Chương 19
Brian Page đứng nơi cửa sổ, quan sát khu vườn bên ngoài. Sau cú đập cửa, anh đã thủ thế, sẵn sàng đối diện bất cứ thứ chi. Nhưng giờ đây, trước mắt anh lại chẳng có gì, hoặc có mà không thấy được.
Ánh đèn từ trong chiếu ra, lấn át màu xanh của cỏ. Người máy biến đâu mất dạng, chỉ để lại ít vết bánh xe rất mờ. Song có hay không người máy, tiếng động lúc nãy rõ ràng không thể lẫn vào đâu. Page bước một bước ra khỏi ngưỡng cửa.
“Brian,” Madeline gọi nhỏ, “anh đi đâu đấy?”
“Xem xem ai vừa gọi mình.”
“Đừng đi mà anh.” Madeline đến gần hơn, nói giọng khẩn thiết. “Từ trước tôi chưa xin anh điều gì phải không? Nay tôi xin anh đừng ra ngoài đó. Nếu anh đi thì tôi… thật tôi không biết mình sẽ làm gì, nhưng chắc chắn anh sẽ chẳng thích đâu. Làm ơn. Vào nhà, đóng cửa sổ lại, anh nhé? Tôi biết rồi.”
“Cô biết?”
Madeline gật đầu, mắt hướng ra vườn. “Nó ngồi ngoài kia, giờ không còn nữa. Lúc nãy trong bếp, nhìn từ cửa sau, tôi đã thấy. Tôi nghĩ anh cũng thấy, song không chắc, nên chẳng dám nói, sợ anh lo lắng mất công.” Cô đặt tay lên ve áo Page. “Đừng đi nghe, đừng tìm theo nó. Nó dụ anh đó.”
Page nhìn xuống, thấy đôi mắt khẩn cầu, và chiếc cổ cong cong đang rướn cao. Bất chấp những điều vừa nghĩ, vừa cảm thấy, anh trả lời bằng giọng điệu vừa cao kì vừa thấm đẫm mê say:
“Giữa những chốn lạ thường, đây là nơi lạ nhất để tôi thổ lộ lòng mình. Trong những thời điểm không phù hợp, đây là thời điểm không phù hợp nhất. Tôi phải dùng những chữ ‘nhất’ ấy để giải tỏa cảm xúc trong lồng ngực, vì điều tôi muốn nói là…anh yêu em!”
“Vậy là đêm trước Hội Mùa cũng có điều tốt lành,” Madeline ngước miệng lên.
Thật lạ! Nếu không có cái vật hung dữ đi quanh cửa sổ, chưa chắc Page đã dám nói ra tâm sự. Nếu không có nó, chắc anh chẳng bao giờ hiểu lòng Madeline và nghe được lời thương. Song le, lúc này Page đâu quan tâm mấy “chữ” nếu. Anh còn đang bận chuyện khác: Tận hưởng hương vị lạ của cặp môi Madeline, mơ màng không hiểu vì sao gương mặt người yêu khi đặt sát gần, bỗng trở nên huyền ảo và xa xăm lãng đãng. Thực tại này đã thay đổi đời anh; anh không dám tin nó là thật. Anh muốn hét lên một tiếng khoan khoái thật dài, và sau nhiều phút bên cửa sổ, anh đã hét.
“Trời ơi, Brian, sao bây giờ anh mới nói em hay?” Madeline nửa khóc nửa cười. “Em muốn chửi thề đây. Đạo đức của em bay sạch hết rồi. Từ trước sao anh không nói?”
“Vì anh nghĩ em không thèm để tâm tới anh. Anh sợ em cười.”
“Anh nghĩ em sẽ cười à?”
“Thật đấy.”
Madeline ôm vai Page, ngước mặt nhìn anh chăm chú. Mắt cô ánh lên vẻ hiếu kì.
“Brian, anh yêu em ư?”
“Nãy giờ anh đang cố nói điều ấy đấy. Nói lại từ đầu cũng không sao. Nếu…”
“Gái già như em…”
“Madeline, muốn nói chi cứ nói, đừng dùng chữ ‘gái [*]già ’. Trong ngôn ngữ mình, nó là một trong những từ xấu nhất, nghe như lai lai giữa ‘con suốt’ và ‘giấm [*]chua’. Để miêu tả em, cần phải dùng từ…”
Vẻ hiếu kì trong mắt Madeline vẫn chưa tắt.
“Yêu em thật hả Brian? Vậy em cho xem cái này hen?”
Giọng cô lạ lùng, làm Page ngạc nhiên, song chưa kịp tìm hiểu đã nghe tiếng chân khua trên mặt cỏ. Cặp đôi vội buông nhau. Giữa hàng nguyệt quế, một bóng người hiện ra, dần tiến đến gần. Người này gầy, vai hẹp, dáng đi nhanh, lóng ngóng. Sau khi nhìn rõ, Page thở phào: Chỉ là Nathaniel Burrows.
Burrows lúng túng, không biết nên giữ mặt cá bơn hay nên cười. Rốt cuộc, gã chọn cách dung hòa: mặt hơi nhăn, ngộ nghĩnh. Gã đeo cặp kính lớn, gọng đồi mồi, nom rất nghiêm trang, đầu đội mũ quả dưa trang trọng, hơi nghiêng một phía. Mặt gã dài, bình thường có thể rất dễ thương, song hiện tại, độ dễ thương giảm mất mấy phần.
Gã không nói nhiều, chỉ “chậc! chậc!” rồi bảo: “Tôi đến tìm con người máy.”
“Ơ…” Madeline chớp mắt. “Con người máy á?”
“Cô không nên đứng chỗ cửa sổ,” Burrows khuyến cáo. “Khi có khách tới, sẽ mất thăng bằng tâm lí đấy. Mày cũng vậy.” Gã ngó Page. “Hình nhân, cô Madeline. Hình nhân cô mượn của Farnleigh Close ban chiều.”
Page nhìn Madeline. Cô ngó Burrows đăm đăm, sắc mặt bỗng đậm màu.
“Nat, anh nói gì vậy? Tôi mượn hình nhân? Có mượn hồi nào đâu.”
“Madeline thân mến ơi,” đôi tay đeo găng của Burrows hết xòe rồi đóng. “Tại phiên pháp y, cô giúp cho rất nhiều, tôi còn chưa cảm tạ. Nhưng hãy để đấy.” Gã nghiêng đầu. “Mới chiều nay, cô gọi điện hỏi con hình nhân mà. Macneile và Parsons đem nó tới, để trong nhà chứa than đó thôi.”
“Anh chắc khùng rồi,” Madeline kinh ngạc, cao giọng.
Burrows, như thường lệ, vẫn tỏ ra chừng mực. “Nói gì thì nói, nó ở trong đó. Tôi gọi ngoài cửa không ai nghe. Đi vô đây… ờ… cũng không ai nghe. Tôi muốn mượn người máy, xe hơi còn đậu ngoài đường kia. Cô cần người máy làm gì, tôi chẳng hiểu. Giờ tôi đem nó đi, cô không phiền chứ? Tôi vẫn chưa biết nó đóng vai trò gì. Sau khi nhờ chuyên gia kiểm tra, có thể sẽ vỡ ra.”
Nhà chứa than được xây dính vào tường, nằm hơi chếch về bên trái gian bếp. Page bước sang mở cửa, quả thấy lờ mờ người máy bên trong.
“Đó kìa,” Burrows reo.
“Brian,” Madeline cuống lên. “Tin em đi. Em không làm chuyện này. Em có gọi điện mượn nó đâu, thậm chí nghĩ đến cũng không. Em cần nó làm gì chứ?”
“Anh biết, anh biết mà,” Page nói. “Nhưng đúng là có kẻ khùng rồi.”
“Hay ta vào nhà đi,” Burrows đề nghị. “Tôi muốn bàn với hai người về việc này. Chờ tí, tôi ra ngoài bật đèn xe đã.”
Page và Madeline vào trong, đứng nhìn nhau. Trên sóng vô tuyến đã hết nhạc, chỉ còn ai đó đang nói chuyện, đề tài gì Page đã quên. Madeline tắt đài luôn. Trông cô có vẻ muốn phản ứng mạnh.
“Chuyện này không thật,” Madeline nói. “Chỉ là ảo giác. Chúng ta đang nằm mơ. Nhưng riêng một việc, em hi vọng không phải mộng.” Cô cười với Page. “Cái gì đang xảy ra vậy anh?”
Về sự biến trong vài giây kế đó, đến giờ Page vẫn không thật rõ. Anh nhớ đã cầm tay Madeline, mở miệng trấn an cô những phút giây bên cửa sổ đều là thật, các chuyện khác không đáng quan tâm. Rồi họ nghe tiếng nổ ngoài vườn, hay từ khu trồng táo. Nó đanh và giòn, to đến nỗi khiến người nhảy dựng. Tuy vậy, trong cơn mơ màng, họ cảm thấy nó rất xa xôi, không liên quan đến mình, bất chấp thực tế là âm thanh ở ngay bên, và một đồng hồ trong phòng chợt ngừng chạy.
Tai Page nhận rõ một đồng hồ ngừng chạy. Cùng lúc, mắt anh trông thấy cái lỗ tròn nhỏ trên kính cửa sổ, với nhiều vết nứt rạn chung quanh. Thế là đã rõ, đồng hồ chết, vì bị viên đạn găm vào.
Đồng hồ kia vẫn tích tắc.
“Lùi ra mau,” Page la. “Không thể nào, không tin nổi, nhưng đúng là có kẻ ngoài vườn bắn mình. Thằng Nat biến quái đi đâu rồi?”
Anh vội tắt đèn. Thấy nến còn cháy, anh thổi luôn, vừa lúc Burrows nhễ nhại mồ hôi xuất hiện. Như muốn giữ an toàn, gã lom khom leo qua cửa sổ, cái mũ trên đầu bẹp dúm.
“Có người…” giọng Burrows lạc hẳn.
“Chúng tôi biết rồi.”
Page dìu Madeline ra xa. Tính từ vị trí viên đạn trong đồng hồ, nó chỉ cần chệch sang trái năm tấc là trúng đầu Madeline, ngay chỗ tóc gợn trên tai.
Không nghe thêm phát đạn nào, chỉ có tiếng phập phồng hãi sợ của Madeline, và tiếng thở mạnh, chậm của Burrows bên kia. Burrows đang thủ thế bên khung cửa sổ trong cùng. Phòng tối om, chỗ gã đứng chỉ thấy đôi giày bóng loáng.
“Mày biết tao nghĩ chuyện gì đang xảy ra không?” Gã hỏi.
“Chuyện gì?”
“Để tao chỉ mày xem nhé?”
“Từ từ,” Madeline thì thầm. “Nghe kìa, hình như có người!”
Burrows giật mình, rướn cổ dòm, không khác rùa thò đầu khỏi mai. Nhận được tiếng Elliot bên ngoài, Page vội trả lời rồi chạy ra, gặp thanh tra đang chạy tới từ vườn táo. Mặt Elliot tỏ vẻ u ám, khó hiểu khi lắng nghe Page, cung cách anh trịnh trọng và hình thức.
“Tôi hiểu, thưa ông,” Elliot nói. “Ông cứ bật đèn lên. Không còn vấn đề gì nữa đâu.”
“Thanh tra, ông để yên như thế sao?” Burrows to tiếng phản đối. “Hay chuyện này là thường ở London, nên ông đã quá quen rồi? Chúng tôi thì không đâu nhé.” Gã giơ tay lau trán. “Phải lục soát khu vườn, lục soát vườn táo, súng bắn từ chỗ nào thì lục soát chỗ đấy.”
“Tôi đã nói,” Elliot hững hờ lặp lại, “không còn vấn đề gì nữa đâu.”
“Nhưng ai bắn? Bắn để làm gì?”
“Làm gì ư? Đã đến lúc đánh dấu chấm hết cho cái trò này. Kế hoạch của chúng tôi có thay đổi một chút. Bây giờ, để cho chắc, nếu không phiền, xin quý vị cùng về Farnleigh Close với tôi. Xin lỗi, đây là lệnh, không phải yêu cầu.”
“Ồ, có ai chống đối đâu,” Page niềm nở. “Cứ tưởng đêm nay hết vui rồi chứ.”
Elliot cũng cười, song cái cười gây cảm giác bất an.
“Ông nhầm.” Thanh tra nói. “Chuyện vui đêm nay ông chưa thấy đâu. Nhưng rồi sẽ thấy. Tôi cam đoan sẽ thấy. Nào, có ai đi xe không?”
Giữa lúc Burrows chở mọi người về điền trang, ai nấy đều băn khoăn về lời Elliot, cố hỏi thêm, thanh tra cũng không hở môi. Burrows đòi đem cả người máy theo, song Elliot bảo không có thời giờ, và không cần thiết.
Knowles dẫn khách vào nhà, lo âu ra mặt. Một lần nữa, tất cả lại tụ tập tại tâm điểm thư viện. Cũng như hai đêm trước, ánh điện tỏa ra từ đèn chùm trên trần, phản chiếu lên các khung cửa sổ. Tiến sĩ Fell ngồi trên chiếc ghế hôm nọ Murray an tọa, còn Murray ngồi phía đối diện. Tay tiến sĩ đặt lên can, môi dưới trề ra trên cằm. Vừa mở cửa, Page và các bạn đã cảm nhận không khí căng thẳng. Lúc ấy, Fell vừa mới nói xong, Murray đang run run đưa tay che mắt cho đỡ chói.
“A, xin chào, xin chào, xin chào,” Fell vồn vã một cách đáng ngờ. “Cô Dane, ông Page, ông Burrows. Triệu tập quý vị thế này thật không phải, song chúng tôi buộc phải làm. Tình thế đòi hỏi tất cả phải có mặt. Các ông Welkyn và Gore cũng đã được báo tin. Knowles, phiền ông thông báo cho phu nhân Farnleigh. Không, cứ sai cô hầu là được, tôi cần ông ở đây. Bây giờ, hãy bắt đầu bàn một số vấn đề.”
Nghe giọng điệu lạ, Burrows đắn đo trước khi ngồi xuống. Không nhìn Murray, gã đưa tay nêu ý kiến.
“Không việc gì phải gấp. Hượm đã, ông định bàn chi? Vấn đề có gây tranh cãi hay không?’
“Có đấy.”
Giữ vẻ băn khoăn, Burrows vẫn không nhìn về phía Murray. Page thì nhìn cả hai, và chẳng hiểu tại sao, cảm thấy tội nghiệp ông thầy. Trông ông ấy mòn mỏi, già nua quá.
“Vậy cụ thể là chuyện gì, thưa tiến sĩ?”
“Bản tính của một người. Hãy đoán đó là ai?”
“Tôi biết,” Page như vô tình buột miệng. “Chính là người đã dẫn dắt Victoria Daly đi vào Quỷ Đạo.”
Cái tên anh nêu mang sức mạnh lạ thường. Hai chữ Victoria Daly giống như một đạo bùa, vừa đưa ra mọi người đã muốn lảng ngay. Cái viễn cảnh Page vừa mở, dường như không ai muốn nhìn tới. Tiến sĩ Fell quay lại, nháy mắt, nét mặt quan tâm, hơi ngạc nhiên. Ông khịt mũi tán thưởng.
“Ồ, ông đoán ra được.”
“Tôi suy luận như thế. Người đó cũng là hung thủ?”
“Chính là hung thủ giết người.” Fell dùng gậy chỉ. “Tại sao ông suy luận thế? Hãy chia sẻ chúng tôi nghe, chắc rất hữu ích đấy. Nói đi ông bạn. Trước khi mình rời phòng này, sẽ còn khối điều kinh hơn điều ông sắp nói.”
Page từ tốn nhắc lại câu chuyện lúc nãy vừa kể cùng Madeline. Tuy không cố tình trau chuốt, ngôn ngữ của anh sống động và đầy hình tượng. Thanh tra Elliot lắng nghe, như nuốt từng lời. Tiến sĩ Fell cũng chăm chú, cặp mắt nhỏ, sắc sảo, không rời Page một giây. Thân thể xức dầu, căn nhà tối với cửa sổ mở toang, gã lang thang hoảng loạn, kẻ thứ ba lẩn quất đợi chờ, từng hình ảnh theo lời diễn tả của Page cứ thế hiện ra, như phim trên màn bạc.
“Có đúng không? Tiến sĩ và thanh tra cũng nghĩ như vậy chứ?” Madeline hỏi, sau khi Page kể dứt.
Fell gật đầu không nói.
“Lúc nãy tôi định hỏi Brian câu này, nhân thể hỏi ông luôn. Nếu quả không có hội phù thủy, nếu tất cả chỉ là giấc mơ, thì cái kẻ thứ ba ở đấy làm gì, mưu đồ chuyện gì? Còn những bằng chứng về ma thuật đã thu thập được thì sao?”
“À, bằng chứng…”
Tiến sĩ Fell ồ lên, ngưng một lúc, đoạn tiếp lời:
“Để tôi giải thích. Kẻ thứ ba này từ lâu đã âm thầm đam mê những trò phù thủy, các thứ biểu tượng tà ma. Ở đây tôi phải chỉ rõ và nhấn mạnh: Đam mê, song không phải tín đồ. Hắn rất hoài nghi thế lực bóng đêm, hay các chúa tể của ngã tư [*]đàng. Sở thích tà mị của hắn bị đè nén, giấu kín, bởi không thể để người ngoài biết. Chính vì thế, nó đã mạnh mẽ lại càng mãnh liệt hơn. Trước mặt quý vị, hắn mang vẻ ngoài hoàn toàn khác. Khi nói chuyện, chúng ta có thể tò mò, tỏ vẻ quan tâm chuyện quỷ thần, hắn thì không bao giờ. Hắn ôm trong lòng đam mê thầm kín, mong được sẻ chia, và hơn hết thảy, được thử nghiệm tà thuật trên người khác. Nỗi lòng ngày càng thôi thúc, không thể kìm mãi, rốt cuộc bùng nổ.
“Bùng nổ rồi sao? Hắn định làm gì? Có thể làm gì? Lập hội phù thủy ở Kent, thay thế hội cũ đã từng tồn tại hàng trăm năm trước? Tuy nghe thì hay, ý tưởng ấy rất viển vông, mà nhân vật của chúng ta lại là người thực tế.
“Trong hệ thống giai tầng của Quỷ Đạo, cấp nhỏ nhất là đàn, gồm 13 người: 12 thành viên, và 1 đàn chủ mang mặt nạ Janus. Được làm đàn chủ đương nhiên sẽ sướng như mơ. Nhưng vấn đề nằm ở đấy: Mơ đâu phải thật. Lập đàn là điều không tưởng, khó khăn trăm bề. Vả lại, đã là bí mật thì phải càng ít người biết càng tốt. Nếu có sẻ chia, thì chỉ nên sẻ chia trong phạm vi rất nhỏ mà thôi. Đông đến chục người không khỏi mất đi thú vị.
“Tôi lại nhấn mạnh: Dù cho thế lực hắc ám có thật, cái tổ chức bí mật này cũng không dính líu đến thế lực ấy. Nó không cao kì, không tham vọng đến vậy. Cũng không có điều luật chặt chẽ, hay được dẫn dắt bởi một lãnh đạo tài ba. Nó không phải một giáo phái chân chính, đúng nghĩa, chỉ là sở thích riêng của kẻ ngồi rồi, ưa thích điều tà. Thật tình mà nói, mỗi người có sở thích riêng. Nếu muốn chơi dại thì cứ việc, miễn không làm hại đến ai, không vi phạm luật pháp hay tục lệ, thì cảnh sát chẳng hơi đâu sờ tới. Sở dĩ cảnh sát phải can thiệp, là vì kẻ đầu têu đem các thứ thuốc độc gây ảo giác ra chơi, dẫn đến việc một phụ nữ sống ngay ngoài Tunbridge Wells phải chết vì bôi cà độc dược lên da (vụ đấy xảy ra 18 tháng trước, chúng tôi nghi ngờ mà chưa chứng minh được). Giờ quý vị đã hiểu lí do ban đầu đưa thanh tra Elliot tới đây, và vì sao anh ấy lại đặc biệt quan tâm tới câu chuyện của Victoria Daly.
“Còn chiêu trò của kẻ kia, quý vị có hiểu không?
“Hắn chọn vài người bạn thích hợp, dễ cảm thông, để chia sẻ bí mật. Không nhiều đâu, chắc từ hai đến bốn thôi. Họ là ai, có lẽ chẳng bao giờ biết được. Hắn kể nhiều chuyện họ nghe, lại tặng và cho mượn sách. Khi họ đã bị nhồi sọ, thích mê các chuyện hoang đường, là lúc thời cơ chín muồi. Hắn chớp lấy, bảo họ tại đây cũng có một phái Quỷ Đạo, sẵn sàng thâu nhận đệ tử.”
Nói đến đó, Fell trở nên bực bội, sốt ruột. Ông dập đầu can bịt sắt xuống sàn, gây tiếng động lớn.
“Sự thật đâu có phái phiếc nào. Vào đêm họp mặt, tín đồ không bước một bước ra khỏi phòng, đừng nói đến khỏi nhà. Nếu họ thấy điều gì thì đều do chất dầu đặc biệt mà ra. Hai nguyên liệu chính của dầu là cây phụ tử và cà độc dược.
“Trong các đêm ‘họp mặt’, kẻ đầu têu không dự, thậm chí không tới gần bạn đồng hội. Vì dầu xức có chất độc, có thể gây nguy hiểm, nên hắn phải phòng xa. Niềm vui, với hắn, nằm ở việc truyền bá tà đạo, phát tán những câu chuyện phiêu lưu hoang đường, chứng kiến đầu óc người khác mụ mị dần đi dưới ảnh hưởng của mê dược và huyễn tượng về nghi lễ Sabbath. Tóm lại, hắn thích chơi mấy trò tinh thần độc ác, đồng thời chia sẻ sở thích của mình trong một phạm vi rất hẹp và an toàn.”
Ai nấy trầm ngâm sau khi tiến sĩ dứt lời. Kennet Murray là người phá vỡ bầu im lặng.
“Nghe anh nói,” thầy nhận định, “tôi lại nhớ đến tâm lí của những kẻ chuyên viết thư nặc danh mạ lị thiên hạ.”
“Đúng đấy,” tiến sĩ Fell gật đầu. “Cũng tương tự, có điều hơi khác hơn, gây hại nhiều hơn.”
“Chuyện cái bà ở Tunbridge Wells tôi chưa nghe nói. Nếu anh không chứng minh được bà ấy chết vì độc dược, thì về lí thuyết, kẻ đầu têu đã làm việc gì phạm pháp đâu? Victoria Daly không bị trúng độc.”
“Việc đấy cũng tùy, ông ạ,” Elliot nhẹ nhàng giải thích. “Ta thường nghĩ: Hễ không nuốt vào, chất độc không gây hại. Song thực tế có thể khác. Mà thôi, vấn đề hiện tại không phải nó. Tiến sĩ Fell đang nói về điều bí mật.”
“Bí mật?”
“Bí mật của kẻ đầu têu,” Fell nói tiếp. “Để bảo vệ bí mật, hai đêm trước đây, hắn đã giết một người tại hồ, ngay trong khu vườn kia.”
Lại im lặng. Lần này là một thứ im lặng sợ sệt. Mọi người đều như co rúm.
“Nghe cũng hay,” Nathaniel Burrows đút một ngón tay vào cổ áo. “Hay thiẹt! Nhưng hình như tôi vào nhầm chỗ rồi. Tôi là luật sư, chứ đâu nghiên cứu ma giáo. Tôi chỉ quan tâm một điều, điều đó không phải tà ma ngoại đạo. Câu chuyện ông kể chẳng liên quan gì tới việc thừa kế điền trang họ Farnleigh hết.”
“Ồ, có chứ lị,” tiến sĩ Fell đáp. “Các chuyện khác đều từ chuyện này mà ra. Hi vọng trong vài giây nữa, ông sẽ hiểu.”
“Ông bạn này,” ông quay sang giải thích cho Page, “lúc nãy ông tự hỏi vì sao kẻ đầu têu lại có sở thích quái dị như vậy. Chỉ vì buồn chán? Hay đã nuôi lòng tà từ bé, và ngày một lớn dần? Tôi cho rằng vì cả hai. Trong vụ này, mọi thứ đều dính líu, cùng phát triển với nhau, giống như cà độc dược ở giữa rào cây, chúng quấn vào nhau, không thể chia lìa.
“Ai là kẻ mang bản năng tà đạo, luôn luôn phải đè nén xuống? Ai là kẻ để lại dấu vết cho ta theo, với những bằng chứng hiện có? Ai là kẻ duy nhất sở hữu khí cụ ma giáo lẫn giết người? Ai là kẻ buồn đau vì đang ngập tràn, dạt dào sức sống, nhưng phải chịu đựng một cuộc hôn nhân khổ sở, không tình yêu?”
Burrows chợt nghĩ ra, bèn đứng bật dậy.
Cùng lúc, cửa thư viện mở. Knowles thì thầm với ai đó còn đứng ở ngoài.
“Thưa ông,” mặt quản gia trắng bệch khi thông báo, “họ nói phu nhân không ở trong phòng. Lúc nãy, bà ấy đã xếp giỏ, lấy xe trong gara…”
“Quả không sai,” tiến sĩ Fell gật đầu. “Tôi bảo chẳng cần đi London là vậy. Mọi việc đã rõ khi bà ấy chạy trốn thế này. Giờ chỉ còn phải xin lệnh truy nã, bắt phu nhân Farnleigh vì tội giết người. Việc ấy cũng không khó.”
↩︎ Nguyên văn: “Spinster”.
↩︎ Nguyên văn: “Spindle” và “vinegar”.
↩︎ Thời xưa, các ngã tư, hay giao lộ, thường được cho là có ma ám.