← Quay lại trang sách

Chương 20

“Ơ kìa!” tiến sĩ Fell vừa khoái vừa hơi cáu, nhịp can trên sàn, nhìn quanh với vẻ khiển trách thân tình. “Đừng nói quý vị ngạc nhiên chứ hả? Đừng nói bị choáng nhé? Đặc biệt là cô đấy, cô Dane? Trước giờ cô không biết gì sao? Không biết Molly ghét cô lắm à?”

Madeline dùng mu bàn tay quệt ngang trán, đoạn níu lấy tay Page.

“Tôi không biết rõ,” cô đáp. “Thì cũng đoán được, nhưng đâu dám nói thẳng với ông, kẻo ông lại cho tôi là con nhiều chuyện, ngồi lê đôi mách.”

Trước thông tin mới, mọi người trong phòng đều trở nên suy tư, bận rộn điều chỉnh các dữ kiện trong đầu. Page cũng thế, song giữa dòng tư tưởng, anh bỗng nảy ra một ý khác lạ: Chưa xong, vụ này chưa xong đâu.

Ánh mắt tiến sĩ Fell, bàn tay xoay xoay trên can, thân hình hơi rung rinh qua lại, hết thảy đều gợi lên điều gì. Có vẻ cuộc chơi chưa hết, lá bài tẩy vẫn còn để dành. Phục binh sẵn đó, song chưa xông ra; súng đã lên nòng, song chưa bắn vào não bộ.

“Cứ nói,” Murray khẽ khàng. “Tôi không nghi ngờ gì. Nói tiếp đi.”

“Vâng, cứ nói,” Burrows lơ đãng ngồi xuống.

Chất giọng oang oang của tiến sĩ lại vang lên đều đều giữa thư viện tĩnh lặng.

“Xét các chứng cứ cụ thể, ngay từ đầu, sự việc đã khá rõ. Mọi biến loạn về tâm thần và thể lí đều bắt nguồn chính tại đây. Tâm điểm của mọi vấn đề là hốc sách khóa kín nằm trên gác xép. Có người hay lai vãng đến đó, lấy sách, đổi sách, nghịch ngợm các thứ linh tinh. Người này đầy sức sống, thích hành động, đã biến cái hốc thành hang ổ của mình.

“Người này có phải người ngoài không? Một anh hàng xóm lén lút mò vào chẳng hạn? Giả thuyết ấy không đáng cân nhắc, do nó quá hoang đường, hoang đường trên phương diện thực tế lẫn tâm lí. Thử hỏi: Ai lại đi làm tổ trên gác xép nhà người ta, nhất là căn nhà ấy lại đầy gia nhân. Chẳng lẽ tối nào cũng vào ra mà không bị phát hiện? Chủ nhân vừa thay ổ khóa mới, và theo dõi kĩ càng cơ mà. Đến đây, cần nhớ rằng,” Fell cười ngoác miệng hồn hậu, “cô Dane từng giữ một chìa khóa dẫn vào căn phòng nhỏ. Nhưng đấy là chìa ổ cũ, đã bị thay rồi.

“Câu hỏi tiếp theo: Ngài John Farnleigh phiền não chuyện chi?

“Quý vị thử nghĩ xem. Con người đạo đức ấy đã có đủ vấn đề của riêng mình, nay lại bị gì nữa mà cứ bồn chồn, ở trong nhà cũng không được yên? Ngoài chuyện nhân thân, tâm trí ông còn gì vướng bận? Tại sao đêm nọ, khi gia tài đứng trước nguy cơ bị mất, ông chỉ đi qua đi lại, nói về Victoria Daly? Tại sao ông quá quan tâm việc thám tử đến làng, điều tra ‘văn hóa dân gian’? Cái câu khó hiểu ông nói cùng cô Dane mang ý nghĩa ra sao? Quý vị nhớ không? Trong cơn xúc cảm, ông nhìn lên nhà thờ và nói: Nếu mai mốt, tôi ở vào địa vị…

“Địa vị để làm gì? Lên tiếng, chống lại những kẻ phỉ báng giáo hội chăng? Tại sao ông lên gác xép, cầm theo roi đánh chó trên tay, nhưng rồi lại xuống, mặt trắng bệch, đổ mồ hôi, không dám dùng roi đánh kẻ mình thấy?

“Vừa rồi tôi phân tích khía cạnh tinh thần. Cũng thuyết phục không kém là các bằng chứng về thể lí. Để trình bày cho rõ, tôi sẽ đi từng bước, theo dấu vết thời gian.”

Fell ngừng lại lấy hơi. Ông nhìn xuống bàn một lúc, vẻ u buồn, trầm lặng, đoạn lấy tẩu thuốc ra.

“Trước tiên, hãy nhìn lại thân thế của Molly Bishop, một phụ nữ cứng cỏi, một diễn viên tài ba. Hai đêm trước, Patrick Gore nhận xét một điều làm quý vị choáng váng, song điều ấy đúng. Hắn bảo: Molly chưa bao giờ yêu chồng, cổ chỉ nắm bắt, rồi tiến tới hôn nhân với cái ‘ảnh tượng’ của một thiếu niên mình quen biết từ thuở thiếu thời. Thật vậy! Rồi cổ nhận ra chồng mình chẳng phải thiếu niên ngày xưa, thậm chí có thể là một người hoàn toàn khác. Chắc cổ phẫn uất lắm, ta không biết được.

“Một đứa trẻ bảy tuổi sao đam mê đến thế, mang theo hình ảnh một người trong suốt bao năm?

“Không khó giải thích. Đấy là độ tuổi chúng ta định hình những sở thích cơ bản, do tương tác với thế giới bên ngoài. Ấn tượng ghi vào trí não mãi không mất đi, dẫu đôi khi ta ngỡ đã quên. Hồi tôi còn bé, trong phòng làm việc của cha tôi có treo bức tranh, vẽ mấy ông Hà Lan vừa béo vừa già, ngồi chơi cờ, hút tẩu cán dài. Tôi nhớ mãi đến ngày nay, hễ cứ gặp tranh ảnh nào giông giống vậy, tôi đều khoái cả. Quý vị cũng thế, có thể do ấn tượng tuổi thơ mà người này thích vịt, người kia thích chuyện ma, hay đam mê máy móc.

“Nào, ai là người duy nhất thần tượng, luôn luôn bảo vệ thiếu niên John Farnleigh? Ai đã được John Farnleigh dẫn vào rừng, đưa đi chơi trại di-gan (quý vị đừng quên trại di-gan, một chi tiết quan trọng)? Có lẽ Molly đã nghe John nhắc đến Quỷ Đạo, dù lúc ấy cổ còn chưa hiểu bài học trên lớp giáo lí, nói chi hiểu quỷ.

“Những năm tháng về sau thì thế nào? Ta không rõ sở thích của Molly phát triển lớn mạnh ra sao, chỉ biết cổ đi lại nhiều với nhà Farnleigh. Với Dudley bố và Dudley con, rõ ràng cổ có ảnh hưởng, nên mới đưa được Knowles vào làm quản gia. Đúng không, ông Knowles?”

Từ lúc tiến sĩ Fell lên tiếng buộc tội Molly, ông già bảy tư vẫn im lìm bất động. Khuôn mặt già rất trắng, mỗi khi xúc động thường thể hiện rõ ràng. Thế mà giờ đây, nó cứ trơ trơ. Già mở miệng, rồi lại đóng, không nói nên lời, chỉ gật đầu biểu ý đồng tình. Duy đôi mắt già lộ vẻ hãi hùng.

“Chắc Molly đã mượn sách trong thư viện kín từ lâu,” Fell tiếp. “Vài năm trước khi lấy chồng, cổ bắt đầu truyền bá Quỷ Đạo; Elliot chưa định rõ được thời điểm chính xác. Đàn ông trong vùng, khá nhiều người từng cặp bồ với cổ, nhiều đến mức quý vị phải ngạc nhiên đấy. Mấy người này không biết, hoặc không tiết lộ về sở thích lạ thường của cổ, nhưng chúng ta thì phải quan tâm, bởi chính nó đã gây nên thảm kịch.

“Cụ thể, chuyện gì đã xảy ra?

“Sau một thời gian dài, bỗng như trong mơ, người được cho là John Farnleigh trở về với điền trang cha ông. Molly Bishop đột nhiên thay đổi, rạng rỡ hẳn lên. Thần tượng đã về! Sư phụ đã về! cổ quyết tâm lấy John, bất chấp tất cả, cả việc John không còn như xưa. Họ làm lễ cưới hơn một năm trước, nói cho chuẩn là một năm ba tháng.

“Lạy Chúa, có cặp nào so le như cặp đó không? Tôi hỏi rất nghiêm túc. Giữa mẫu người Molly muốn và lầm tưởng mình sẽ cưới, với cái người cổ thật sự cưới, khoảng cách thật xa diệu vợi. Quý vị chắc đoán được, từ khi nhận ra bản chất Molly, John âm thầm coi rẻ cổ thế nào. Ông vẫn lịch thiệp với vợ, nhưng đấy là vẻ lịch thiệp lạnh lùng, băng giá. Cũng không khó để quý vị tưởng tượng cảm xúc thật của Molly, tuy cổ vẫn đóng vai hiền thê ân cần. Bề ngoài, người này giả vờ không rõ chuyện người kia và ngược lại. Sự thật, chỉ ít lâu sau hôn nhân, John đã biết chân tướng vợ, và Molly cũng biết thừa chồng mình không phải Farnleigh. Thế đấy, họ chia sẻ bí mật của nhau, ghét nhau mà không nói.

“Vì sao John không tố cáo Molly? Với người đạo đức khắc khổ như ông, Molly là kẻ đáng bị đánh bằng roi, đáng đọa địa ngục. Hơn thế nữa, cổ còn là tội phạm. Tôi nói tội phạm, thưa quý vị, vì cổ cung cấp cho người ta các loại thuốc nguy hiểm hơn cả heroin và cocain. Vụ Victoria Daly bị giết, cổ cũng dính líu. John nắm rõ hết, có phải không đâu. Quý vị cũng biết ông suy nghĩ gì, nổi giận ra sao.

“John cũng muốn tố cáo Molly mà không dám, bởi như đã nói, họ nắm giữ bí mật của nhau. Ông không chắc, và sợ mình không phải Farnleigh. Ông không biết Molly có nghi không, nhưng sợ rằng cổ nghi. Thậm chí, John còn sợ vợ nắm trong tay bằng chứng, có thể vạch rõ ông là người giả mạo. Nếu ông gây chuyện với Molly, bằng chứng ấy có thể bị tung hê.

“Đúng, John không cố tình giả mạo, song cũng không hẳn thánh thiện như cô Dane miêu tả. Vì mất đi trí nhớ, ông phải sờ soạng, dò dẫm. Bình thường, ông vẫn cho mình là Farnleigh thật. Sâu thẳm trong tâm hồn, ông không muốn thách thức định mệnh, trừ khi bị dồn vào chân tường, buộc phải đối mặt. Ông sợ sự thật, vì nó có thể chỉ ra: Bản thân ông cũng là tội phạm.”

“Không thể chịu nổi nữa rồi,” Nathaniel Burrows nhảy dựng, hét lên the thé. “Đủ lắm rồi. Thanh tra, ông bắt lão này câm miệng ngay. Vụ án chưa xong, lão không được ba hoa, gây định kiến cho người khác. Là người đại diện luật pháp, ông không có quyền bảo thân chủ tôi…”

“Ông cứ ngồi xuống thì tốt hơn,” Elliot nói nhỏ.

“Nhưng…”

“Tôi bảo ông ngồi.”

“Bác sĩ từng nói điều tương tự,” Madeline bỗng lên tiếng. “Đại khái là John mang một thứ mặc cảm tội lỗi, tuy ảnh không hiểu rõ nó là gì. Mặc cảm khiến John sống khắc khổ hơn cả tín đồ Thanh giáo, và dường như giữ vai trò rất lớn trong vụ này. Tôi vẫn thấy chưa hiểu. Ông có thể giải thích được không?”

Tiến sĩ Fell đặt chiếc tẩu không lên miệng.

“Lời giải thích là chiếc bản lề cong trên cửa trắng. Mấu chốt vụ này là nó đó. Từ từ tôi sẽ nói sau.

“Trở lại với hai vợ chồng khốn khổ nhà Farnleigh, mỗi người nắm một bí mật, giữ chặt như dao găm trong tay áo. Họ đóng kịch với đời, và cả với nhau. Đám cưới mới ba tháng thì Victoria Daly, nạn nhân của trò phù thủy, qua đời. Ta có thể đoán tâm trạng John lúc bấy giờ. “Giá tôi được ở vào địa vị…” trở thành điệp khúc lặp đi lặp lại trong đầu ông. Song John không có địa vị đó, cái thế của ông bắt ông phải ngậm tăm, nên Molly an toàn. Trong hơn một năm, Molly an toàn.

“Đùng một cái, có kẻ đến giành quyền thừa kế điền trang. Những tình huống có thể xảy ra hiển hiện trong đầu Molly, rõ ràng, rành mạch, như a, b, và c:

“John không phải người thừa kế thật, Molly đã biết từ trước.

“Người thừa kế thật nhiều khả năng là kẻ kia.

“Nếu kẻ kia mới là thật, John sẽ mất tất cả.

“Nếu mất hết rồi, John không còn chi để sợ, tất sẽ tố cáo Molly.

“Do đó, John phải chết.

“Đơn giản và chắc chắn như thế đấy, thưa quý vị.”

Kennet Murray ngọ nguậy trên ghế, bỏ bàn tay đang che mắt xuống:

“Anh cho tôi hỏi: Vụ này đã được hoạch định từ lâu phải không?”

“Không, không,” tiến sĩ Fell sốt sắng. “Tôi nhấn mạnh là không. Kế hoạch rất khéo, được thực thi một cách tuyệt vời, song chỉ mới nảy ra trong phút giây tuyệt vọng hai đêm trước thôi. Hung thủ ra quyết định rất nhanh, y như lúc đẩy con người máy xuống thang.

“Để tôi giải thích. Molly chắc đã biết về nguyên cáo từ lâu, không đợi đến khi John nói. Ban đầu, cổ không sợ, vì nghĩ chồng sẽ đấu tranh tới cùng. Tuy ghét John, cổ biết lúc này, hơn lúc nào hết, phải đứng về phía ổng. Cổ thúc giục chồng đánh lại bên kia, thậm chí còn đánh giùm chồng nữa. Với luật pháp hiện hành, khả năng John thắng kiện khá cao, vì các điền sản đã có chủ, chính thức hóa đàng hoàng, tòa án rất ngại đụng vô. Song song đó, dù thắng hay thua, vụ kiện sẽ kéo dài, giúp Molly có nhiều thời gian suy nghĩ.

“Tuy nhiên, Molly không biết chuyện dấu vân tay. Bên kia che giấu kín, hai đêm trước mới tiết lộ. Vân tay thì quá rõ rồi, không chối vào đâu được, chỉ nửa giờ là minh bạch trắng đen. John trung thực thế nào, Molly quá hiểu. Chỉ cần sự thật được chứng minh, khiến John nhận ra mình chắc chắn không phải Farnleigh, ông sẽ chấp nhận ngay thực tế ấy.

“Bằng chứng vân tay như lựu đạn nổ tung, đẩy Molly đứng trước hiểm họa. Quý vị còn nhớ động thái của John trong đêm? Nếu lời quý vị kể cho tôi là đúng, dù nói gì, làm gì, ông cũng thể hiện một thái độ tự tin và coi thường, kiểu như: ‘Bài sát hạch đây à? Nếu ta vượt qua thì quá tốt. Nếu không, thì vẫn còn một điều an ủi, có thể đền bù gần đủ cho mọi sự mất mát. Ta sẽ tự do vạch ra chân tướng con vợ mình’. Khịt khịt, tôi diễn dịch như thế có đúng không?”

“Đúng đấy,” Page công nhận.

“Vậy là Molly phải làm liều, và làm ngay. Ngay tắp lự, trước khi việc so sánh dấu tay hoàn tất. Rốt cuộc, cổ đã giết chồng, thành công tuyệt hảo, cũng như hôm qua, cổ ra tay trên gác xép, trước khi tôi kịp mở mồm.”

Mồ hôi đầm đìa trên gương mặt trắng của Burrows. Nãy giờ, gã gõ mãi lên bàn, kêu gọi mọi người chú ý mà không được. Trông bộ điệu, dường như gã chưa hết hi vọng.

“Xem ra không thể cản nổi ông,” Burrows nói. “Cảnh sát không can thiệp, tôi phản đối cũng vô hiệu. Nhưng ông ơi, chưa nói tới chuyện vô bằng vô cớ, chỉ riêng khoản mồm mép, ông cũng chưa thuyết phục. Chừng nào ông giải thích được vì sao ngài John đứng một mình, không ai kế bên, mà vẫn bị giết… chừng đó tôi…” gã lắp bắp đến nghẹn lời, sau đó khoát tay, “ông không giải thích được.”

“Ồ, được chứ,” tiến sĩ Fell đáp trả.

“Bước đột phá đến vào phiên pháp y hôm qua,” ông nhớ lại. “Khi quý vị khai lần đầu, tất cả đã được lưu. Trước tòa, chúng tôi chỉ rà soát lại. Nhưng rồi, phép lạ bỗng xảy ra, khi có người tự dưng khai thêm bằng chứng quan yếu. Chúng tôi thu nạp ngay, kết nối các dữ kiện, nạp cho bên công tố. Sau đó,” ông ra dấu, “chỉ việc kéo giá treo cổ.”

“Bằng chứng tại phiên pháp y?” Murray ngó tiến sĩ chằm chằm. “Ai cung cấp?”

“Ông Knowles.”

Viên quản gia rên lên. Già bước lên trước, lấy tay che mặt, song không nói gì.

“Tôi biết, tôi biết,” Fell ngắm Knowles. “Sự quả không ngờ, như liều thuốc đắng. Chính ông đấy, Knowles. Ông cưng Molly từ bé, yêu mến cổ biết chừng nào. Khi khai trước tòa, ông chỉ cố gắng nêu lên sự thật. Song vô hình trung, chính ông kéo giá treo Molly vậy.”

“Có người nghĩ ông nói dối,” tiến sĩ ung dung nói tiếp, mắt không rời Knowles, “tôi thì không. Ông bảo ngài John Farnleigh tự tử, sau đó, lục lọi từ trong tiềm thức, kể thêm đã thấy nạn nhân quăng dao đi. Vâng, ông bảo đã thấy con dao trên không. Điều ấy càng củng cố thêm câu chuyện của ông.

“Tôi biết ông không dối, vì lần đầu nói chuyện cùng tôi và Elliot, ông cũng gặp rắc rối ngay chỗ này. Ông đắn đo, lần mò trong một kí ức không rõ ràng. Khi Elliot hỏi gắt, ông hoang mang lắc đầu. Nguyên văn lời ông: ‘Còn tùy thuộc con dao to hay nhỏ. Trong vườn nhiều dơi lắm. Đôi khi, một trái banh quần vợt cũng không thấy được, cho đến khi…’ Cách dùng từ của ông ở đây rất quan trọng. Nói cách khác, ý ông là: Lúc sự biến xảy ra, ông có thấy vật gì đang bay. Có điều, tiềm thức ông không ghi nhận được nó bay ngay trước hay ngay sau khi nạn nhân bị chém.”

Tiến sĩ xòe hai tay.

“Con dơi hay quá nhỉ,” Burrows cao giọng mỉa mai. “Trái banh còn hay hơn.”

“Vật ấy cũng giống trái banh quần,” Fell nghiêm túc, “nhưng nhỏ hơn. Nhỏ hơn nhiều.

“Tạm gác nó một bên, hãy xét lại các vết thương trên cổ nạn nhân. Ta đã nghe nhiều bình luận về chúng, có lời đầy cảm tính, có lời đáng kinh ngạc. Ông Murray khẳng định chúng do móng vuốt hay răng nanh chi đó gây ra, không phải do con dao vấy máu tìm thấy trong giậu cây. Nếu quý vị tường thuật đúng, thì cả Patrick Gore cũng đồng ý như thế. Gore nói gì? ‘Tớ chưa từng thấy chuyện gì giống vậy, kể từ khi Barney Poole, nhà xiếc thú số một vùng phía tây Mississippi, bị con báo vồ.’

“Vậy, xuyên suốt sự vụ, ta có bằng chứng về móng vuốt. Nghe lời khai, đã thấy mang máng rồi, đọc bản khám nghiệm của bác sĩ King tại tòa, lại càng rõ ràng hơn nữa. Tôi có lời bác sĩ đây. Khịt khụt, để tôi đọc. ‘Có ba vết cắt khá nông’, bác sĩ nói.”

Fell ngừng một chút, nhìn cử tọa chăm chú.

“Nguyên văn: ‘Có ba vết cắt khá nông, bắt đầu từ bên trái họng, kết thúc chỗ dưới góc hàm phải, theo hướng hơi ngược lên trên. Trong ba vết này, hai vết vắt chéo nhau.’ Câu này còn quan trọng hơn nữa: ‘các mô bị rách nhiều.’

“Mô rách nhiều ư? Con dao mà thanh tra Elliot cho quý vị thấy, tuy nó có khía nhưng rất sắc, sao lại làm rách nhiều được? Rách nhiều thì chỉ có thể…

“Thôi nào, hãy trở lại, kiểm tra giả thuyết về móng vuốt, vết thương do móng vuốt gây ra thì có đặc điểm gì, khớp với vụ giết ngài John Farnleigh chăng? Đặc điểm có ba. Thứ nhất: Nông. Thứ hai: Những điểm nhọn trên móng vuốt không cắt, mà cào, xé, gây rách. Thứ ba: Móng vuốt cào, xé cùng lúc, không cắt những vết riêng biệt.

“Các điểm trên đều khớp với mô tả vết thương trên họng Farnleigh. Tuy nhiên, quý vị cũng nên chú ý: lời khai tại tòa của bác sĩ King hơi lạ. Ông không gian dối, song nói chuyện theo kiểu lắt léo, mơ hồ, tạo cảm tưởng Farnleigh tự sát. Vì sao? Cần nhớ: Cũng như Knowles, King thương yêu Molly từ bé. Molly là con người bạn thân nhất của ổng, gọi ổng là chú Ned. Chắc ổng cũng rành tính cách Molly. Nhưng không như Knowles, lời khai của King bảo vệ cho Molly, không đưa cổ ra giá treo.”

Mồ hôi đẫm trán, Knowles giơ tay như thể thỉnh cầu. Già vẫn nín thinh.

“Ông Murray từng nói về vật thể bay trên không, và đặt nghi vấn rất xác đáng: Nếu con dao là hung khí, lẽ ra nó phải nằm dưới đáy hồ. Về cơ bản, ông ấy đã đúng. Thế hung khí là gì, mà nhỏ hơn trái banh, có thể bay đến Farnleigh trong bóng tối? Nó lại có móng vuốt, hoặc những mũi nhọn, để lại dấu vết tương tự…”

“Đã đến hồi móng vuốt biết bay,” Burrows cười gằn chế giễu. “Tiến sĩ ơi, ông bảo tôi với, móng vuốt nào lại bay được vậy?”

“Không những bảo mà thôi, tôi còn cho ông xem. Thật ra, ông thấy hôm qua rồi.”

Từ chiếc túi rộng bên hông, Fell rút ra một vật, bọc bằng khăn tay in hoa đỏ. Ông thận trọng mở khăn, tránh mũi nhọn đâm thủng vải, để lộ vật thể bên trong. Nhận thấy nó, Page choáng váng, hoang mang. Nó chính là quả cầu đựng trong hộp gỗ, chỗ gác xép. Quả cầu bằng chì, nhỏ mà nặng, trên gắn bốn móc câu lớn, loại dùng đánh bắt cá dữ biển sâu.

“Ông biết công dụng của cái này không?” tiến sĩ hỏi, giọng hòa nhã. “Mình không biết dùng nó làm chi, chứ với người di-gan ở Trung Âu, tôi nhắc: di-gan, nó là khí cụ rất nguy hiểm và hữu hiệu. Thanh tra, phiền anh đưa tôi cuốn sách của Gross.”

Elliot mở cặp, lấy một quyển sách bèn bẹt, khổ to, có bìa màu xám.

“Cuốn này,” tiến sĩ Fell tung sách trên tay, “là giáo khoa toàn diện nhất về tội phạm học từ trước đến [*]nay. Tôi nhờ họ gửi từ London tối qua để kiểm chứng thông tin. Xem trang 249 - 250, quí vị sẽ thấy miêu tả đầy đủ về quả cầu chì. Nó là vũ khí của dân di-gan. Họ dùng nó thực hiện nhiều vụ trộm, người ngoài không biết, thấy rất bí ẩn, thậm chí nghi ngờ có cả yếu tố siêu nhiên. Quả cầu được buộc vào một sợi dây câu cực mảnh song cực chắc. Muốn lấy thứ gì, ở hướng nào, chỉ việc quăng dây về hướng đó, như quăng mỏ neo. Quả cầu nặng giúp dây bay được xa, cái móc bên trên sẽ kéo về vật cần lấy. Sau đây là một đoạn trong sách:

‘Dân di-gan, đặc biệt trẻ em, rất giỏi việc phóng, ném. Trẻ em sắc tộc nào cũng thích chơi ném đá, nhưng thường chỉ thi nhau xem ai ném xa hơn. Trẻ em di-gan thì khác. Chúng lựa những hòn đá to cỡ hạt đậu, xếp lại thành đống, sau đó chọn một cái bia, chẳng hạn tảng đá lớn, tấm ván nhỏ, hoặc mảnh vải cũ. Đứng cách từ 10 tới 20 bước chân, chúng lấy đá trong đống, luyện ném vào bia sao cho chính xác. Cứ thế, chúng tập hàng giờ, tới khi thành thạo thì bách phát bách trúng, miễn là mục tiêu to to một chút, cỡ bằng bàn tay trở lên. Thành thạo rồi, bước kế tiếp là tập quăng móc câu…

‘Thiếu niên di-gan được cho là thành tài, nếu có thể quăng móc, lấy thành công mảnh vải đặt trên cành cây.’

“Từ trên cây đấy nhé! Tài kinh chưa! Cho nên lấy đồ trong sân rào, hoặc cửa sổ có chấn song, với họ chỉ là chuyện nhỏ. Móc câu dùng làm vũ khí thì rất khủng khiếp, quý vị có thể tưởng tượng được. Người ném có thể xé rách cổ họng địch thủ, rồi thu dây về.”

Burrows không nói gì. Murray phát ra một tiếng rên.

“Nhờ cô Dane kể, ta biết Molly có khả năng quăng ném siêu đẳng, nhờ được học với người di-gan. Cổ cũng quyết định cực nhanh, hành động bất thần, khó lường.

“Lúc xảy ra án mạng, Molly ở đâu? Không cần phải nhắc: Ở ban công phòng ngủ, trông xuống hồ. Vâng, cổ đứng ngay trên hồ, vì phòng ngủ nằm trên phòng ăn. Giống Welkyn, Molly chỉ cách hồ độ năm thước, chỉ khác cái người dưới thấp, kẻ tuốt cao. Có cao lắm không? Không đâu. Ông Knowles đã cung cấp thông tin vô giá để chúng ta treo cổ Molly. Cũng chính ông cho biết: Chái mới của khu nhà được ‘xây thấp như nhà búp bê’. Ban công chỉ cao hơn vườn chưa đầy ba thước.

“Bấy giờ trời tối, ngài John đứng dưới, Molly ở trên, có thế để vung tay ném mạnh. Chính Molly thừa nhận, phòng ngủ không bật đèn, cô hầu thì ở phòng kế. Điều gì dẫn đến hành động bộc phát chết người? Molly thì thầm điều gì để chồng ngẩng lên chăng? Hay ông đã ngẩng sẵn, cái cổ ngước cao, lặng ngắm một vì sao?”

Đôi mắt Madeline ngày càng kinh hoàng. Cô lặp lại: “Ngắm một vì sao?”

“Ngôi sao của cô đấy, cô Dane,” tiến sĩ Fell nghiêm trang. “Tôi đã trao đổi với nhiều người, và tin đó là ngôi sao của cô.”

Gọi là ‘của Madeline’, vì cô từng đặt cho nó cái tên rất nên thơ. Page chợt nhớ, vào đêm án mạng, khi đi dạo bên hồ trong vườn, anh cũng nghĩ về nó. Đêm ấy, nó là vì sao độc nhất trên vòm trời đông. Từ hồ, muốn thấy vì sao, chỉ cần nghển cổ, nhìn lên phía trên dãy ống khói của chái nhà mới.

“Vì John thân với cô, Molly căm lắm. John vô tình không biết, quay lưng lại vợ mà chiêm ngưỡng ‘sao Madeline’. Rất có thể, đấy là chất xúc tác cuối cùng, khiến Molly đùng đùng hành động. Tay cầm quả cầu, tay kia nắm dây câu, cổ hạ thủ liền.

“Quý vị, xin nhớ lại hành vi lạ lùng của nạn nhân trước khi chết. Những người đã chứng kiến thảm cảnh đều bối rối, không biết tả lại sao cho đúng. Có phải ông ấy ngạt thở, loạng chạng, co giật, trước khi bị kéo xuống hồ? Hình ảnh ấy gợi nhớ cái gì? Quý vị đã nhớ ra chưa? Rồi à? Rất giống phải không? Giống con cá bị mắc câu. Thật vậy, nạn nhân đã bị câu. Molly khéo điều khiển, không cho các lưỡi móc vào quá sâu. Các mô thì bị rách nhiều, ai cũng nhận thấy, vết thương đi từ trái sang phải, theo hướng ngược lên trên; nạn nhân ngã xuống hồ, đầu hơi hướng về chái nhà mới. Khi chồng đã ngã, Molly mới thu vũ khí về.”

Tiến sĩ Fell giơ cao quả cầu, nét mặt nặng nề:

“Còn cái vật xinh xinh này, khi tiếp xúc nước hồ, nó được rửa sạch, nên không để lại vết máu hay dấu vết nào khác. Nước hồ bị khuấy động, tràn ra bãi cát, song đó là do John quẫy đạp. Tuy vậy, lúc dây được thu về, nó vướng vào bụi cây, gây nên tiếng sột soạt.

“Điểm này rất thú vị đây. Nhớ lại xem. Ai là người duy nhất nghe tiếng sột soạt? Chính là Welkyn, vì ổng ở gần, ngay trong phòng ăn bên dưới. Tiếng động không thể do người gây ra, vì chẳng ai chui xuyên nổi giậu thủy tùng cực dày. Quý vị cứ thử chui sẽ biết. Trung sĩ Burton chỉ thò tay trong giậu tìm dao, cũng đã trầy vi tróc vẩy rồi. Con dao đấy bên trên có sẵn nhiều dấu tay nạn nhân. Nó không do ai quăng, mà được cắm vào giậu.

“Tôi không làm phiền quý vị với các chi tiết chi li nữa. Tóm lại, đây là một trong những vụ giết người thâm hiểm nhất mà tôi từng biết. Với lòng oán ghét sục sôi, Molly đã mưu tính và thực thi kế hoạch một cách chớp nhoáng, rốt cuộc thành công. Như vẫn thường làm trước đây, cổ câu người, và đã câu được. Đương nhiên, trước mặt không có đường thoát. Cảnh sát sẽ sớm tóm Molly. Hung thủ sẽ sớm bị treo cổ. Trong phút giây đầy cảm hứng, Knowles giải thích cho chúng ta đường bay của trái banh quần vợt lúc hoàng hôn. Công lí được thực thi chính nhờ Knowles vậy.”

Tay Knowles hơi vẫy vẫy, như muốn gọi xe buýt, mặt thì như chàm đổ, làm Page lo già sắp ngất đến nơi. Nhưng già cương quyết không mở miệng.

“Rất hay, rất khéo,” mắt Burrows chợt sáng, dường phát hiện điều chi. “Song toàn láo khoét cả. Tôi sẽ đấu với đến cùng với ông tại tòa. Chính ông thừa biết thông tin của ông sai bét. Lời chứng những người khác, ông để đâu? Welkyn chẳng hạn. Welkyn bảo có người ngoài vườn, ổng chính mắt trông thấy. Ông giải thích sao? Không thể bác bỏ lời khai của Welkyn.”

Thấy mặt tiến sĩ Fell tái đi, Page hơi hoảng. Hết sức chậm rãi, Fell đứng lên. Ông trông xuống mọi người, tay ra dấu về phía cửa:

“Ông Welkyn kìa, đang đứng ngay sau ông. Hỏi đi. Hỏi xem bây giờ ổng đã biết cái bên ngoài vườn là cái gì chưa.”

Mọi người quay lại. Chẳng biết Welkyn đã đứng trên ngưỡng cửa bao lâu. Vẫn chải chuốt, đỏm dáng, ra vẻ hồn hậu, song lão dường như bối rối, tay đang giơ lên kéo môi dưới.

“Ơ ơ…” lão hắng giọng.

“Ông đã nghe tôi,” tiến sĩ Fell nói lớn. “Giờ nói đi chứ. Ông có chắc đã thấy vật gì ngoài vườn nhìn mình? Liệu ngoài vườn có gì thật hay không?”

“Tôi đang suy ngẫm lại.”

“Kết quả?”

“À… thưa quý vị,” Welkyn ngập ngừng, “xin quý vị nhớ lại chuyện hôm qua, lúc mọi người lên gác xép xem xét các thứ vật lạ. Rất tiếc, tôi không đi cùng. Mãi hôm nay, nhờ tiến sĩ Fell cho coi, tôi mới thấy mấy thứ đó. Tôi đặc biệt quan tâm cái mặt nạ Janus màu đen mà hôm qua quý vị tìm được trong hộp gỗ.”

Lại hắng giọng.

“Toa rập với nhau cả rồi,” Burrows quay trái quay phải như người tìm cách qua đường. “Cả bọn cùng âm mưu ám muội, nhưng không ăn thua gì đâu…”

“Ông để tôi nói hết coi nào,” Welkyn bực mình quặc lại. “Tôi từng khai có một khuôn mặt nhìn mình qua ô cửa kính dưới thấp. Giờ tôi biết rồi. Nó chính là mặt nạ Janus. Vừa thấy, tôi nhận ra ngay.”

Tiến sĩ Fell giải thích. “Phu nhân Farnleigh buộc mặt nạ vào một sợi dây câu khác, thòng xuống phía dưới phỉnh tôi, làm tôi tưởng thật sự có người bên ngoài. Không may, dây thòng quá sâu, cho nên…”

Cuối cùng, Knowles cũng lên tiếng.

Già bước đến, đặt tay lên mặt bàn, nước mắt lăn trên má. Trong cơn thổn thức, già nói gì không ai nghe rõ. Khi đã nghe rồi, ai cũng choáng hồn, như đang chứng kiến đồ vật nói chuyện.

“Láo! Láo hết!”

Knowles đập tay thình thịch, bộ điệu rối trí, đáng thương.

“Đúng như ông Burrows nói. Láo, láo, láo, và láo. Chúng mày đều toa rập với nhau.” Giọng già rền rĩ, điên dại, tay đập không ngừng trên bàn. “Chúng mày đều chống lại nó, không ai cho nó cơ hội. Nó kì quặc một chút thì đã sao? Nó đọc sách, tán tỉnh vài thằng, thì đã sao? Nó như đứa bé, muốn đùa vui như hồi nhỏ thôi mà. Nó không muốn hại ai, không định hại ai. Chúng mày đừng hòng treo cổ nó. Thề có Chúa, đừng hòng. Tao sẽ không cho ai đụng vào tiểu thư. Bảo cho mà biết.”

Qua màn nước mắt, Knowles ngoắc ngón tay về phía cử tọa, giọng ngày càng cao, như thét như gầm.

“Chúng mày tính toán, suy diễn đến đâu cũng không qua mặt được tao đâu. Cái thằng ăn mày vừa ngốc vừa điên, mò đến đây giả làm cậu John, Molly không hề giết hắn. Khốn kiếp, hắn mà là cậu John ư? Hắn mà là người gia đình Farnleigh ư? Ăn mày thì có. Hắn chết là đáng. Tao chỉ tiếc hắn không chết thêm mấy lần. Chúng mày không biết hắn trong chuồng heo chui ra à? Tao chả thèm quan tâm hắn, nhưng cấm chúng mày hại đến tiểu thư. Nó không giết hắn, không bao giờ. Tao chứng minh được.”

Tất cả lặng yên, chỉ còn tiếng can trên sàn, và tiếng thở khò khè của tiến sĩ Fell. Ông bước đến, đặt tay lên vai Knowles, nói giọng nhẹ nhàng: “Tôi biết, Molly không giết.”

Knowles chẳng hiểu làm sao, vẫn như mê loạn, ngó sững tiến sĩ.

“Thế nghĩa là,” Burrows la, “nãy giờ ông ngồi đây, bịa chuyện ra để…”

“Ông nghĩ tôi thích lắm sao?” Fell hỏi lại. “Chẳng qua tôi buộc phải làm. Những điều tôi nói về quỷ hội Molly lập ra, và quan hệ của cổ với nhà Farnleigh, đều đúng. Đúng hết. Chính Molly chi phối, vì Molly mà hung thủ giết người. Nhưng cổ không giết, không làm hình nhân hoạt động, và không phải người đứng trong vườn. Tuy nhiên,” tay ông giữ chặt vai Knowles, “ông hẳn hiểu luật pháp. Luật không đùa, và có thể nghiền nát người ta. Tiến trình pháp lí đã bắt đầu. Phu nhân Farnleigh sẽ bị treo cao hơn cả [*]Haman, nếu ông không khai sự thật. Nói đi, ông có biết hung thủ là ai?”

“Hừ!” Knowles gầm gừ. “Đương nhiên là biết.”

“Là ai?”

“Dễ thôi mà. Thằng ăn mày dốt nát đã phải trả giá. Hung thủ chính là...”

↩︎ Điều tra hình sự - sổ tay thực hành dành cho thẩm phán, cảnh sát, và luật sư (Criminal Investigation - A Practical Handbook for Magistrates, Police Officers, and Lawyers); dịch và chuyển thể từ System der Kriminalistik của TS Hans Gross, Giáo sư Tội phạm học, Đại học Prague; bởi John Adam, ThS, Luật sư, và J. Collyer Adam, Luật sư; biên tập bởi Norman Kendal, Trợ lí giám đốc, Phòng Điều tra Hình sự, Cảnh sát Đô Thành. (NXB Sweet & Maxwell, London, 1934.) — John Dickson Carr

↩︎ Một nhân vật trong kinh Cựu Ước Kitô giáo. Ông này bị treo cổ lên giá cao.