khi vụ này xảy ra.” (giọng thanh tra hơi khinh miệt khi nhắc hai chữ “thượng lưu”.)

“Ý anh là vụ kia cũng thế?” tiến sĩ Fell mở một mắt.

“Trong vụ kia, người duy nhất cung cấp thông tin hữu ích là Madeline Dane,” Elliot thận trọng nhấn mạnh. “Như cô Dane mới thật là phụ nữ. Trò chuyện với cổ thật vui, không như với mấy con mụ cứng quèo chuyên phà khói vào mặt người đối diện, vừa thấy tôi trình danh thiếp đã gọi ngay luật sư. Thật đấy, đàn bà phải như cô Dane! Xưa ở quê, tôi từng quen một người giống thế.”

Tiến sĩ Fell mở nốt con mắt còn lại, trong khi Elliot tỏ ra bối rối vì những điều vừa thốt. Những gì thanh tra nói, Page hiểu và tán đồng. Trong anh còn dâng lên một mối ghen vô căn cứ.

“Về vụ Farnleigh Close,” Elliot tiếp, “xin thưa tiến sĩ hay: Tôi đã lấy lời khai sơ bộ từ tất cả mọi người có mặt đêm qua, riêng các gia nhân thì chưa. Phải đi tìm mãi đấy. Ông Burrows ngủ lại điền trang, sẵn sàng gặp gỡ chúng ta, song nguyên cáo, tức Patrick Gore, cùng luật sư Welkyn đã trở về Maidstone.” Giữa chừng, anh quay nhìn Page. “Thưa ông, nghe nói có cãi nhau, tình hình khá căng thẳng sau khi dấu vân tay bị đánh cắp?”

“Rất căng thẳng sau vụ đánh cắp,” Page sôi nổi tường thuật. “Lạ lùng là tất cả, trừ Molly Farnleigh, ai cũng xem việc bằng chứng bị trộm quan trọng hơn việc chủ nhân bị giết, nếu quả thật ông ấy bị giết.”

“Bị giết hay tự sát?” cặp mắt tiến sĩ Fell ánh lên lí thú. “Ý kiến mọi người thiên về hướng nào?”

“Cũng khá bất ngờ: Mọi người đều thận trọng, không tỏ thái độ rõ ràng. Chỉ có một người khẳng định Farnleigh bị giết, đó là Molly, à không, phu nhân Farnleigh. Bà ấy thậm chí gào lên như thế. Còn thì hai bên cáo buộc lẫn nhau đủ điều không hay, tôi chả muốn nhớ làm chi. May là đến nay, tôi cũng quên đi quá nửa rồi. Nhưng nghĩ cho cùng cũng không lạ. Trước đó, ai nấy đều căng thẳng, song cố gắng kiềm chế, xử sự văn minh, đến khi sự cố xảy ra, không kiềm được nữa thì phải bùng nổ. Luật sư chẳng qua cũng chỉ là người. Murray cố gắng cầm chịch mà không ai nghe. Ông cảnh sát khu vực cũng chịu chết.”

“Tôi đang cố gắng giải quyết vấn đề,” tiến sĩ Fell nhăn mặt, nhấn giọng. “Thanh tra viên, theo anh, đây là vụ giết người?”

“Vâng, thưa tiến sĩ.” Elliot quả quyết. “Có ba vết cắt trên cổ, và đến nay chưa tìm ra hung khí, dù ở dưới hồ hay bất cứ đâu gần đấy. Đương nhiên,” anh chuyển giọng thận trọng, “xét nghiệm pháp y hiện chưa có, tôi cũng không dám khẳng định một người không thể tự cắt ba lần. Song việc không thấy hung khí dường như chỉ rõ đây là án mạng.”

Ba người trầm ngâm, lắng nghe mưa rơi. Trong phòng chỉ nghe tiếng thở khò khè, hồ nghi của tiến sĩ Fell.

“E hèm,” tiến sĩ lên tiếng, “tôi chỉ nêu giả thuyết thôi nhé: Có khi nào nạn nhân tự tử, rồi trong cơn quằn quại, quăng con dao ra xa, làm chúng ta không tìm thấy? Tôi nhớ hồi xưa từng có vụ tương tự.”

“Có khả năng ấy, nhưng thấp. Nạn nhân không thể quăng dao quá xa. Vả lại, nếu dao nằm đâu đó trong vườn, trung sĩ Burton hẳn đã tìm được.” Khuôn mặt Elliot lộ vẻ lạ lùng. “Thưa tiến sĩ, ông vẫn cho vụ này là tự tử sao?”

“Không, không,” tiến sĩ như giật mình, vội vàng giải thích, “Nhưng dù chấp nhận giả thuyết án mạng, tôi vẫn muốn xác định cho rõ vấn đề ở đây là gì.”

“Vấn đề là ai giết ngài John Farnleigh.”

“Ừ, song anh chưa thấy hết cái lắt léo, quỷ quái bên trong. Tôi thì tôi lo, vì vụ này nó chả theo quy luật nào cả. Lẽ ra nạn nhân phải là người khác. Giá như ông Murray bị giết thì mọi chuyện đã dễ dàng. Quý vị hiểu cho, tôi chỉ nói trên lí thuyết, chứ không có ý gì. Vâng, theo lẽ thông thường, kẻ bị giết phải là Murray. Ông ấy là người sở hữu bằng chứng quan trọng để xác định nhân thân, thậm chí không cần bằng chứng vẫn có thể xác định được. Muốn xử thì phải xử ông ấy chứ. Ấy thế mà, Murray rốt cuộc chẳng bị ai sờ đến, còn một trong hai nhân vật chính lại chết, khiến ta không biết phải giải thích vấn đề ra sao. Tôi nói anh hiểu không?”

“Tôi hiểu,” Elliot nghiêm nghị.

“Trước tiên hãy xét các khả năng phụ”, tiến sĩ Fell lại tiếp. “Thí dụ, có thể nào hung thủ bị nhầm? Cứ cho người chết là ngài John Farnleigh đi, có thể nào ngài ấy bị giết nhầm? Hung thủ thật ra định hại kẻ khác?”

“Chắc không có đâu,” Elliot nhìn sang Page.

“Không thể nào,” Page nói. “Tôi cũng từng nghĩ khả năng đó, nhưng xin lặp lại: Không thể nào. Lúc bấy giờ còn sáng, Farnleigh ăn vận không giống ai, và trông cũng không giống ai, ngay cả nhìn từ xa cũng không lẫn được, huống hồ muốn cắt cổ phải tới thật gần. Công nhận: Cảnh vật hoàng hôn ướt át, mờ ảo, song vẫn nhận ra ai là ai.”

“Vậy là không nhầm,” tiến sĩ Fell đằng hắng một tiếng dài, nghe như sấm động. “Hãy xét một số khả năng khác, chẳng hạn: Vụ giết người không liên quan đến chuyện thừa kế tước hiệu và điền trang? Hung thủ không quan tâm nạn nhân là John Farnleigh hay Patrick Gore. Hắn chỉ tận dụng thời cơ, lẻn vào hạ thủ, vì một động cơ nào đó, ta chưa rõ? Có thể đấy, ai mà biết. Tuy nhiên, riêng tôi, tôi không nghiêng về thuyết ấy, bởi các chi tiết trong vụ việc rất gắn kết với nhau, chuyện này phụ thuộc vào chuyện kia. Quý vị cũng thấy: Khi Farnleigh bị giết, dấu vân tay cũng mất tăm.

“Do đó, kết luận hiện tại là: Farnleigh bị giết, và động cơ giết người có liên quan đến quyền thừa kế. Nhưng vấn đề thật sự hãy còn hai đầu, thậm chí hai mặt, ta chưa xác định được. Nếu nạn nhân là kẻ gian phi, có thể nêu ra 2 - 3 lí do để giải thích án mạng. Nếu nạn nhân là người thừa kế thật, cũng có 2 - 3 lí do, song hoàn toàn khác. Các lí do trên các vị có thể tự suy diễn. Mỗi lí do bao hàm trong nó những cách nhìn riêng, những động cơ riêng, những khía cạnh riêng. Giữa hai người, ai thật ai giả? Ta cần phải biết, sau đó mới vạch được phương hướng cần đi. E hèm!”

“Ý tiến sĩ là ông Murray vẫn giữ vai trò then chốt?” mặt Elliot càng cứng hơn.

“Đúng vậy. Ông bạn già, bí ẩn của tôi: Kennet Murray.”

“Ông nghĩ Murray biết ai là ai?”

“Không nghi ngờ gì.”

“Tôi cũng thế, để xem nào.” Viên thanh tra mở cuốn sổ tay. “Có nhiều điều các nhân chứng đều đồng ý với nhau. Họ cho biết ông Murray ở một mình trong thư viện từ khoảng 9 giờ 20. Đúng chứ, ông Page?”

“Chính xác.”

“Thống nhất vụ này là án mạng nhé. Án mạng xảy ra khoảng chín rưỡi, theo khẳng định của chính Murray và luật sư Harold Welkyn. Để so sánh vân tay, cần phải cẩn trọng, song cũng chẳng mất quá nhiều thời gian như Murray nói. Tuy mười phút không lâu, thế cũng đủ cho kết quả sơ bộ rồi. Tiến sĩ, ông có nghĩ Murray giở trò ma không?”

“Không,” tiến sĩ Fell nhíu mày nhìn vại bia. “Tôi nghĩ ổng đang cố làm cho giật gân. Từ từ, lát nữa, tôi sẽ trình bày ý tôi về sự vụ. Còn bây giờ, các nhân chứng làm gì trong khoảng 10 phút trên, nghe bảo họ đã khai với anh?”

“Mỗi người viết vài dòng vắn tắt, chẳng giải thích, nêu ý kiến chi,” Elliot bỗng dưng nổi cáu. “Họ bảo: Nêu ý kiến gì cơ? Mai mốt tôi sẽ phải thẩm tra lại, dẫn giải lại. Dân nơi đây kì quá. Vẫn biết, báo cáo của cảnh sát đọc rất rời rạc, vì ta phải đem những dữ kiện nhỏ lẻ, riêng biệt đúc kết lại với nhau, có được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Song le, đây là thảm kịch án mạng xảy ra ngay trước mắt, thế mà họ chỉ kể được như này. Tiến sĩ nghe nhé.”

Thanh tra mở sổ.

“Lời khai của phu nhân Farnleigh: Khi rời thư viện, tôi không vui, nên lên lầu, vô phòng ngủ. Phòng ngủ của tôi và chồng nằm kế nhau, phía trên phòng ăn, tại tầng một của chái mới căn nhà. Sau khi rửa mặt rửa tay, tôi thấy mình hơi lôi thôi, bèn bảo cô hầu trải thêm tấm áo. Tôi lên giường, vặn nhỏ đèn ngủ. Cửa sổ ban công phòng tôi vẫn mở, trông ra vườn. Nghe tiếng kêu, tiếng xô đẩy, đánh nhau, rồi tiếng nước bắn tung, tôi chạy tới ban công, thấy rõ chồng tôi chỉ có một mình, dường như nằm giẫy giụa trong hồ. Tôi vội xuống cầu thang, chạy ra chỗ chồng. Ngoài vườn, không thấy hay nghe điều gì đáng nghi.

“Kế tiếp, lời khai của Kennet Murray: Từ 9 giờ 20 đến 9 giờ 30, tôi ở trong thư viện. Không ai vào, và tôi cũng không thấy ai. Đang quay lưng về cửa sổ, tôi nghe tiếng động (đoạn này kể giống bà Farnleigh). Cứ ngỡ không có gì quan trọng nhưng rồi ai đó chạy xuống. Có tiếng phu nhân Farnleigh gọi quản gia, e rằng có chuyện chẳng lành với ngài John. Tôi nhìn đồng hồ thì thấy đúng chín rưỡi. Tôi ra hành lang, gặp phu nhân Farnleigh. Cả hai ra vườn, bắt gặp thi thể bị cắt cổ. Về các dấu vân tay, cũng như nhận định của tôi về chúng, hiện xin miễn bình luận.

“Tốt ghê, hữu ích ghê nhỉ? Và sau đây là…

“Lời khai của Patrick Gore, nguyên cáo: Tôi đi vòng vòng: Trước tiên ra bãi cỏ trước nhà hút thuốc, sau đó quành lại khu vườn phía nam. Tôi không nghe gì, ngoại trừ tiếng nước văng rất nhẹ. Tiếng này vang lên khi tôi bắt đầu quay về. Tôi không nghĩ có sự cố xảy ra. Vào đến vườn, tôi nhận thấy có người to giọng nói chuyện. Vì không muốn gặp ai, tôi đi theo đường nhánh, dọc theo giậu thủy tùng cao. Tôi để tai lắng nghe, hiểu rõ mọi thứ. Rồi mọi người quay trở vô nhà, trừ ông Page. Đến lúc ấy, tôi mới bước ra hồ.

“Cuối cùng, đến lượt:

“Lời khai của Harold Welkyn: Tôi ngồi trong phòng ăn, không bước chân ra, dùng hết năm miếng sandwich nhỏ, uống li rượu vang đỏ. Phòng ăn có cửa kính trổ ra vườn, một trong các cửa nằm không xa hồ, nhìn thẳng là thấy. Song trong phòng quá sáng, ngoài vườn quá tối, sự tương phản khiến tôi không trông rõ phía ngoài…

“Nhân chứng thế cũng như không! Ngồi ngay tầng trệt, cách chỗ Farnleigh đứng chưa đầy sáu thước, giậu cây bên ngoài chỉ cao tới hông…” Elliot ve vẩy cuốn sổ giữa ngón trỏ và ngón cái, “thế mà như điếc như mù, lại viện cớ ánh sáng tương phản. Lão ấy kết luận như vầy:

“Lúc chiếc đồng hồ cổ kính trong phòng chỉ 9 giờ 31, tôi nghe tiếng chi như ẩu đả, như giọng ai đó kêu nhưng bị bịt mồm, theo sau bằng tiếng nước tung tóe. Có cả tiếng sột soạt trong hàng giậu hay bụi cây. Tôi cảm giác một cái gì nhìn mình qua cửa kính, chỗ khung cửa bên dưới, gần vườn nhất. Tôi nghĩ đã có chuyện xảy ra, song chưa chắc liên quan đến bản thân, nên lại ngồi xuống, ăn thêm miếng sandwich. Sau đó ông Burrows vào, cho tôi hay ngài John Farnleigh giả đã tự tử.”

Fell ngồi thẳng lên, với lấy vại bia làm một ngụm to. Đằng sau cặp kính, cặp mắt tiến sĩ lim dim, thích thú, ý chừng không ngờ bia lại ngon vậy.

“Ôi, tửu thần!” ông trầm giọng. “Lời khai ‘rời rạc’ ư? Anh cho rằng thế à? Nghe ông Welkyn kể sao thấy cái gì ớn lạnh. Hờ hờ, khoan nào. Welkyn! Welkyn! Cái tên ấy đã gặp ở đâu rồi nhỉ? Chắc chắn gặp rồi, tên cứ như đùa, nên tôi nhớ mãi trong… Tâm là gì? Là không vật. Vật là gì? Chớ quan [*]tâm… Ấy chết, anh thứ lỗi, tôi lại nói lông bông. Nào, còn chuyện gì nữa?”

“Còn hai vị khách, ông Page đây, và ông Burrows. Tiến sĩ đã nghe ông Page, và cũng đã biết qua ý chính trong bản khai của ông Burrows.”

“Không sao. Phiền anh đọc lại.”

Elliot chau mày.

“Lời khai của Nathaniel Burrows: Tôi định ăn, nhưng Welkyn đang ở trong buồng. Nói chuyện với ông ta lúc này e không phù hợp. Nghĩ vậy, tôi đi sang phía bên kia căn nhà, ngồi đợi nơi phòng khách. Rồi tôi nghĩ mình nên ở cùng ngài John Farnleigh, người trước đó đã ra khu vườn phía nam. Vì mắt kém, tôi lục trong ngăn kéo bàn hành lang, lấy đèn pin cầm theo. Vừa mở cửa vườn, tôi thấy gia chủ đứng bên mép hồ, dường như đang cử động hay làm gì đấy. Từ cửa đến mép ngoài hồ, khoảng cách chừng hơn 10 thước. Tôi nghe tiếng lục đục, rồi nước bắn lên, và tiếng quẫy đạp. Chạy đến nơi thì gặp ngài ấy đang nằm. Tôi không thể tả chính xác cử động của Farnleigh, cũng không thật rõ liệu có người thứ hai ở cạnh hay chăng. Có vẻ Farnleigh bị thứ gì đó nắm lấy chân.

“Thế đấy, tiến sĩ. Ngoài Burrows, không ai thấy nạn nhân trước khi ổng bị tấn công, rồi té hay bị đẩy xuống hồ. Ông nằm dưới hồ rồi bà vợ mới thấy, sau đó đến lượt các ông Gore, Murray, Welkyn, và Page. Theo lời họ thì như vậy. Tiến sĩ có nhận xét thêm không?”

“Gì hả?” Fell lơ đãng.

“Tôi hỏi nhận định của ông.”

“Nhận định của tôi à? Chúa chứng cho, vườn đẹp dường [*]nào,” tiến sĩ Fell đáp. “Nhưng sau đó thì sao? Sau khi Farnleigh bị giết, Murray chạy ra vườn xem xét tình hình, cuốn Sách Dấu Tay liền biến mất khỏi thư viện. Ông có hỏi các nhân chứng họ đang làm gì lúc ấy, cũng như nghi ngờ ai là kẻ trộm?”

“Có, nhưng tôi không cần kể tiến sĩ nghe. Vì sao? Vì nó chỉ là con số không to tướng. Giữa cơn hỗn độn, đâu ai để ý đến ai. Phân tích cho cùng thì bất cứ ai cũng có thể là kẻ trộm.”

“Ôi trời!” Fell im giây lát rồi than. “Cuối cùng đã gặp.”

“Gặp gì?”

“Gặp điều mà tôi vẫn sợ lâu nay: Một vấn đề nan giải không đầu mối. Trong những bản khai, các lời kể, thời điểm, thậm chí là các khả năng, đều ăn khớp với nhau. Tại sao hung thủ sắp đặt cầu kì để giết Farnleigh mà không phải Murray, đấy là câu hỏi lớn. Nhưng ngoài nó ra, chẳng còn điều gì phi lí. Trên hết, ta không có vật chứng: Không vải rách, không tàn thuốc, không cuống vé, không bút, không mực, không giấy… Hừm. Phải có bằng chứng hữu hình, không thì đành phải chơi trò mò kim, dò dẫm, suy đoán hành vi con người. Đoán xem nào. Ai là người có động cơ giết nạn nhân? Và vì sao? Về mặt tâm lí, ai là người giống nhất với mẫu hung thủ anh đã dựng nên trong vụ Victoria Daly?”

“Xin tiến sĩ cho ý kiến,” Elliot huýt sáo qua kẽ răng.

“Coi nào. Vụ Victoria Daly tôi đã nắm được thông tin thiết yếu. Nạn nhân 35 tuổi, làm nông, dốt nát, không chồng, sống một mình. Ờ… phải rồi… bị giết lúc 11 giờ 45 tối, ngày 31 tháng 7 năm ngoái, đúng chưa?”

“Đúng.”

“Một bác nông dân lái xe ngang nhà Daly, nghe tiếng kêu la, bèn báo động. Cảnh sát khu vực chạy xe đạp tới nơi. Cả hai thấy một người leo ra từ cửa sổ phía sau tầng trệt. Người này là gã lang thang trong vùng đều biết. Bị rượt chừng ¼ dặm, gã lang thang tính cắt đuôi bằng cách nhảy qua thanh chắn, chạy cắt đầu đoàn tàu chở hàng của công ty Hỏa Xa Miền Nam. Kết quả: Bị cán banh thây, chết ngay tắp lự, đúng chưa?”

“Đúng luôn.”

“Cô Daly được tìm thấy trong phòng ngủ nơi tầng trệt, cổ bị thắt bởi dây giày. Khi bị tấn công, cô đang chuẩn bị lên giường, mình mặc áo ngủ và áo khoác bông, chân đi dép. Trên thi thể gã lang thang có tiền và đồ quý của cô, nên vụ việc dường như rõ ràng. Tuy nhiên, khi khám xác, bác sĩ phát hiện người cô dính một chất gì đen đen. Dưới các ngón tay cũng có chất đó. Người bên Phòng Nội chính xét nghiệm, chứng minh đây là hợp chất chiết xuất từ củ cần nước, cây phụ tử, cây ỷ lăng và cà độc dược. Thêm vào còn có bồ hóng.”

Page ngồi thẳng dậy, trí óc bàng hoàng. Chi tiết vụ Daly, anh đã nghe ngàn lần, riêng mấy câu cuối thì chưa.

“Ơ này!” anh kêu. “Giờ tôi mới biết. Người cô ấy dính chất màu đen, trong chất ấy có hai loại độc dược ư?”

“Phải,” Elliot há miệng cười mỉa. “Bác sĩ làng đâu thèm phân tích nó. Nhân viên điều tra án mạng cũng không quan tâm, không buồn đề cập, chắc tưởng nó là hóa chất làm đẹp, không nên nhắc tới làm chi. Tuy nhiên, ông bác sĩ sau đó vô tình tiết lộ tin ra, thế là…”

“Cây phụ tử và cà độc dược!” Page băn khoăn. “Cô Daly đâu có nuốt chúng phải không? Nếu chạm ngoài da làm sao chết được?”

“Ô, không nuốt. Dù sao đi nữa, vụ đó cũng khá rõ ràng, tiến sĩ nhỉ?”

“Rõ ràng một cách tai hại,” Fell đồng tình.

Giữa tiếng mưa rơi, Page nghe ai gõ trước cổng nhà. Vừa cố gắng nhớ lại một điều gì, anh vừa băng qua hành lang ngắn, bước ra mở cửa. Người gọi là trung sĩ Burton, cảnh sát khu vực. Dưới lớp áo mưa, anh ta cầm vật chi quấn trong giấy báo. Điều trung sĩ nói khiến dòng tư tưởng của Page chuyển từ Daly sang Farnleigh:

“Thưa ông, tôi gặp thanh tra Elliot và tiến sĩ Fell được không? Đã kiếm được hung khí, và…”

Burton ra dấu bằng đầu. Bên ngoài khu vườn lấm bùn, đầy vũng nước mưa, một chiếc xe quen thuộc đang đậu. Xe này hiệu Morris đời cổ, bên trong, sau tấm màn, thấp thoáng bóng hai người.

“Cậu vừa nói là…” thanh tra Elliot tức tốc chạy ra cửa.

“Đã tìm được hung khí giết ngài John, thưa thanh tra. Và còn nữa,” Burton lại quay đầu về hướng xe. “Cô Madeline Dane và ông già Knowles, quản gia đằng Farnleigh Close. Knowles ngày xưa từng phục vụ người bạn thân của cha cô Dane. Khi có điều băn khoăn, khó xử, Knowles thường đi tìm cô Dane, và Dane dẫn ổng tới cho tôi. Ổng có điều muốn nói, có thể sẽ giải quyết được cả vấn đề đấy.”

↩︎ Moxon’s Master, truyện ngắn viễn tưởng của nhà văn Mỹ Ambrose Bierce, xuất bản năm 1899.

↩︎ Một câu nói nổi tiếng, được cho là của nhà triết học người Ireland George Berkeley.

↩︎ A garden is a lovesome thing, God wot: câu mở đầu trong bài Vườn tôi (My Garden) của nhà thơ Thomas Edward Brown.