← Quay lại trang sách

Chương 12

Giữa thư viện tĩnh lặng, Page nghe rất rõ tiếng chân đang đi tới của Molly Farnleigh và Nathaniel Burrows:

“Nghĩa là sao?” Murray hắng giọng. “Nghe nói cô Daly bị gã lang thang giết kia mà?”

“Rất có thể.”

“Thế thì…”

“Tôi cho ông hay,” Molly Farnleigh đột ngột lên tiếng khi vào đến nơi, “tôi sẽ lật mặt trò nực cười này, và sẽ đấu với ông tới cùng.” Sức sống mãnh liệt của nàng dồn vào cặp mắt lạnh lẽo, căm ghét dành cho Gore. “Nat Burrows bảo vụ kiện có thể kéo dài hàng năm, và ai cũng thiệt hại, nhưng tôi không sợ. Có điều, bây giờ nên tạm hòa giải, để ưu tiên tìm ra ai đã giết John. Hồi nãy tôi nghe các ông đang bàn chuyện gì đấy?”

Cả nhóm thở phào, riêng một người vẫn giữ thế thủ.

“Bà nghĩ mình có cơ may thắng sao, phu nhân Farnleigh?” Welkyn giở giọng luật sư. “Tôi buộc phải cảnh báo bà…”

“Cơ may tốt hơn ông tưởng nhiều,” Molly trả miếng, đồng thời ném cái nhìn lạ về phía Madeline. “Tôi hỏi lại, các ông đang bàn chuyện gì?”

Fell đang hăng. Tiến sĩ lên tiếng giải thích, giọng như lệnh vỡ:

“Đang phân tích một khía cạnh quan trọng, thưa bà. Rất mong được bà giúp đỡ. Xin bà cho hay: Trên gác xép căn nhà, có còn căn phòng nhỏ chứa sách ma thuật và các thứ khác tương tự?”

“Vẫn còn. Vì sao ông lại hỏi?”

“Bà hãy xem cuốn sách ở đây. Liệu nó có thuộc về bộ sưu tập trên gác không?”

Molly bước đến bên bàn, ra dấu tỏ vẻ phiền hà khi mọi người cùng đứng lên chào.

“Tôi nghĩ vậy. Chắc vậy đấy. Sách trên gác đều có nhãn này, các sách khác thì không. Một kiểu đánh dấu ấy mà. Ông lấy nó đâu ra?”

Tiến sĩ Fell thuật chuyện.

“Không thể nào!”

“Chuyện gì, thưa bà?”

“Vì đống sách trong kho, chồng tôi đã gây nên đủ điều nhặng xị. Tôi chẳng hiểu nữa. Các ông cũng biết, tôi và ảnh mới lấy nhau hơn một năm.” Molly ngồi xuống chiếc ghế Burrows vừa xếp, cặp mắt nâu đăm chiêu nhớ về quá khứ. “Hồi mới cưới, ảnh giao tôi hết mọi chìa khóa, trừ chìa gác xép. Những chìa tôi có, tôi giao cả cho bà Apps nữ quản, song cái không có lại khiến tôi tò mò.”

“Kiểu như truyện Con yêu Râu Xanh chứ gì?” Gore gợi ý.

“Làm ơn đừng gây chuyện,” tiến sĩ Fell bực bội gạt đi.

“Tôi cũng từng nghe nói về kho sách đó rồi,” Molly nói tiếp. “Chồng tôi muốn đốt sạch chúng. Trước khi chồng tôi tiếp quản nhà, người ta tiến hành định giá tài sản. Có người từ London xuống thẩm định kho sách. Thằng lừa ngu ngốc, hắn muốn nhảy lên vì sướng, bảo rằng bộ sách đáng giá hàng ngàn, hàng ngàn bảng. Theo hắn, tất cả đều là hàng hiếm, trong đó có một quyển độc bản. Tôi vẫn còn nhớ, đấy là một bản viết tay, được gọi là Sách Đỏ Appin, ai cũng ngỡ đã thất truyền từ đầu thế kỉ 19. Mọi người không biết nó đâu, song nó sờ sờ trong gác xép nhà tôi. Đồn rằng sách chứa toàn những ma thuật, bùa chú dữ dằn, ai muốn đọc nó phải chụp vòng sắt lên đầu. Hôm qua, quý vị đã tranh luận về nó. Tên này,” nàng nhìn Gore, “thậm chí không biết nó là gì.”

“Tiến sĩ Fell đã nhắc: Đừng gây chuyện,” Gore nhẹ nhàng đáp, rồi quay nhìn Murray. “Thầy chơi chiêu hay lắm. Đó là cuốn kì thư. Em biết rõ về nó, và sẽ chỉ ra ngay nếu nó còn trên gác, dù cái tên Sách Đỏ Appin thì trước giờ chưa nghe. Tương truyền: ai sở hữu sách thì không cần người đối diện mở lời, đã biết trước người ấy muốn hỏi gì. Và đấy chỉ là một trong nhiều công dụng của sách mà thôi.”

“Chắc là sách rất hữu dụng cho ông tối qua!” Molly ngọt nhạt.

“Vâng, để chứng minh rằng tôi đã đọc nó. Người ta còn nói nó có quyền năng truyền sức sống cho vật vô tri. Lẽ ra phu nhân Farnleigh cũng phải đọc rồi mới phải.”

Tiến sĩ Fell nện chiếc can bịt sắt xuống sàn, ra hiệu tập trung. Khi cuộc tranh cãi đã tan, ông hiền từ nhìn Molly.

“Hê hê, thưa bà, dường như bà không tin đặc tính ma thuật của Sách Đỏ Appin, cũng như của các thứ khác?”

“Ôi, mấy cái thứ chó!” Molly nói từ tục khiến Madeline đỏ mặt.

“Hừm, dạ, đúng vậy. Bà muốn kể thêm gì nữa?”

“Chồng tôi có vẻ ngại, bực bội vì đống sách, muốn đem đốt hết. Tôi nói đừng ngu, không giữ thì đem bán, có hại gì mà sợ? Ảnh bảo toàn sách khiêu dâm, đồi bại.” Molly ngần ngừ một lát, đoạn thẳng thắn tiếp. “Nghe vậy tôi hơi khoái. Khi được ảnh đưa lên gác, tôi coi qua một hai cuốn. Có thấy khiêu dâm, đồi bại gì đâu, nhưng đọc chán phèo, dở không chịu được. Toàn lải nhải dông dài về các thứ như “đường số mạng đôi”; ngôn ngữ thì buồn cười, đầy ‘f s’ với ‘s’s’, cứ như người viết bị ngọng. Chả thích gì sất. Thế nên khi chồng tôi khóa gác lại như cũ, tôi cũng chẳng buồn quan tâm. Dạo ấy đến nay, gác vẫn khóa.”

“Cuốn này,” tiến sĩ Fell gõ lên sách, “từ đó mà ra?”

“Không sai.”

“Chồng bà luôn khóa phòng, thì sao nó lại lọt ra ngoài, vào tay cô Daly? Hừm.” Đang hút mấy hơi ngắn, Fell bỏ tẩu khỏi mồm, hít vô thật sâu. “Vậy là giữa cái chết của cô Daly và của chồng bà có quan hệ đấy.”

“Quan hệ thế nào?”

“Thí dụ, ông ấy cho cô Daly mượn sách?”

“Nhưng tôi đã bảo: Chồng tôi ghét loại sách ấy lắm.”

“Sao lại thế?” tiến sĩ giải thích. “Nếu chồng bà là John Farnleigh như bà nói, sao ổng lại ghét? Chúng ta đều đã nghe khi còn nhỏ, Farnleigh rất mê đống sách trong kho.”

“Ông gài tôi vào thế bí à?” Molly không nao núng. “Nói ảnh ghét thì ông bảo ảnh giả mạo, vì con người không thể thay đổi nhiều như thế. Nếu tôi thừa nhận ảnh đưa sách cho Victoria thì ông sẽ bảo gì đây?”

“Chúng tôi chỉ cần một câu trả lời chân thật, thưa bà. Bà cứ nói những gì bà nghĩ là thật. Ai nói thật mà chẳng được trời thương? Bà có biết Victoria Daly rõ không?”

“Khá rõ. Victoria tội nghiệp, luôn thích làm việc phúc thiện.”

“Lẽ ra bà phải nói,” tiến sĩ Fell làm dấu gì đó với chiếc tẩu, “là thích trò phù thủy chớ?”

Molly siết chặt tay.

“Trò phù thủy thì liên hệ như thế nào, ông làm ơn nói coi? Sách này từ gác xép mà ra, cứ cho nó là sách ma thuật đi, nhưng việc Victoria đọc nó chứng minh được điều gì?”

“Bà cứ tin tôi, còn những bằng chứng khác,” Fell nói nhẹ nhàng. “Lấy lẽ thông thường mà suy, điều quan trọng ở đây là liên quan giữa cô Daly với cuốn sách và cái gác xép bị khóa. Chồng bà có quen cô ấy?”

“Ờ… tôi không biết… chắc là chẳng quen gì mấy.”

“Tôi chỉ nghe kể thôi,” tiến sĩ nhăn trán, “bà hãy nhớ lại hành động của chồng mình tối qua, xác nhận xem có đúng chăng. Quyền sở hữu điền trang này, dù hợp pháp hay không, đối với chồng bà hiển nhiên cực kì quan trọng. Nay bỗng dưng một kẻ lạ xuất hiện, tấn công thành trì, đòi giành tài sản. Gore và Welkyn kể những câu chuyện thuyết phục, đòi thử vân tay, thứ bằng chứng không kể chối cãi. Giữa cảnh bị tấn công, bốn bề thọ địch, ông ấy căng thẳng, đi qua đi lại trong phòng là phải. Song điều kì lạ là ổng lại tỏ ra quan tâm hơn đến chuyện thám tử về làng điều tra vụ Victoria Daly. Phải vậy chứ?”

Thật vậy, Page nhớ rõ ràng. Molly cũng buộc phải thừa nhận.

“Tốt, chúng ta cùng thấy như nhau. Như vậy, đã có đầu mối, hãy cứ lần theo xem nó dẫn đến đâu. Càng ngày tôi càng quan tâm đến cái gác xép. Trên ấy còn gì khác ngoài sách?”

“Chỉ còn con người máy,” Molly nhớ lại. “Khi bé, tôi thấy nó một lần. Nó cũng hay hay. Tôi thích các thứ biết cử động, nên hỏi chồng sao không lấy nó xuống, tìm cách sửa cho chạy. Nhưng rốt cuộc nó vẫn ở trển.”

“A, con người máy,” Fell thở mạnh, tỉnh táo hẳn lên. “Bà còn biết gì về nó?”

Thấy Molly lắc đầu, Kennet Murray nhảy vào.

“Tiến sĩ nên điều tra vấn đề ấy,” thầy ngồi hứng chí. “Tôi và cậu John thì đã điều tra từ xưa.”

“Kết quả?”

“Đây là những dữ kiện tôi tìm ra.” Murray nhấn mạnh. “Ngài Dudley chẳng bao giờ cho tôi xem nó; tôi toàn phải tự tìm hiểu. Người máy được chế tạo bởi ông Raisin, nhạc công ở Troyes. Ông này từng chế chiếc đàn tự động cho vua Louis XIV, chiếc đàn mà trong khoảng 1676–1677 đã triển lãm trong triều vua Charles II, gây tiếng vang lớn. Với kích cỡ gần bằng người thật, người máy ngồi trên một loại giường nhỏ. Nghe đồn nó được tạc theo mẫu một bà nhân tình của vua, chưa rõ bà nào. Người đương thời thích lắm, vì nó biết chơi vài điệu trên cây đàn zither, và biết giơ tay lên mũi giễu khán giả. Nó còn thực hiện những động tác khác, vài trong số đó hơi bị khiếm nhã.”

Mọi người trong phòng đều lắng nghe chăm chú.

“Người máy do ngài Thomas Farnleigh mua về. Tên ngài ấy ở trên nhãn sách đây. Chẳng biết vì làm trò tục hay lí do chi khác, nó dần bị bỏ bê. Tôi chưa tìm hiểu được, song điều gì đó dường như đã xảy ra. Đến thế kỉ 18, người ta sợ nó lắm. Từ thời ông nội ngài Dudley trở về sau, nhà Farnleigh không chuộng những thứ ấy nữa. Dường như ngài Thomas nắm bí quyết làm người máy hoạt động, song không truyền lại cho cháu con. Phải không cậu… à xin lỗi… ngài John?”

Gore như bị xúc phạm bởi giọng điệu lịch sự giả tạo, song không rảnh để tâm.

“Quả là không truyền lại,” y xác nhận. “Và sẽ không ai biết nữa. Hồi trẻ, tôi nát óc cố tìm bí mật của Phù Thủy Vàng. Những nguyên lí thông thường không áp dụng được với nó, tôi có thể dễ dàng chứng minh cho quý vị. Ơ mà,” y dường nảy người. “Tôi vừa nghĩ ra: Sao chúng ta không cùng lên xem nó? Tôi bị khùng rồi, lúc nãy tự dưng cứ nghĩ đủ cách, đủ thủ đoạn để lẻn vào như hồi xưa. Tại sao không nhỉ? Cùng vào giữa thanh thiên bạch nhật đi nào!”

Y dọng mạnh tay lên thành ghế, mắt hấp háy như từ trong tối mới ra ánh sáng.

“Từ từ,” thanh tra Elliot phản đối. “Chuyện này thú vị thật, nhưng không có liên quan. Để hôm khác hãy đi…”

“Anh chắc chứ?” tiến sĩ Fell hỏi.

“Thưa tiến sĩ?”

“Anh chắc chứ?” Fell cao giọng lặp lại. “Thôi nào. Tôi muốn biết nó trông ra sao.”

“Hai mươi lăm năm trước, nó đã tàn tạ lắm rồi, huống hồ…”

“Đúng vậy,” Madeline Dane rùng mình. “Đừng đi lên đó. Đừng mà!”

“Sao không?” Molly kêu lên.

“Chị không biết. Chị sợ lắm.”

“Anh nhớ mang máng nó từng tác động mạnh đến em,” Gore thông cảm nhìn Madeline. “Còn tiến sĩ, tôi xin trả lời nếu ông muốn biết nó ra sao. Khi còn mới, nó hẳn trông y như người thật. Bộ khung của nó dĩ nhiên bằng sắt, phần ‘da thịt’ thì bằng sáp, với tóc thật và mắt thủy tinh; một bên mắt đã mất rồi. Giờ tàn tạ, nó xấu và hơi beo béo, nhìn vào có thể tưởng tượng đủ điều. Nó mặc, hay đã từng mặc, chiếc áo dài thêu kim tuyến; tay và ngón tay làm từ sắt sơn màu. Được chế tác để chơi đàn và ra hiệu, nên ngón tay nó dài, có khớp, và sắc lắm, gần giống như là… Nó biết cười, nhưng khi tôi thấy nó lần cuối, nụ cười không còn nữa.”

“Betty Harbottle,” tiến sĩ Fell chợt kêu, “cũng giống bà [*]Eva, cô ta thích ăn táo.”

“Ông nói gì cơ?”

“Betty Harbottle, cô hầu hoảng sợ ấy,” tiến sĩ hùng hồn, “Betty thích ăn táo, các gia nhân đều kể như vậy. Tôi đã nghi bà Apps nữ quản muốn bóng gió gì đó. Quỷ thần ơi, thật quả không sai. Chính ông,” ông nháy mắt với Gore, khuôn mặt đỏ au đầy vẻ tập trung, “ông vừa kể với tôi: Mỗi khi muốn lên gác xép đầy những sách và con Phù Thủy Vàng, ông lại viện cớ đi lấy táo ở căn phòng bên cạnh. Thế, quý vị thử đoán coi, Betty đang ở đâu khi bị hù, và đêm qua, Sách Dấu Tay đã được giấu ở đâu?”

Harold Welkyn đứng lên, đi vòng quanh bàn. Những người khác vẫn ngồi yên, trong bầu không khí u ám của thư viện. Page nhìn quanh, nhận thấy biểu cảm lạ trên mặt một người.

“À à, rõ là thú vị,” Murray vân vê bộ râu. “Nếu tôi không nhầm, cầu thang dẫn lên gác xép nằm ngay cuối hành lang bên cạnh Phòng Xanh. Theo tiến sĩ thì cô hầu đã được bê xuống đặt vô Phòng Xanh?”

Tiến sĩ Fell lắc đầu. “Suy được đến đâu thì theo đến đó thôi. Mọi đầu mối đều dẫn về gác xép. Gác xép là trung tâm mê cung, là tâm điểm của mọi biến động, giống như cái tô chất lỏng be bé trong Căn nhà và [*]não bộ (nhan đề truyện đặt như thế là hay lắm đấy). Đã đến lúc chúng ta lên gác.”

“Tôi cũng nghĩ vậy, nên lên bây giờ.” Elliot chầm chậm nói. “Phu nhân Farnleigh, bà có phiền không?”

“Ô, có gì đâu, song tôi chẳng có chìa khóa. Mà không sao, cứ phá cửa. Chồng tôi mới thay khóa mới, nhưng nếu cần cứ phá, cứ phá đi…” Molly nắm chặt tay, đưa lên ngang mắt, lấy lại tự chủ. “Tôi sẽ dẫn đường.”

“Cám ơn,” Elliot vui vẻ. “Ai trong quý vị đã từng lên gác? Chỉ cô Dane và ông Gore? Hai vị và ông Page hãy cùng đi với tôi và tiến sĩ Fell. Những người khác cảm phiền ở lại đây.”

Thanh tra và tiến sĩ đi trước, thì thầm trò chuyện. Molly và nguyên cáo đứng sau, nhưng nàng ngó lơ y, chen chân lên hàng đầu. Cuối cùng là Page và Madeline.

“Nếu cô không muốn đi…” Page nói.

“Không, tôi muốn lên mà,” Madeline siết tay anh. “Thật đấy, tôi muốn lên, để hiểu chuyện gì đang xảy ra. Vừa rồi tôi nói chuyện với Molly, khiến nó giận lắm, song không nói không được, có cách nào khác đâu. Brian, anh không cho tôi là đứa thóc mách chứ?”

Page giật mình. Tuy Madeline cười nửa miệng như đùa, cặp mắt cô lại rất nghiêm trang.

“Trời đất! Cô nghĩ gì kì vậy?”

“Không gì. Nhưng thiệt tình, nó chẳng yêu ổng đâu. Nó chỉ làm việc nó thấy nên làm thôi. Ngoài mặt thì thế, chứ nó với chồng không hợp. Ổng lí tưởng, nó thực dụng. Tôi biết, ổng chỉ giả danh; có điều, còn nhiều chuyện anh chưa hay…”

“Thế thì cho tôi cái thực dụng đi,” Page gắt.

“Brian!”

“Thật! Lí tưởng nỗi gì! Nếu những lời cáo buộc là đúng, như chính cô cũng đã thừa nhận, thì người bạn quá cố của chúng ta chỉ là một thằng lợn 100%. Bộ cô cũng yêu ổng chắc?”

“Brian! Anh không có quyền nói vậy!”

“Tôi biết, nhưng cô có yêu không?”

“Tôi không có,” Madeline lặng lẽ ngó xuống sàn. “Nếu anh biết nhìn, hoặc hiểu sự việc rõ hơn, anh sẽ không hỏi như vậy.” Cô phân vân, đoạn lảng sang chủ đề khác. “Tiến sĩ Fell và ông thanh tra nghĩ sao về vụ này?”

Vừa mở miệng định trả lời, Page nhớ ra mình chẳng biết gì.

Phải, anh có biết họ nghĩ sao đâu. Họ đã đi hết chiếc cầu thang rộng thấp, bằng gỗ sồi, để lên tầng trên, sau đó bước dọc hành lang, quẹo trái vô chỗ Phòng Xanh. Cửa phòng mở, cho thấy các đồ nội thất nặng nề từ thế kỉ trước để lại, và những bức tường với hoa văn chẳng mấy đẹp. Bên cạnh phòng, về phía phải, là hai buồng ngủ. Hàng lang trải dài mãi, đến tận cánh cửa sổ trông ra vườn, cầu thang dẫn lên gác xép, Page nhớ mơ hồ, nằm sau bức tường dày phía cuối hành lang. Cửa dẫn vào cầu thang thì nằm bên trái.

Page cảm thấy băn khoăn. Tuy tiến sĩ Fell hồ hởi, miệng oang oang, tuy thanh tra Elliot thẳng thắn, hay chuyện, rốt cuộc Page vẫn không hiểu sự vụ. Hai người họ cứ bàn, cứ nói mãi, mà chẳng đả động mấy đến nghiệp vụ cảnh sát thông thường, như tìm ra dấu chân chỗ kia, dấu tay chỗ này. Chẳng thấy Elliot vào vườn điều tra hay đi tìm các đầu mối khác, ừ thì có tìm thấy con dao. Việc ấy họ phải tiết lộ vì chẳng đặng đừng. Nhưng còn các giả thuyết khác thì sao? Mọi người đều đã cung cấp lời khai. Phải đánh giá những lời khai đó như thế nào?

Đương nhiên, như thế nào là việc của họ. Dấu biết vậy, Page vẫn không an lòng. Làm gì cũng phải kĩ lưỡng, thấu đáo. Ngay tại những chiến trường xưa như [*]Blenheim, bây giờ người ta vẫn đào bới, khám phá, tìm ra được đầu lâu. Chẳng lẽ đợi đầu lâu lăn tới tận bàn, lúc ấy mới biết đến nó? Nhưng thôi, so sánh kiểu vậy có lẽ không thích hợp.

Kìa, phía trước, cái lưng to bè của Fell như choán hết hành lang.

“Cổ ở phòng nào?” Elliot hỏi khẽ.

Molly chỉ cánh cửa bên ngoài, phía đối diện với cửa dẫn lên gác xép. Thanh tra gõ nhẹ. Bên trong vọng ra tiếng ú ớ yếu ớt.

“Betty,” Madeline thì thầm.

“Ở trong đó?”

“Phải. Họ vực cổ vào phòng ngủ gần nhất. Tình trạng cổ không ổn lắm.”

Page lờ mờ bắt đầu hiểu chuyện. Bác sĩ King mở cửa, ngoái nhìn đằng sau, đoạn khép lại thật êm, rón rén bước ra hành lang.

“Không,” King nói. “Chưa gặp được đâu. Ít nhất phải đợi tối nay, thậm chí ngày mai, hoặc sau ngày mai. Thuốc an thần chưa có tác dụng.”

“Vâng, nhưng bác sĩ, ông chắc là không… không…” Elliot lo lắng, hoang mang.

“Ông muốn hỏi có nghiêm trọng không à?” Mái đầu hoa râm của King cúi thấp như muốn húc. “Lạy Chúa! Xin thứ lỗi!”

Ông ta lại mở cánh cửa sau lưng.

“Cô ấy có nói gì không?”

“Chẳng có chi cho ông ghi chép đâu, thanh tra. Đa phần là mê sảng. Giá mà tôi biết cổ đã thấy gì.”

Mọi người lặng yên. Nét mặt Molly đã thay đổi. Dường như nàng đang cố lấy lại chuẩn mực thường ngày. Tuy nhiên, bác sĩ King là bạn lâu năm của cha nàng, giữa nàng và King không cần giữ phép xã giao.

“Chú Ned, chú cho con biết đi. Vì Betty, con sẵn sàng làm mọi thứ mà. Con không nghĩ là… Tình trạng chắc không nặng hả chú? Sao lại thế được? Con người hoảng sợ là thường, có phải bệnh tật gì đâu? Không nguy hiểm, chú nhỉ?”

“Không nguy hiểm. Mày vẫn là con nhỏ dễ thương, mạnh mẽ ha. Năng lượng tràn trề như mày thì chả sợ. Gặp cái gì thì mày đánh trả ngay phải không? Mỗi người mỗi khác con ạ. Chú chẳng biết cô ta thấy cái chi chi, nhưng chú không muốn gặp nó chút nào. Cũng có thể chỉ là chuột hoặc gió trong ống khói. Rồi sẽ ổn cả, không cần ai giúp đâu, bà Apps và chú tự lo liệu được. Mày cho chú xin bình trà là xong.”

Cánh cửa đóng lại.

“Các ông bạn ạ,” Gore nhận xét, hai tay đút túi, “hẳn không phải chuyện nhỏ đâu. Ta lên gác thôi nhỉ?”

Y bước tới, mở cánh cửa đối diện. Bên trong, hiện ra chiếc cầu thang cao và dốc, thoang thoảng bốc mùi ẩm mốc của đá lâu năm không thấy ánh mặt trời. Khu dành cho gia nhân nằm ở phía bên kia; chỗ này hoang tàn, trông như bộ xương của ngôi nhà, nơi nét cổ kính chưa bị hiện đại xâm phạm. Vì cửa sổ không có, Elliot phải bật đèn pin. Gore theo chân thanh tra, sau nữa lần lượt là tiến sĩ Fell, Molly và Madeline. Page đi cuối.

Gác xép chưa từng được trùng tu kể từ khi Inigo Jones thiết kế ngôi nhà, xây hàng dãy cửa sổ, sử dụng đá chung với gạch. Gần chân cầu thang, sàn nhà dốc và lồi lõm, đi không để ý dễ vấp ngã. Bên trên là những cây xà bằng gỗ sồi, đồ sộ không đẹp, song thể hiện sức mạnh cương mãnh, trầm hậu. Ánh sáng le lói từ ngoài lọt vào, giữa bầu không khí nóng và ẩm thấp.

Đi mãi hết cầu thang, ai nấy dừng chân trước cửa gác: Cánh cửa đen, nặng, nom như cửa hầm, với bản lề được làm từ thế kỉ 18, và quả đấm đã văng mất đâu. Chiếc khóa hiện đại trên cửa không được dùng, thay vào đó là khóa móc và dây xích. Song le, Elliot không chiếu đèn vào khóa, mà chiếu phía dưới, nơi có cái gì nằm lăn lóc.

Ấy là quả táo đang ăn dở, bị cánh cửa đóng lại, nghiền mất một phần.

↩︎ Xem chú thích trang 101.

↩︎ The House and The Brain, truyện kinh dị của nam tước Edward Bulwer-Lytton, xuất bản năm 1859.

↩︎ Trận chiến lớn trong cuộc chiến giành quyền thừa kế ngôi vua Tây Ban Nha, diễn ra năm 1704.