← Quay lại trang sách

Chương 8

Cái gói được đặt lên bàn viết phòng Page, giấy báo được mở ra, để lộ hung khí. Chỉ là bộ dao bỏ túi đời cũ, kiểu các cậu trai hay dùng. Tuy nhiên, trong bầu không khí hiện tại, trông nó nặng nề, đầy sát khí.

Cán dao bằng gỗ. Ngoài lưỡi dao chính đang xòe, còn hai lưỡi khác nhỏ hơn, một đồ mở nắp chai, và một dụng cụ nữa, xưa dùng nạy đá khỏi móng ngựa. Thời Page còn bé, cậu nào sở hữu bộ dao như thế đều tự hào, coi mình gần như trưởng thành, trở nên một nhà phiêu lưu, hay một thổ dân da đỏ. Bộ trên bàn đã cũ lắm, lưỡi lớn dài hơn 10 tấc, mang hai khía sâu hình tam giác. Tuy sứt mẻ vài nơi, dao còn bén ngọt, chưa hề rỉ sét. Bám trên dao, từ mũi đến cán, là những vết máu mới khô. Rõ ràng, đây không phải trò săn da đỏ của trẻ con.

Nhìn hung khí trên bàn, ai nấy đều cảm thấy không yên. Thanh tra Elliot đứng thẳng người lên:

“Cậu tìm thấy nó ở đâu?”

“Tít bên dưới một giậu cây thấp,” Burton nheo mắt ước tính, “cách hồ hoa súng chừng ba thước rưỡi.”

“Giậu cây nằm về phía nào của hồ?”

“Phía trái, nếu đứng quay lưng lại nhà. Nó nằm gần nhà hơn gần hồ, hướng về hàng rào phía nam, tức là cái giậu thủy tùng cao.” Trung sĩ giải thích kĩ lưỡng. “Thanh tra ạ, tôi tìm thấy nó cũng là hên thôi, nếu không thì kiếm cả tháng cũng chưa ra, trừ phi phá sạch hàng giậu. Thiệt tình, thủy tùng nó dày kinh. May mà trời đổ mưa. Lúc đó, tôi đang đứng phân vân chưa biết kiếm tiếp chỗ nào, tình cờ để tay lướt trên giậu cây. Giậu cây ướt, nên khi bỏ tay ra, tôi thấy dính chất gì đỏ đỏ nâu nâu. Con dao cắm vào giậu không để lại dấu vết chi bên trên, chỉ có mấy giọt máu đó. Tôi vội thọc tay xuống, lấy dao lên. Do hàng giậu cản mưa nên vết máu thân dao vẫn nguyên.”

“Cậu nghĩ có người đã đâm nó xuyên qua giậu cây?”

“Vâng, chắc vậy,” Burton ra vẻ suy nghĩ. “Nó cắm thẳng mũi xuống. Nhưng con dao nặng lắm, cả cán lẫn lưỡi đều nặng. Nếu bị quăng lên không trung, nó cũng có thể rơi chúc đầu và cắm xuống như thế.”

Mặt trung sĩ hiện nét lạ, song không ai hiểu là gì. Tiến sĩ Fell nãy giờ mơ màng, nay lúc lắc đầu, môi dưới “ngỗ ngược” trề ra:

“Quăng lên à? Ý anh là dao văng ra sau vụ tự sát ư?”

Burton hơi nhăn trán, không nói gì.

“Đúng là con dao ta đang cần đấy,” Elliot công nhận. “Nhìn ba vết thương trên cổ nạn nhân, tôi thấy khó hiểu, vì đến hai vết có dạng xoắn và răng cưa, giống như bị xé, bị cào. Nay trông hai khía trên dao thì đã rõ. Đúng là dao này gây nên vết ấy, không thì cứ chém tôi đi. Mọi người nghĩ sao?”

“Thế còn cô Dane và ông già Knowles, thưa thanh tra?”

“À, mời họ vào đi. Tốt lắm, làm tốt lắm, trung sĩ. Giờ phiền anh đi gặp bác sĩ khám nghiệm, xem có tin mới chưa.”

Tiến sĩ Fell bỗng quay qua, như muốn bắt đầu tranh luận cùng Elliot. Page mặc họ, cầm lấy cây dù, bước ra đón Madeline Dane.

Giữa trời mưa gió, bùn lầy, Madeline vẫn trang nhã, tề chỉnh. Cô mặc chiếc áo mưa trong suốt bằng vải dầu, có mũ phủ đầu, nom như cả người bọc trong giấy kính. Tóc Madeline vàng, hơi gợn sóng phía trên tai. Khuôn mặt cô khỏe khoắn nhưng hơi xanh, mũi miệng hơi rộng, mắt hơi dài. Tuy vậy, xét tổng thể thì cô đẹp, càng trông càng đẹp. Vẻ ngoài Madeline cho ta cảm giác cô không thích ồn ào, gây chú ý, song luôn biết lắng nghe người khác. Mắt cô xanh đen, đằm thắm vẻ chân thành. Thân hình cô đẹp, mảnh mai, mong manh. Thân hình ấy, Page vẫn thường liếc trộm, rồi sau đó ăn năn, tự mắng bản thân.

Page che dù ra tận xe hơi. Madeline vịn tay anh, nở nụ cười pha chút hoang mang.

“Gặp nhau tại nhà anh thật là hay quá,” giọng cô êm dịu. “Như thế mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn. Có lẽ đây là cách tốt nhất, tôi cũng không biết nữa…”

Nói đoạn, cô ngoảnh lại nhìn. Knowles đang bước khỏi xe. Dù trời đang mưa, ông già mập mạp vẫn cầm chiếc mũ quả dưa nơi tay, núng nính nhón chân, cố tránh mấy vũng bùn.

Page dẫn Madeline vào thư phòng, hãnh diện giới thiệu, như muốn khoe cô với tiến sĩ Fell. Phản ứng của Fell hẳn khiến anh hài lòng. Ông đứng dậy, tươi cười, mắt sáng lên nhìn cô, nồng nhiệt đến độ suýt bung khuy áo khoác. Cũng chính ông là người giúp cô cởi áo mưa.

Thanh tra Elliot cũng trịnh trọng, linh động hẳn. Anh mở lời theo lối nhân viên bán hàng chào khách:

“Thưa cô Dane? Tôi có thể giúp gì cô?”

Hai tay Madeline siết chặt. Cô trông xuống, rồi chau mày duyên dáng nhìn khắp phòng, bắt gặp ánh mắt của Elliot:

“Chuyện này rất khó giải thích, song tôi buộc phải làm. Sau chuyện kinh khủng đêm qua, nếu không lên tiếng thì không thể được. Tuy nhiên, tôi không muốn Knowles gặp rắc rối. Thưa ông Elliot…”

“Cô Dane,” Elliot đáp ngay, “Nếu có chuyện gì, xin cứ cho tôi hay. Không ai gặp rắc rối đâu.”

“Thế thì,” Madeline nhìn thanh tra, ra vẻ cám ơn, “Knowles, bác cứ nói đi. Kể họ nghe những gì bác đã kể cho cháu.”

“Hờ hờ,” tiến sĩ Fell nhắc. “Ngồi xuống đã ông.”

“Cám ơn ông, tôi không…”

“Ngồi đi!”

Giọng Fell tựa sấm rền, tưởng chừng nói xong, sẽ ấn ngay khách xuống. Knowles đành ngồi. Già chân thật quá, đôi khi chân thật đến nguy hiểm. Mỗi khi căng thẳng, mặt già chuyển sang màu hồng trong suốt, trong đến độ gần như nhìn xuyên được qua da. Già chỉ ngồi nép vào mép ghế, tay lật đi lật lại chiếc mũ quả dưa. Tiến sĩ Fell mời điếu xì gà, nhưng già kiếu.

“Thưa ông, tôi nói thẳng được chứ?” già hỏi.

“Rất nên như thế,” Elliot trả lời ráo hoảnh. “Chuyện thế nào?”

“Vâng, lẽ ra tôi phải nói ngay với phu nhân Farnleigh, song không nói được, thật tình không sao nói được. Các ông cũng biết, sau khi đại tá Mardale qua đời, thông qua phu nhân Farnleigh, tôi đến làm việc ở Farnleigh Close. Thề có Chúa, tôi nghĩ về phu nhân nhiều hơn về bất cứ ai khác.” Nói đến đoạn này, Knowles bỗng dâng trào cảm xúc, ngồi nhích lên ghế một chút. Nhưng liền sau, già lại quay về giọng điệu cũ. “Phu nhân xưa là cô Molly ở Sutton Chart, con gái ông bác sĩ. Tôi biết…”

“Vâng, xin cám ơn.” Elliot cắt ngang. “Nhưng ông định cung cấp thông tin gì mới?”

“Tin về ngài John Farnleigh quá cố, thưa ông. Ông chủ tự tử, chính mắt tôi trông thấy.”

Căn phòng chợt lặng yên, chỉ còn tiếng tí tách của cơn mưa đang tạnh. Page nghe tay áo mình sột soạt khi ngó quanh tìm con dao vấy máu, ý chừng không muốn Madeline trông thấy nó. Con dao đã được giấu kín dưới xấp báo trên bàn. Thanh tra Elliot thì chăm chăm nhìn vị quản gia, xương cốt như muốn lòi ra. Từ phía tiến sĩ Fell, có giọng gì nho nhỏ nửa như huýt sáo, nửa như ngân nga. Thỉnh thoảng, tiến sĩ có thói quen vừa mơ màng vừa huýt dưới kẽ răng bài Auprès de ma [*]Blonde.

“Ông chính mắt trông thấy?”

“Đúng thế, thưa ông. Sáng nay ông không hỏi tôi chuyện đó, và, thật tình, tôi cũng chưa biết nên nói hay chăng. Lúc biến cố xảy ra, tôi đứng nơi cửa sổ Phòng Xanh, căn phòng ngay trên thư viện, và chứng kiến toàn bộ.”

(Lời Knowles quả không sai. Khi cùng Burrows đi xem xét thi thể, Page nhớ đã thấy già đứng phía trên thư viện.)

“Ông cứ hỏi mọi người về thị lực của tôi,” Knowles nói hăng say, ngay đến đôi giày già mang cũng cót két sôi nổi. “Tôi bảy tư rồi, nhưng vẫn đọc rõ biển số xe để xa ngoài năm chục thước. Không tin ông thử ra vườn, đem theo cái hộp hay biển báo gì đấy, trên có ghi chữ nhỏ…”

Bỗng nhận ra mình đang quá “nhiệt”, già ngồi trở lại.

“Ông thấy ngài John Farnleigh tự cắt cổ?”

“Vâng, gần như thế.”

“Gần như thế nghĩa là sao?”

“Nghĩa là tôi không thấy ổng rút cái - ông biết đấy - vì ông chủ đứng quay lưng. Nhưng rõ ràng ổng giơ tay lên, và chung quanh không có một ai. Xin nhớ cho: Tôi đứng trên cao, nhìn thẳng xuống ổng và khu vườn, thấy rõ mồn một khoảng đất tròn xung quanh hồ. Giữa hồ và hàng giậu gần nhất là bãi cát rộng tới thước rưỡi, nên nếu ai đến gần ông chủ thì tôi thấy ngay. Ông chủ chỉ có một mình, tôi nhắc lại. Cho đến chết, tôi vẫn nói như thế.”

“Tous les oiseaux du monde”, tiến sĩ Fell vẫn rền rĩ hát thầm, giọng buồn ngủ và lạc điệu, “viennent y faire leurs [*]nids… ”

Giữa chừng, ông dừng lại, nêu câu hỏi: “Nhưng tại sao ngài John Farnleigh phải tự tử?”

“Vì ổng không phải John Farnleigh thật,” Knowles gắng hết sức nói ra. “Người kia mới là thật. Tối qua, vừa nhìn tôi đã biết.”

“Vì sao vừa nhìn đã biết?” Elliot vẫn điềm tĩnh.

“Khó nói ông hiểu được,” Knowles phàn nàn, lần đầu trong đời cảm thấy bất lực, không biết xử trí ra sao. “Tôi năm nay đã bảy tư. Hồi cậu John rời quê năm 1912, tôi biết rõ, tôi có phải gà đâu. Thứ lỗi tôi nói thẳng. Với người già như tôi, lũ trẻ chẳng bao giờ thay đổi; dù 15, 35, hay 45 tuổi, trông họ vẫn vậy mà thôi. Lạy Chúa lòng lành, ông cho rằng tôi gặp cậu John thật mà không nhận ra chắc?”

Nói đến lúc hăng, già giơ ngón tay lên:

“Như thế không có nghĩa là lúc ông chủ quá cố xuất hiện, tự xưng John Farnleigh, tôi đã biết ổng mạo danh. Tôi không nhận ra ổng, nhưng lại nghĩ: Cậu ta khác quá, chắc vì đã ở Mỹ nhiều năm, thay đổi cũng là lẽ thường tình, vả lại mình đã già rồi. Do đó, tôi không nghi ngờ gì, dẫu thỉnh thoảng, ông ấy nói những điều…”

“Nhưng…”

“Tôi biết ông muốn nói gì,” giọng Knowles thành thực, sôi nổi. “Ngày xưa, quả tôi không ở Farnleigh Close. Tôi mới làm đây mười năm, nhờ được cô Molly tiến cử với ngài Dudley. Song hồi tôi phục vụ đại tá Mardale, cậu John rất hay ra chơi khu vườn cây nằm ở khoảng giữa nhà đại tá và thiếu tá…”

“Thiếu tá?”

“Thiếu tá Dane, cha cô Madeline, bạn thân ngài đại tá. Khu vườn tôi kể nó dẫn thẳng vào cánh rừng Rèm Treo. Cậu John thích cả vườn lẫn rừng, cứ vào đấy đóng vai phù thủy hay hiệp sĩ thời Trung cổ. Cậu ta còn làm vài điều khác nữa mà tôi không thích chút nào. Dẫu sao, tối qua tôi nhìn là nhận ra liền, biết ngay ông này mới là ngài John thật, không cần đợi đến lúc ổng hỏi chuyện con thỏ và những chuyện khác. Ông cũng biết tôi nhận được mình, nên mới kêu tôi vào. Nhưng lúc ấy sao tôi dám nói?”

Page nhớ rõ những câu hỏi ấy. Anh nhớ đặc biệt một điều, không biết có ai kể với Elliot hay chưa. Nghĩ đến điều này, anh liếc sang Madeline Dane.

“Vậy là Farnleigh tự sát?” Elliot giở sổ.

“Đúng thế, thưa ông.”

“Ông có thấy vũ khí dùng tự sát không?”

“Không, rất tiếc, tôi không thấy rõ.”

“Phiền ông kể rõ chính xác từng chi tiết. Ví dụ: Ông bảo mình ở Phòng Xanh khi sự việc xảy ra. Vì sao và khi nào ông vào đó?”

“Chà,” Knowles cố nhớ, “hình như hai hay ba phút trước…”

“9 giờ 27 hay 9 giờ 28?” Tỉ mỉ như thường lệ, Elliot hỏi gặng.

“Thì một trong hai, làm sao tôi biết? Tôi đâu để ý thời gian, thưa ông. Trước đó tôi đứng nơi hành lang, gần buồng ăn, phòng khi có ai cần gì. Mọi người đi hết cả, trong buồng ăn chỉ còn ông Welkyn. Bỗng ông Nathaniel Burrows từ phòng khách đi ra, hỏi mượn đèn pin. Tôi nhớ có một cây trên Phòng Xanh, ông chủ hay dùng nó để nghiên cứu gì đấy, nên đi lên định lấy. Về sau…” già đổi giọng, như thể bắt đầu cung cấp bằng chứng quan trọng, “tôi mới hay ông Burrows tìm được đèn trong ngăn kéo cái bàn ở hành lang. Tôi không biết nó nằm chỗ ấy…”

“Cứ nói.”

“Tôi lên lầu, vào Phòng Xanh.”

“Ông có bật đèn lên không?”

“Không, chưa bật ngay,” Knowles hơi bối rối. “Đâu có công tắc trên tường, phải giật dây từ trên trần nhà. Cái bàn mà tôi nhớ để đèn pin, nó nằm ở giữa hai cửa sổ. Trong lúc tiến tới bàn, tôi ngó ra ngoài.”

“Ngó qua cửa sổ nào?”

“Cửa bên phải, hướng ra vườn.”

“Cửa đang mở à?”

“Vâng, thưa ông. Chắc ông cũng nhớ, sau thư viện trồng nhiều cây, nhưng chúng đều được tỉa cắt cẩn thận để bên trong trông ra không bị vướng tầm nhìn. Trần nhà cao đến hơn năm thước. Ở đâu cũng thế, trừ khu mới xây thấp như nhà búp bê. Ở độ cao đấy, không cây nào chắn ngang cửa sổ. Chính vì căn phòng nhìn xuống các ngọn cây, nên gọi là Phòng Xanh. Tóm lại, khu vườn bên dưới, vị trí của tôi là tít trên cao.”

Knowles chợt nhổm dậy, nghểnh cổ ra trước. Ít khi đứng tư thế này, già cảm thấy đau nhức, song vẫn nghiêm trang, huơ tay tiếp tục câu chuyện:

“Tôi đứng đó, bên dưới là những tán lá xanh, và ánh đèn tỏa từ thư viện. Khu vườn ngay trước mặt, với những giậu cây, lối đi, và cái hồ ở giữa. Khung cảnh không đến nỗi quá tối. Tối hơn nữa, người ta vẫn chơi quần vợt được cơ mà. Ngài John, đúng hơn là kẻ tự xưng danh ấy, đang ở cạnh hồ, đút tay trong túi.”

Dứt lời, mệt quá, già thôi diễn tả, ngồi xuống lấy hơi, chỉ nói thêm hai chữ “hết rồi!”

“Hết rồi?” Elliot hỏi lại.

“Vâng, hết.”

Bất ngờ trước cái kết đột ngột, thanh tra ngó Knowles trân trân:

“Nhưng chuyện gì xảy ra mới được chứ? Tôi chờ nghe nãy giờ!”

“Có thế thôi. Nghe tiếng động nơi hàng cây bên dưới, tôi cúi xuống, đến lúc trông lên thì…”

“Ông muốn bảo là,” Elliot bình tĩnh hỏi chậm, “ông cũng chẳng thấy chuyện gì xảy ra?”

“Thấy chứ. Thấy ổng nhào xuống hồ.”

“Nhưng còn chi nữa?”

“Ông hiểu ý tôi mà, trong tích tắc, làm gì có ai đủ thời gian nhảy vào cắt cổ ba lần rồi chạy thoát. Không có khả năng đó. Trước và sau khi tôi cúi xuống, ổng vẫn chỉ một mình. Chắc chăn ổng tự tử.”

“Tự tử bằng gì?”

“Chắc bằng dao.”

“Ông thấy dao chứ?”

“Không, không rõ.”

“Có thấy ổng cầm dao nơi tay không?”

“Không rõ. Xa quá, sao thấy được kĩ vậy, thưa ông,” Knowles đĩnh đạc đứng lên. “Xin sẵn sàng tuyên thệ: Tôi đang kể với ông đúng thực những gì mắt thấy tai nghe.”

“Sau đó ổng làm gì với con dao? Đánh rơi nó xuống hay thế nào?”

“Tôi không biết. Thật sự không biết. Tôi chú ý nhìn. Đằng trước ổng hình như có chuyện gì xảy ra.”

“Có khi nào ông ấy tự quăng dao đi?”

“Có thể. Tôi không biết.”

“Nhưng nếu quăng đi thì ông phải thấy chứ?”

“Còn tùy thuộc con dao to hay nhỏ.” Knowles suy nghĩ một lúc. “Mà trong vườn còn có nhiều dơi nữa. Đôi khi, một trái banh quần vợt cũng không thấy được, cho đến khi…” Gương mặt già trở nên u ám, tưởng chừng muốn khóc, song già kịp thời trấn tĩnh. “Xin lỗi ông, nếu ông không tin, xin cho phép tôi về.”

“Ồ khoan nào, có phải vậy đâu!” Elliot bối rối như con trẻ, đôi tai hơi đỏ lên. Madeline Dane từ đầu vẫn im lặng, nay cười nhẹ nhìn thanh tra.

“Bây giờ tôi hỏi thêm một điểm nữa thôi,” thanh tra gượng tiếp tục. “Ông có tầm nhìn bao quát cả khu vườn, vậy có thấy ai khác vào thời điểm đó?”

“Đúng thời điểm đó ư? Không thấy. Nhưng liền ngay sau, lúc tôi bật đèn Phòng Xanh, một số người xuất hiện trong vườn. À… xin lỗi ông… có… có chứ. Có người đúng lúc ấy. Tôi đã thấy. Ông nhớ lúc nãy tôi kể về tiếng động dưới hàng cây, chỗ gần cửa sổ thư viện?”

“Tôi nhớ.”

“Nghe động, tôi ngó xuống, vì vậy mới không thấy chuyện gì xảy ra với ông chủ. Bên dưới, một người đang đứng, nhìn vào cửa sổ. Trông rõ ràng lắm, vì giữa cửa sổ và hàng cây có khoảng cách, ánh đèn bên trong chiếu ra rất sáng. Tôi nhắc lại: Người đó đang đứng, nhìn vô thư viện.”

“Ai cơ?”

“Người mới xuất hiện ấy, cậu John thật mà tôi biết ngày xưa, người tự xưng danh Patrick Gore.”

Mọi người lại lặng im. Elliot cẩn thận đặt bút chì xuống, liếc qua tiến sĩ Fell. Fell vẫn ngồi yên như đang ngủ, một mắt lim dim nửa khép nửa mở.

“Không biết tôi nghe đúng chăng?” thanh tra hỏi lại. “Vào lúc xảy ra vụ tấn công, hoặc tự tử, hoặc giết người gì đấy, ông đã thấy Patrick Gore đứng bên cửa sổ thư viện?”

“Đúng vậy. Ông ấy đứng nghiêng bên trái, xoay mặt về nam, nhờ đó tôi thấy rõ mặt.”

“Ông dám thề mình nói đúng sự thật?”

“Dĩ nhiên, thưa ông,” Knowles mở to mắt.

“Đấy cũng là lúc vang lên những tiếng động lạ, nước văng tung, rồi nạn nhân ngã xuống hồ?”

“Vâng, thưa ông.”

Elliot gật đầu, không lộ cảm xúc, tay lại giở sổ: “Tôi sẽ đọc ông nghe một phần trong lời khai của ông Gore, kể lại sự tình vào thời điểm đó. Nghe nhé:

‘Tôi đi vòng vòng: Trước tiên ra bãi cỏ trước nhà hút thuốc, sau đó quành lại khu vườn phía nam. Tôi không nghe gì, ngoại trừ tiếng nước văng rất nhẹ. Tiếng này vang lên khi tôi bắt đầu quay về.’

“Tiếp theo, Gore cho biết mình đi theo đường nhánh, dọc bờ rào phía nam. Nhưng ông lại bảo rằng lúc nước văng lên, Gore đứng bên dưới ông, nhìn vào thư viện. Rõ là mâu thuẫn.”

“Ông ấy nói gì là việc của ông ấy, thưa thanh tra,” Knowles trả lời xuôi xị. “Mâu thuẫn thì mâu thuẫn chứ tôi làm sao được. Tôi chỉ biết tôi thấy như vậy.”

“Thế sau khi ngài John ngã xuống hồ, ông Gore làm gì?”

“Tôi chịu. Tôi chỉ tập trung nhìn hồ nước.”

Elliot do dự, lầm bầm chi đó, trước khi đưa mắt nhìn tiến sĩ Fell. “Tiến sĩ có muốn hỏi thêm điều chi?”

“Có.”

Fell giờ mới cử động, tươi cười ngó cô Dane. Madeline cũng cười đáp lễ. Đoạn, tiến sĩ quay sang Knowles, bắt đầu lí sự:

“Ông bạn, nghe xong câu chuyện của ông, tôi vẫn còn nhiều nghi vấn. Liệu Patrick Gore có phải người thừa kế thật? Ai đã đánh cắp Sách Dấu Tay, và vì mục đích gì? Nhưng trước tiên, hãy giải quyết vấn đề nan giải: tự sát hay giết người. Ngài John Farnleigh, tức nạn nhân, ông ấy thuận tay phải, đúng không?”

“Tay phải? À, đúng.”

“Vậy nếu tự tử, hẳn ông ấy phải cầm dao tay phải?”

“Vâng.”

“Được. Lúc nãy ông bảo có thấy nạn nhân giơ tay lên. Tôi muốn ông kể kĩ chuyện đó. Không cần quan tâm con dao nữa, vì đằng nào ông cũng không thấy nó. Cứ cho tôi hay nạn nhân giơ tay làm gì, như thế nào.”

“Thưa tiến sĩ, nạn nhân đưa hai tay lên cổ như thế này,” Knowles diễn tả. “Ổng động đậy một tí, tay nhích lên đầu, rồi sau duỗi ra.” Già dang rộng hai tay minh họa. “Chuyện này xảy ra ngay trước khi ổng té xuống, quẫy đạp dưới hồ.”

“Nạn nhân không khoanh tay, mà chỉ đưa lên, sau đó dang hai bên? Đúng chứ?”

“Đúng rồi.”

Fell vớ cây can bên cạnh, chống can đứng dậy. Ông chầm chậm bước ra bàn, mở gói giấy báo, đưa Knowles xem con dao vấy máu.

“Vấn đề nằm ở đây,” tiến sĩ lập luận. “Nếu Farnleigh tự sát, ổng hẳn dùng tay phải. Dù tay trái có hỗ trợ, tay nắm dao vẫn là tay phải. Theo lời kể, ổng không làm động tác gì, chỉ dang rộng hai cánh tay sang bên. Khi tay phải dang ra, con dao văng đi. Có thể lắm. Nhưng ai giải thích giùm tôi với. Tại sao lúc trên không trung, con dao lại tự đổi hướng, bay cao qua hồ, cắm vào hàng dậu bên trái, cách đấy ba thước? Thêm nữa, liệu điều này có khả thi hay không, sau khi nạn nhân vừa tự cắt không chỉ một, mà đến ba vết chí mạng trên cổ? Rõ là phi lí rồi.”

Fell cau mày suy nghĩ. Gói báo chứa tang vật ghê rợn, tiến sĩ cầm trên tay, vô tình gí sát ngay má Madeline.

“Tuy nhiên, chúng ta không thể nghi ngờ thị lực của người này.” Ông nhìn viên quản gia. “Ông ấy khẳng định Farnleigh đứng một mình bên hồ, và điều ấy quả có cơ sở. Nathaniel Burrows có vẻ cũng đồng ý Farnleigh đứng một mình. Ngay sau tiếng nước văng, phu nhân Farnleigh chạy ra ban công, không thấy ai tại hồ hay ở gần. Vụ này, nếu bảo là tự tử thì hơi phi lí, song éo le thay, bảo giết người thì càng bất khả thi. Quý vị chọn lối nào, ai có ý kiến chăng?”

↩︎ Bên em tóc hoe vàng, một bản nhạc Pháp.

↩︎ Chim trên đời hội tụ, đến làm tổ nơi đây.