Chương 13
Dùng cạnh đồng xu làm tuốc nơ vít, Elliot chầm chậm vặn cái má kẹp đang giữ dây xích. Việc không dễ, và mất nhiều thời gian, song thanh tra nhẫn nại, tỉ mỉ, không khác thợ chuyên nghiệp. Khi dây xích bung ra, cánh cửa tự bật mở.
“Hang ổ Phù Thủy Vàng,” Gore reo lên khoái trá, chân đá quả táo bay đi.
“Ông dừng lại coi!” Elliot trách móc.
“Cái gì? Bộ ông cho quả táo là bằng chứng chắc?”
“Ai mà biết. Khi quý vị vào trong, trừ khi tôi bảo, xin đừng đụng bất cứ thứ gì.”
Chật thế này, chỗ đâu mà vào? Page cứ ngỡ sẽ thấy căn phòng, ai dè đằng sau cánh cửa chỉ là cái hốc chứa kệ sách chưa đầy hai thước vuông, chắn một bên bởi mái nhà dốc, trên có ô kính nhỏ bám bụi dầy cui, mờ đục. Trên kệ còn nhiều ô trống; sách cũ bằng da dê tả tơi nằm cùng các cuốn mới hơn, đóng bìa cẩn thận; tất cả bị bao phủ trong lớp bụi sạn đen, không thấy dấu vết gì đặc biệt. Ngoài kệ sách, còn một chiếc ghế bành thời Victoria sơ kì, và khi Elliot chiếu đèn vào, con người máy dường như nhảy xổ ra.
Đến thanh tra cũng phải nhảy lùi. Phù Thủy Vàng không đẹp. Ngày xưa quyến rũ thế nào không biết, giờ đây nó chỉ có một mắt và nửa mặt; nửa kia đã bị hủy hoại. Chiếc áo nhung thêu kim tuyến xưa chắc màu vàng, nay chỉ còn đôi chút tàn y. Ngay nửa mặt còn lại của nó cũng đầy những vết nứt vỡ.
Tay người máy hơi giơ lên, điệu đàng làm dáng, trông phát khiếp. Nếu đứng thẳng, nó cao gần bằng người thật. Song nó không đứng, mà ngồi trên cái hộp chữ nhật. Hộp này từng được sơn mạ, giả làm trường kỉ, nhưng so với người máy, cũng không rộng hơn, sâu hơn bao nhiêu. Dưới hộp có bánh xe, chắc thêm vào sau này. Cả máy lẫn hộp khá nặng, phải đến hai hay ba tạ Anh.
Madeline chợt khúc khích cười, chẳng hiểu do nhẹ nhõm hay căng thẳng. Elliot càu nhàu, còn Fell thì văng tục.
“Ma với chả quỷ!” tiến sĩ nói. “Hố rồi chăng?”
“Gì ạ?”
“Anh hiểu tôi muốn nói gì mà. Chẳng lẽ chỉ đơn giản là: Cô hầu lẻn vào căn phòng Yêu Râu Xanh, thấy con người máy lần đầu, nên sợ quá…” ông ngừng lời, chu môi thổi râu. “Không, chắc không phải.”
“Tôi e không phải,” Elliot điềm tĩnh tán đồng. “Đâu đơn giản vậy. Làm sao cổ vào được đây? Ai bê cổ xuống lầu? cổ lấy Sách Dấu Tay ở chỗ nào? Chỉ thấy mỗi con này không thể sợ như thế, cùng lắm la hét bỏ chạy thôi, trừ phi cổ bị chứng cuồng loạn. Phu nhân Farnleigh, các gia nhân có biết về hình nhân không?”
“Biết chứ. Ngoài Knowles, và có thể cả bà Apps, chưa ai được thấy, nhưng tất cả đều biết.”
“Vậy họ hẳn không ngạc nhiên?”
“Không.”
“Thế thì, nếu như Betty bị điều gì làm cho hoảng sợ trong cái hốc bé tí này… chà, ta chả có bằng chứng nào…”
“Trông kìa,” tiến sĩ Fell dùng can chỉ.
Đèn pin chiếu xuống sàn, chỗ gần bệ người máy, soi sáng một mảnh vải nhăn nhúm. Elliot lượm lên, nhận ra đó là chiếc tạp dề có diềm. Tuy mới được giặt gần đây, tạp dề loang lổ bụi đất, có chỗ còn mang hai vết rách ngắn hình răng cưa. Tiến sĩ Fell đón lấy nó từ tay thanh tra, chuyền qua cho Molly.
“Của Betty à?” ông hỏi.
Tạp dề có thêu nhãn, trên nhãn ghi tên bằng mực, chữ nhỏ li ti. Molly cúi đọc và gật đầu.
“Chờ chút!” tiến sĩ Fell nhắm mắt, phục phịch bước qua bước lại nơi ngưỡng cửa, tay đè gí mắt kính, như muốn ngăn, không cho nó rơi ra. Lúc bỏ tay xuống, mặt ông tối sầm, trầm trọng.
“Được rồi, quý vị hãy nghe. Tôi không thể chứng minh chuyện này, cũng như chuyện quả táo và phòng táo lúc nãy. Nhưng để tôi kể thử chuyện gì xảy ra, rõ ràng như chính mắt trông thấy. Trong vụ án đang xét, thông tin thiết yếu ta cần biết là giữa bữa trưa và bốn giờ chiều, cô hầu bị hù vào lúc nào, và trong lúc đó, những người khác đang làm chi.
“Vì sao? Vì hung thủ giết người đang có mặt tại đây, ngay trong cái hốc đây. Betty Harbottle đã bắt gặp hắn. Tôi không biết lúc đó hắn làm gì, nhưng rõ ràng hắn không muốn người nào thấy hắn ở chỗ này. Sự thể xảy ra thế nào, chưa hay. Chuyện xong, hắn dùng chiếc tạp dề xóa hết dấu chân, dấu tay, và các thứ dấu vết khác để lại trên bụi. Hắn khiêng hoặc kéo Betty xuống lầu. Sách Dấu Tay vừa trộm đêm qua, hắn để vào tay cổ. Thế rồi hắn đi, bỏ lại tạp dề ngăn nắp ở giữa phòng.”
“Tiến sĩ hãy khoan, đừng vội.” Elliot ngẫm nghĩ rồi giơ tay. “Tôi thấy còn hai điểm mâu thuẫn.”
“Điểm nào?”
“Thứ nhất, tiến sĩ bảo: Hung thủ muốn che giấu, không cho ai biết hắn ở đây. Nếu chỉ kéo cô gái đang bất tỉnh từ phòng này sang phòng khác, thì che giấu thế nào được? Cô hầu vẫn sống, rồi cô sẽ tỉnh, kể lại mọi người nghe ai ở trong phòng, và đang làm gì. Sự thật sẽ bước ra ánh sáng, dù tạm thời bị trì hoãn.”
“Quả là câu hỏi khó, như đá hay thử vàng. Nhưng anh biết không,” tiến sĩ giọng quyết liệt, “lời đáp cho câu hỏi đó có thể sẽ giải quyết luôn cả vụ án không chừng. Mâu thuẫn thứ hai là gì?”
“Betty Harbottle không bị thương, về mặt thể chất, chả ai đụng vào cổ. Cổ bị như hiện tại là do hoảng sợ. Song chẳng lẽ, chỉ trông thấy một người bình thường đang lấp liếm làm điều chi đó mà lại sợ chết ngất hay sao? Vô lí quá. Đàn bà ngày nay có còn yếu bóng vía nữa đâu. Rốt cuộc điều gì đã xảy ra?”
“Một điều mà người máy đã làm,” Fell nhìn thanh tra và đáp. “Chẳng hạn, nó xông ra, chụp lấy tay anh.”
Lời tiến sĩ mang sức nặng đến nỗi ai nấy đều bất giác lùi lại. Sáu cặp mắt cùng chú mục vào cái đầu tàn tạ và đôi tay lạ lùng của hình nhân. Tay ấy sờ vô chắc là ớn lắm. Mà không chỉ tay, mọi thứ trên người nó đều ghê, từ manh áo ẩm mốc đến cái đầu bằng sáp nứt rạn. Ai mà dám sờ?
“Theo tiến sĩ, hung thủ biết cách làm người máy hoạt động?” Elliot đằng hắng.
“Không thể nào,” Gore cắt ngang. “Nhiều năm trước, tôi từng cố thử. Hung thủ không thể làm nó chạy, trừ phi trong những năm tôi xa nhà, có người đã sửa nó, lắp vào hệ thống điện hay thứ gì tương tự. Cái thứ chết tiệt! Tôi bảo quý ông: Chín đời nhà Farnleigh cố tìm bí mật của nó mà không ra đấy. Tôi ra giá thẳng luôn: Ai chỉ được cho tôi nguyên lí người máy hoạt động, tôi trả 1.000 bảng.”
“Quý ông thôi ư? Quý bà có được không?” Madeline cố pha trò.
“Đàn ông, đàn bà, con trẻ, hay bất kì ai,” Gore giữ điệu nghiêm trang, tha thiết, “miễn là làm nó chạy theo đúng kiểu 250 năm trước, không dùng đến thiết bị hiện đại.”
“Ông thật hào phóng,” tiến sĩ Fell tươi tắn. “Đẩy nó ra đây, ta nhìn cái coi.”
Elliot và Page vịn tay lên bệ, lặc lè kéo hình nhân khỏi hốc, đến chỗ cửa sổ gần đầu cầu thang, nơi có ánh sáng. Lúc qua ngưỡng cửa, bị kênh, cái đầu người máy giật mạnh, rung rung, tóc như muốn bay ra. Nhờ bánh xe nên kéo đi không khó, chỉ phải nghe kẽo kẹt, rầm rầm một chút.
“Xin mời chỉ giáo,” Fell nói.
“Trước tiên, các vị nên biết: Thân thể con này toàn bánh răng và những bộ phận cơ học,” Gore săm soi người máy. “Tôi không phải thợ cơ khí, song nhìn mấy thứ đó cũng nhận được cái nào là thật, cái nào chỉ trang trí cho vui. Tôi ngờ rằng máy móc trong đây đa số đều giả, làm để lừa người, số thật ít lắm. Đằng sau nó có cái cửa nhỏ đây này. Nếu cửa còn mở, thò tay vào sẽ thấy bên trong không rỗng, mà đầy bộ phận, ái chà… xước rồi!”
Gore xám mặt, rụt tay lại, trên mu thấy rõ một vệt xoắn dài, nhỏ máu. Thì ra, trong lúc mải mê diễn giải, y vung tay quá gần những ngón sắc nhọn của hình nhân.
“Con người máy già giỏi hen!” y đút tay vào mồm. “Con người máy già trung thành hen! Tao thì tao đập vỡ luôn cái mặt bên kia của mày!”
“Đừng anh!” Madeline kêu.
“Tuân lệnh em cưng,” Gore cười. “Thanh tra, ông thọc vô thử coi. Tôi muốn xác minh cho quý vị nó toàn máy móc, không ai trốn bên trong được.”
Đằng sau người máy quả có ô cửa kính nhỏ, song kính đã long mất từ lâu. Với vẻ hệ trọng như thường lệ, Elliot rọi đèn pin, cho tay vào sờ soạng. Giữa chừng, điều gì đó dường khiến thanh tra giật mình, nhưng rồi anh chỉ nói: “Đúng, không có khoảng trống. Ông bảo như vậy, chắc từng có nghi vấn về người trốn bên trong vận hành cỗ máy?”
“Vâng, vì thiên hạ chẳng biết cách giải thích nào khác. Thôi, thế là xong phần người máy. Phần còn lại là cái trường kỉ bên dưới. Quý vị xem nhé.”
Mặt trước trường kỉ, về bên trái, có cái núm nhỏ. Kéo núm ấy thì cả mặt mở ra, như cánh cửa trên bản lề. Tuy vậy, Gore phải khá vất vả mới mở nổi. Bên trong toàn sắt rỉ, dài chưa đầy một thước, rộng nửa thước.
“Quý vị còn nhớ người ta đồn đãi thế nào về người máy chơi cờ của Maelzel không?” Gore rạng rỡ. “Người máy ngồi trên một loạt những hộp lớn, mỗi hộp có một cửa riêng. Trước khi biểu diễn, chủ trò mở hết cửa ra, cho khán giả thấy đây không phải trò lừa. Thế nhưng, có kẻ bảo: bên trong có một đứa nhỏ giỏi trò uốn éo. Hễ cửa hộp này mở, nó chui liền sang hộp khác, nhanh đến nỗi mọi người chẳng thấy gì.
“Với con mụ này, họ cũng đồn đại tương tự. Nhưng không cần ai chỉ, quý vị cũng thấy lời đồn bất hợp lí. Thứ nhất: Đứa nhỏ phải bé lắm mới chui lọt. Thứ hai: Nhà trò nào có thể dẫn đứa nhỏ đi khắp châu Âu mà không ai biết ai hay?
“Hơn nữa, dưới Phù Thủy Vàng có mỗi một hộp, một cửa. Khán giả đến xem đều được mời khám thử, bảo đảm không gian lận. Người máy thì được nhấc cao, đặt lên thảm, tưởng chừng không gì khiến nó cử động được. Vậy mà, chỉ cần đem đàn đến, ra lệnh, nó sẽ chơi ngay; khán giả hô bài chi thì chơi bài đấy. Nó còn giao tiếp bằng cử chỉ, biểu diễn những trò được ưa chuộng thời xưa. Tổ tiên tôi thích mê là phải. Nhưng sau khi học được bí thuật khiến nó cử động, không biết vì sao ông ấy đổi thái độ.”
Nói xong, Gore bỏ điệu bộ kiêu kì, và thòng thêm một câu: “Giờ hãy giải thích giùm tôi, vì sao nó chạy được?”
“Thằng khỉ đột,” Molly Farnleigh cố không to tiếng, nhưng hai nắm tay bên mình đã siết chặt. “Sao mày cứ vênh vênh váo váo vậy? Đã thỏa mãn chưa, hay còn muốn nghịch thêm lính chì, xe lửa đồ chơi? Brian, lại đây, tôi chịu hết thấu rồi. Ông kia, ông nữa, cảnh sát gì mà đi làm trò con nít, bò quanh con hình nộm? Án mạng vừa xảy ra đêm qua, bộ không biết hay sao?”
“Được rồi,” Gore nói. “Trở lại vụ đêm qua đi, sau đó hãy bàn con người máy.”
“Mày lại bảo là tự tử chứ gì.”
“Phu nhân ơi,” Gore ra dấu ngao ngán. “Lời tôi đâu quan trọng. Tôi mới cất tiếng, người ta đã nhảy vô họng. Nếu tôi bảo tự tử, A, B và C sẽ phản đối. Tôi bảo giết người, thì đến lượt, D, E và F công kích. Bảo là tai nạn cũng chẳng dám, sợ G, H, I thịnh nộ.”
“Khéo nhỉ. Còn Ông Elliot có ý kiến gì?”
“Phu nhân Farnleigh,” thanh tra thành thực. “Tôi chỉ cố làm hết sức mình. Đây là vụ khó nhất tôi từng gặp, và thái độ của mọi người ở đây càng khiến nó khó hơn. Bà đừng nóng. Hãy nhìn cho kĩ, chịu khó suy nghĩ một chút, sẽ thấy con người máy có liên quan đến vụ việc. Còn nhiều uẩn khúc đằng sau nó.”
Ông vắt tay lên vai.
“Tôi không biết bộ máy bên trong nó là thật hay vờ. Cũng không biết sau hai trăm năm, nó còn hoạt động hay không. Đồng hồ chạy được mấy trăm năm, biết đâu nó cũng vậy? Nếu được, tôi muốn đem nó về chỗ tôi để tìm hiểu thêm. Nhưng sau khi nhìn thử đằng sau, ngay bây giờ có thể khẳng định một điều: Cỗ máy vừa được tra dầu gần đây.”
“Nghĩa là…?” Molly cau mày.
“Tôi đang tự hỏi… tiến sĩ Fell… liệu ông…” Elliot quay người. “Tiến sĩ, ông đâu rồi?”
Ông tiến sĩ to béo bỗng dưng mất dạng, khiến Page tưởng có sự cố. Anh chưa biết, tại hiện trường, Fell cứ hay ẩn hiện như thố, lúc rúc chỗ kia, lúc lẩn chỗ nọ, làm những việc dường như vớ vẩn. Lần này, lời Elliot được đáp trả bằng ánh sáng rợi ra từ trong hốc. Fell đang đánh diêm, mắt hấp háy, chăm chú nhìn những kệ sách dưới thấp.
“Hả? Anh hỏi gì?”
“Nãy giờ tiến sĩ có nghe không?”
“À! (Khụt khịt) nghe chứ. Bao thế hệ gia đình người ta đều bó tay, tay mơ như tôi biết thế nào được. Tôi thì chỉ muốn tìm hiểu chủ trò ngày xưa ăn mặc ra sao.”
“Ăn mặc?”
“Ừ. Tôi thấy trang phục truyền thống của ảo thuật gia chẳng mấy ấn tượng, song gợi mở nhiều điều. Nãy giờ tôi lục lọi trong kệ, cũng có đôi chút kết quả…”
“Ông xem sách trên đó?”
“Bộ sách bao gồm những tà thư quen thuộc. Tuy vậy, cũng tìm được thông tin về vài vụ xử phù thủy trước giờ tôi chưa biết. Có cả sách về cuộc trưng bày con người máy, hi vọng có thể mượn về xem? Được à? Xin cám ơn. Nhưng đặc biệt nhất là cái này.”
Cặp mắt sáng lên, đầy vẻ tinh quái, khoái trá, Gore theo dõi cảnh tiến sĩ Fell ì ạch bước khỏi hốc, cầm theo một hộp gỗ cũ nát. Đúng lúc ấy, Page nhận thấy gác xép chật cứng những người.
Thì ra Kennet Murray và Nathaniel Burrows đợi lâu bực mình, đều bảo nhau đi theo. Như từ dưới đất chui lên, cặp kính to bản của Burrows, cùng khuôn mặt điềm tĩnh đường bệ của Murray, thình lình xuất hiện chỗ đầu cầu thang. Họ đứng đấy, không tiến gần thêm, trong khi tiến sĩ Fell ngồi chênh vênh trên bờ rìa bệ đỡ người máy, tay lúc lắc cái hộp.
“Giữ máy cho kĩ!” ông cảnh báo. “Đừng để nó lăn xuống đè mình. Nên nhớ kẻ gian đang ở ngay đây. Bây giờ hãy xem cái này: Chiếc hộp lạ lùng lưu giữ bụi thời gian.”
Trong hộp có mấy viên bi con nít; một con dao han rỉ với cán sơn màu; vài con mồi giả dùng câu cá; một quả cầu nhỏ, nặng, bằng chì, trên gắn bốn móc câu lớn, trông như bó hoa; và (chả hiểu tại sao) cái nịt vớ phụ nữ cũ xì. Nhưng vật thu hút sự chú ý của mọi người nằm ở phía trên: Chiếc mặt nạ bằng da trên dây thép, có hai mặt, trước và sau, từa tựa [*]Janus. Nó đen đủi, héo hon, nom chả ra hình thù. Tiến sĩ Fell để yên, không chạm vào nó.
“Nhìn xấu như thú,” Madeline thì thầm. “Đấy là cái quái gì?”
“Mặt nạ thần,” Fell đáp.
“Gì cơ?”
“Khi các phù thủy tụ họp, vị chủ tế đeo mặt nạ này. Nói thật, ngay nhiều người chuyên viết về ma thuật còn chẳng hiểu ma thuật là gì, huống hồ độc giả. Tôi không muốn thuyết giảng, song ở đây, ta có sẵn ví dụ. Quý vị đều biết: Quỷ Đạo là trò giễu nhại báng bổ các nghi thức Kitô giáo. Có điều, nguồn gốc của nó phát xuất từ ngoại đạo ngày xưa, với hai vị thần chính yếu: Janus hai mặt, bảo hộ sự sinh sản và các cung đường; và Diana, nữ thần phồn thực, trinh nguyên. Như đã nói, chủ tế đeo mặt nạ này, hoặc mặt nạ dê của Quỷ Vương. Chà chà!”
Tiến sĩ dùng ngón trỏ và ngón cái véo vào mặt nạ.
“Nãy giờ ông cứ bóng gió,” Madeline khẽ khàng. “Chuyện rất nực cười, lẽ ra tôi không nên hỏi, nhưng ông trả lời thẳng thắn được không? Ý ông là có nhóm tín đồ Quỷ Đạo ở đây?”
“Đùa thôi,” vẻ mặt Fell như vừa thoát u mê. “Câu trả lời là không.”
Im lìm giây lát, đoạn thanh tra Elliot quay lại, kinh ngạc thốt lên, quên cả giữ bí mật giữa chốn đông người. “Gì vậy tiến sĩ? Ông nói nghiêm túc chứ? Bằng chứng cho thấy…”
“Nghiêm túc. Bằng chứng đấy chẳng bõ.”
“Nhưng mà…”
“Trời ạ, thế mà lúc trước nghĩ không ra!” tiến sĩ Fell sôi nổi. “Vụ này đúng tủ của tôi, mà đến giờ tôi mới suy thấu lời giải. Bạn Elliot ơi, ngoài rừng Rèm Treo chẳng có phù thủy nào tụ tập, ban đêm không có truy hoan, vang tiếng khèn dê. Dân vùng Kent vốn thuần nhất, đâu bị dụ vào ba cái vụ vớ vẩn, điên khùng đó. Ngay từ khi anh thu thập bằng chứng, tôi đã thấy ngờ ngợ. Nay tôi nhận ra sự thật dơ bẩn rồi. Elliot, toàn bộ vụ này chỉ do một tên gian phi dàn dựng, duy nhất một tên. Tất cả, từ hù dọa tinh thần đến giết người, đều bởi nó cả. Sự thật ấy tôi sẽ biếu anh, không lấy một xu.”
Có tiếng cọt kẹt: Murray và Burrows đã bước vào nhập hội.
“Trông anh kích động nhỉ,” Murray lãnh đạm.
“Vâng, quả có hơi hơi,” Fell thừa nhận. “Tôi chưa nghĩ thông hết, song đã có bước khởi đầu. Chốc nữa tôi sẽ giải thích.” Ông nhìn mông lung, cặp mắt như lung linh. “Vấn đề ở đây là động cơ gây án. Ngoài ra, tội phạm loại này thật mới lạ. Hắn vắt óc bày đủ thứ trò, rồi khoái trá gặm nhấm, tận hưởng thành quả. So với các trò của hắn, đạo thờ Quỷ còn lương thiện chán. Thôi, xin quý vị thứ lỗi, giờ tôi cần ra ngắm vườn. Thanh tra cứ làm việc đi nhé.”
Ông đã đi tới cầu thang, Elliot mới choàng tỉnh, hoạt bát trở lại. “Được rồi… giờ thì… ông Murray muốn nói gì?”
“Tôi muốn xem người máy,” Murray cục cằn. “Sau khi trình bằng chứng nhận dạng, dường như tôi hết giá trị, bị cho ra rìa thì phải. Con phù thủy đây rồi. Còn cái này nữa, tôi xem được chứ?”
Thầy cầm hộp gỗ lắc lắc, đưa lên cửa sổ bám bụi soi cho sáng.
“Ông từng thấy những vật này?” Elliot hỏi.
Murray lắc đầu. “Tôi có nghe nói về mặt nạ da, nhưng chưa thấy. Không biết…”
Thình lình, người máy cử động.
Cho đến hôm nay, Page vẫn dám thề: Không ai đụng vô người máy. Thực tế ra sao chẳng rõ, vì lúc ấy bảy người chen chúc cạnh nó, trên sàn nhà cũ kĩ cọt kẹt, đổ dốc về phía cầu thang. Murray đứng quay lưng về hình nhân, tay phải cầm hộp gỗ, trong cảnh tranh tối tranh sáng, ai nấy đều tập trung vào thầy, nên nếu có kẻ ra tay, cũng chẳng làm sao biết được. Lúc hình nhân chúi về đằng trước, đột ngột như xe hơi mất thắng, đám người vẫn chưa trông thấy. Mãi đến khi khối sắt hơn 300 ký xồng xộc lao về phía cầu thang, họ mới hoảng lên. Trong cơn hoảng loạn, chỉ nghe tiếng bánh xe rít, tiếng can của tiến sĩ Fell trên bậc thang, và tiếng Elliot la hoảng: “Vì Chúa, coi chừng dưới kia!”
Page nhào tới, với lấy bệ sắt. Anh không cản nổi cỗ máy khổng lồ, song nhờ anh, nó chỉ lao thẳng trên bánh xe, không lật ngang, nghiền nát mọi thứ trên đường xuống. Ngã sóng xoài, Page kịp thấy tiến sĩ Fell đang đứng giữa chừng bên dưới, và ánh sáng chiếu vào từ cánh cửa mở dưới chân cầu thang. Fell trông lên, đứng nép một bên bất động, tay giơ cao như thể phòng thủ. Cỗ máy đen thui vụt xuống kinh hoàng, chỉ cách ông một đường tơ kẽ tóc.
Và còn nữa, điều này không ai lường trước được: Sau khi qua cánh cửa, người máy lăn vào hành lang. Dù một bánh xe văng ra, khiến nó tròng trành, cả khối sắt vẫn theo quán tính tông vào khung cửa phòng đối diện, làm cửa bật mở.
Page hộc tốc chạy xuống. Thôi rồi, đấy là phòng Betty Harbottle đang nằm. Đã hiểu vì sao cô hầu phát bệnh, anh không lạ khi nghe tiếng la hét vang lên, đón tiếp vị khách không mời. Người máy dừng rồi, mọi thứ lặng yên, chỉ còn những âm thanh nho nhỏ từ phòng vọng lại. Đoạn, có tiếng bản lề rít, bác sĩ King bước ra, mặt trắng bệch như tờ giấy, miệng quát: “Bọn quỷ trên kia, chúng bay vừa làm gì?”
↩︎ Vị thần trong thần thoại La Mã. Vị này có hai mặt, một hướng tương lai, một trông quá khứ.