← Quay lại trang sách

Chương 21 Thứ bảy, 8 tháng 8-Bản lề rơi xuống

Có một điều Hambeau không thể che giấu, dù khéo dịch dung đến đâu. Ấy là chiều cao nổi bật của hắn. Cặp mắt Valentin rất nhanh nhạy. Nếu bắt gặp người nào cao ngòng, dù là chị bán táo, chàng vệ binh, hay thậm chí nữ công tước, anh sẽ bắt tại chỗ. Có điều, dọc suốt chuyến tàu, chẳng thấy ai giống như Hambeau giả trang. Giữa mèo và hươu cao cổ, lẫn lộn thế nào được.

G. K. Chesterton, Thập tự [*]xanh

Lá thư của Patrick Gore (trước là John Farnleigh) gửi tiến sĩ Gideon Fell.

Bên ngoài biên giới,

Ngày X tháng Y.

Tiến sĩ thân mến,

Tôi là thủ phạm đây. Một mình tôi giết kẻ giả danh, và gây nên đủ điều khiến ông kinh động.

Tôi viết thư này vì một số lí do. Thứ nhất: Dù biết thế là ngốc, tôi vẫn khoái và kính trọng ông. Thứ hai: Ông đã làm quá tốt. Tôi rất ngưỡng mộ, muốn xác minh xem mình có hiểu đúng những suy luận của ông hay không. Vì ông, tôi phải chuồn từ phòng này sang phòng khác, cửa này sang cửa khác, sau cùng phải bỏ nhà trốn đi. Trên đời, duy nhất ông bắt thóp được tôi (hễ cứ đứng trước mấy ông thầy giáo, tôi lại không thể hiện phong độ tốt nhất). Thứ ba: Tôi cho rằng mình đã tìm được lớp vỏ ngụy trang hoàn hảo tối đa. Nay lớp vỏ ấy trở nên vô dụng, tôi muốn khoe khoang về nó một chút.

Tôi hi vọng ông sẽ hồi âm. Lúc ông đọc thư, tôi và Molly yêu dấu đang ở nước ngoài, một nước không có hiệp ước dẫn độ với Anh Quốc, và tràn đầy nắng ấm. Hai chúng tôi, ai cũng yêu nắng ấm. Khi nào ổn định nhà cửa, tôi sẽ cho ông hay địa chỉ cụ thể.

Xin yêu cầu ông một điều. Chúng tôi rút chạy thế này, tất sẽ gây cơn bão dư luận khủng khiếp. Chắc chắn, lũ nhà báo, quan tòa, và những kẻ xuyên tạc khác, sẽ miêu tả tôi như một thứ ma sói, quỷ sứ, quái vật, v.v... Ông biết rõ tôi không phải vậy. Thích thú gì cái việc giết người. Song tôi không theo lối đạo đức giả mà bảo rằng mình ăn năn việc giết thằng con lợn kia. Molly và tôi khác với thiên hạ. Chúng tôi chỉ muốn làm đời vui hơn với những nghiên cứu, mộng mơ của mình. Hi vọng công việc chúng tôi làm sẽ truyền cảm hứng cho dân quê ngoại thành, dẫn đến một tương lai tốt đẹp. Do đó, nếu gặp đứa ngốc nào đang bình luận về tên quái nhân và con vợ phù thủy, ông làm ơn nói giùm: Chính ông đã dùng trà cùng chúng tôi, không thấy chúng tôi có sừng hay dấu hiệu ma quỷ nào cả.

Giờ đây, tôi sẽ kể bí mật đời mình, cũng là bí mật vụ án, khiến ông tất tả điều tra bấy nay. Bí mật rất đơn giản, gói gọn trong bốn chữ sau:

Tôi không có chân.

Tôi không có chân. Do thằng lợn kia, hai chân tôi bị nghiền trên tàu Titanic, sau đó bị phẫu thuật cắt bỏ vào tháng 4 năm 1912. Những cặp chân giả tôi dùng, tuy rất tuyệt, không hoàn toàn che giấu được khuyết tật. Ông đã thấy dáng đi của tôi, không hẳn khập khiễng, song hơi chậm chạp, vụng về. Tôi không thể đi nhanh; nếu cố, sẽ lộ tẩy ngay, về việc này, và việc trên tàu, lát nữa tôi thuật kĩ sau.

Ông biết không? Cặp chân giả giúp ích rất nhiều nếu muốn giả trang. Thông thường khi giả trang, ta đội tóc, đeo râu, bôi phấn sáp. Cũng có thể lấy đất sét đắp mặt, hoặc độn lót các thứ trong người, nói chung là đủ cách, từ lố bịch tới tinh tế. Nhưng thật đáng ngạc nhiên, cách đơn giản nhất để đánh lừa con mắt, ta lại không nghĩ tới. Thường nghe: ‘Dù có làm gì, không ai ngụy trang được chiều cao’. Tôi xin tuyên bố: Tôi muốn cao thế nào tùy ý, và từ nhiều năm nay, tôi vẫn thay đổi chiều cao của mình.

Tôi vốn không cao. Dù sự cố xảy ra hay không, tôi đoán mình vẫn không cao. Nếu thằng bạn nhỏ trên tàu Titanic không ra tay, chắc ngày nay tôi độ 1m65. Nhưng vì mất đi phần trụ bên dưới, thân tôi hiện tại chưa đầy một thước. Nếu ông nghi ngờ, hãy đứng dựa tường đo chiều cao, sau đó đo riêng cặp phụ chi bí hiểm tên gọi là chân, rồi so sánh tỉ lệ.

Tôi dùng chân giả lần đầu khi ở rạp xiếc. Sau đó, tôi đặt làm mấy cặp khác nhau. Mỗi lần làm quen với một cặp, là mỗi lần đau đớn, vất vả. Nhưng rốt cuộc tôi cũng thành thạo, tự lựa chọn được chiều cao cho mình. Lạ lắm ông ạ, mắt người ta rất dễ bị lừa. Cứ tưởng tượng, thằng bạn nhỏ thó của ông một ngày kia bỗng cao ngất ngưởng lm80. Khi thấy nó, não bộ ông liền hoang mang, từ chối không tin đấy là người cũ. Nó chỉ cần hóa trang thêm một tí thôi, ông sẽ không tài nào nhận ra.

Tôi từng thử nhiều chiều cao, có khi cao đến lm85. Trong vai nổi tiếng nhất là thầy bói Ahriman, thì tôi lùn tịt. Harold Welkyn tốt bụng hoàn toàn bị lừa. Lão không nghi ngờ gì, khi về sau, tôi xuất hiện với tư cách Patrick Gore.

Tuy nhiên, có lẽ ta nên bắt đầu từ việc xảy ra trên tàu Titanic. Trước đám vô công rồi nghề hôm nọ trong thư viện, câu chuyện tôi kể cơ bản là đúng. Tôi chỉ sửa một chi tiết, và bỏ đi một chi tiết khác.

Như đã thuật, tôi và thằng kia đổi vai cho nhau. Nó tốt bụng ghê, đổi xong còn giở trò giết người. Nó không đập bằng vồ, mà bóp cổ, vì lúc đó nó khỏe hơn tôi. Vở bi hài kịch nho nhỏ của chúng tôi diễn ra ngay giữa tấn bi kịch vĩ đại. Ông đã đoán đúng địa điểm: Hai bên đánh nhau trước cánh cửa thép lớn, sơn trắng, một trong các cửa ngăn nước. Khi ấy, khối kim loại nặng vài tạ đang phải chống chọi với nước tràn. Con tàu tròng trành, bản lề trên cửa cong lại, sắp sửa rơi xuống, cảnh tượng kinh khiếp chưa từng thấy, cổng thành [*]Gath khi xưa sụp đổ, chắc cũng hỗn loạn thế này là cùng.

Thằng con mụ múa rắn, mục đích của nó rất đơn giản. Nó định bóp cho tôi bất tỉnh, rồi quăng vào cái khoang ngập nước, xong rồi nó sẽ lỉnh đi. Thấy trong tầm tay có cái vồ bằng gỗ treo bên cửa, tôi vớ lấy, đập nó bao nhiêu lần chẳng biết, nó chẳng thèm quan tâm. Tôi lách ra được, song không may, lại đứng ngay gần cạnh ngoài cánh cửa. Thằng kia nhảy xổ vào. Tàu chìm, bản lề cũng gãy, khiến cửa sập xuống. Tôi kịp tránh, song cặp chân vẫn bị đè.

Tàu chìm, thật là một khoảnh khắc bi hùng. Chưa ai thuật lại đầy đủ độ bi hùng ấy, chưa ai chuyển thể nó được thành nhạc. Ai đã cứu tôi, hành khách hay nhân viên? Tôi chẳng biết. Chỉ nhớ có người ẵm mình lên như ẵm chó con, đưa vào xuồng cứu hộ. Thằng kia thì máu đầy đầu, mắt dại hẳn đi, tôi nghĩ người ta không cứu nó, để nó nằm chết. Tôi còn sống, chắc nhờ nước biển, sống, nhưng cũng khốn khổ. Việc gì xảy ra trong một tuần sau đó, tôi đã quên.

Trong câu chuyện tại Farnleigh Close, tôi có kể đoạn ông chủ gánh xiếc, Boris Yeldritch, đến tìm, tưởng tôi là Patrick Gore. Tôi cũng hé lộ một phần tâm trạng mình khi đó. Vì sao tôi không kể hết, chẳng nói ông cũng hiểu. Boris dễ dàng tìm vai cho tôi trong gánh, bởi tôi vừa quái dị không chân, lại vừa biết mánh coi bói, do đã học từ thời ở nhà. Làm con quái chả thú vị gì, thậm chí đau đớn và nhục nhã, nhất là khi phải học cách đi lại bằng tay. Tôi sẽ lướt qua đoạn này, kẻo ông lại nghĩ tôi đi tìm sự thương hại hay cảm thông. Ông nghĩ như thế thì tôi giận lắm. Nói như nhân vật trong một vở kịch: Tôi sẽ buộc ông tôn trọng, hoặc giết ông; ông thích tôi thì càng tốt nữa; nhưng còn thương hại ư? Đừng có mà láo!

Tôi chợt nhận ra: mình đang lải nhải như một bi kịch gia về chuyện xa xôi trong quá khứ, xa đến mức đã gần lãng quên. Thôi, hãy nhìn nhận mọi việc tích cực hơn, việc gì không thể sửa đổi thì hãy cứ cười. Ông biết nghề của tôi rồi đấy: thầy bói, nhà huyền học, đồng bóng giả hiệu, và ảo thuật gia. Hôm ở Farnleigh Close, tôi đã khinh suất nhắc đến điều này. Tuy vậy, tôi đã đóng giả rất nhiều người, và có nhiều tên chẳng kém Đấng Toàn Tri, chắc không ai đoán được mà phải lo.

Tôi lấy làm vui, khẳng định với ông: Trong nghề của tôi, không chân là một ân huệ. Thật đấy. Có điều, chân giả khá vướng víu, tôi không thể sử dụng chúng thành thục như chân thật. Bù lại, ngay từ sớm, tôi luyện được kĩ năng đi bằng tay cực nhanh, cực khéo. Làm nghề đồng bóng lừa gạt thiên hạ, có kĩ năng này hữu ích lắm, thân chủ cứ là tin sái cổ. Hãy thử suy nghĩ, ông sẽ hiểu mánh của tôi.

Khi nào muốn giở trò mánh mung, bên dưới quần ngoài và chân giả, tôi mặc sẵn quần đùi ống túm có gắn đệm da; nó sẽ thế cho chân, không để lại dấu vết trên mặt đất. Vì tốc độ hết sức quan trọng, tôi học cách tháo lắp, gắn lại chân giả sao cho nhanh, mỗi lần chỉ mất 35 giây.

Bí mật con người máy nằm ở đó. Quá khó, mà quá giản đơn!

Lịch sử đã lặp lại, thưa tiến sĩ. Không phải chỉ có thể, mà là chắc chắn. Ông có biết không? Người máy chơi cờ của Kempelen và Maelzel đều hoạt động theo cùng một [*]cách. Với một người như tôi ngồi trong cái bệ bên dưới, chúng khiến khán giả Âu Mỹ bàng hoàng trong suốt 50 năm. Đến những nhân vật như Napoleon Bonaparte và Phineas [*]Barnum mà còn lầm, thì lũ chúng mình bị gạt là chuyện đương nhiên. Nhưng ông thì không. Nghe lời ông trên gác xép, tôi biết ông không bị lừa.

Chẳng phải nghi, hồi thế kỉ 17, Phù Thủy Vàng cũng hoạt động nhờ sức người. Vì sao nó mất hết danh tiếng, sau khi được tổ tiên đáng kính của tôi là Thomas Farnleigh bỏ cả đống tiền mua về? Vì ông Thomas đã biết sự thật. Tưởng mua được một phép mầu, nên khi nghe giải thích trò mánh bên trong, ổng nổi cơn thịnh nộ. Kẻ khác nếu ở vào hoàn cảnh ấy chắc cũng vậy thôi. Tốn bao nhiêu tiền, hóa ra lại bị chơi khăm. Muốn đem cỗ máy lừa lại bạn bè cũng không được, trừ khi nuôi một người đặc biệt ở trong nhà để vận hành nó.

Không gian bên trong cái hộp, hay “trường kỉ”, đủ lớn cho tôi. Khi chui vào trong, đóng cửa lại, một panô phía trên sẽ mở, nối với bộ máy của hình nhân. Phù Thủy Vàng hoạt động bằng hệ thống cần cơ học đơn giản. Có khoảng một chục cái cần, tôi chỉ cần kéo chúng để điều khiển tay và thân hình người máy. Chỗ đầu gối người máy có lỗ được ngụy trang kín. Từ trong, tôi có thể mở các lỗ để trông ra ngoài. Nhờ vậy, hình nhân của Maelzel chơi được cờ, và hơn trăm năm trước, Phù Thủy Vàng từng đánh đàn.

Người phát minh con phù thủy còn giỏi hơn cả Kempelen. Trước mỗi buổi Phù Thủy Vàng biểu diễn, chủ trò đều mở hộp, cho khán giả thấy bên trong không có gì. Vậy người vận hành ở đâu? Xin thưa, người ấy được đưa vào sau bằng một thủ thuật đặc biệt, không ai thấy được. Đỉnh cao trong trò là thủ thuật này đây.

Tôi không cần giải thích dài dòng. Trên gác xép, khi ông nhận xét về trang phục của ảo thuật gia, rõ ràng ông nhắm vào tôi, cho tôi hay ông đã biết. Bấy giờ tôi tự nhủ: Thôi, kế hoạch mình bay theo khói mây.

Ai nấy đều biết, nhà ảo thuật thường mặc chiếc áo dài, rộng, lòe xòe, bên ngoài trang trí các chữ tượng hình; áo rộng đến nỗi có thể che giấu người. Các nhà tu khổ hạnh Ấn Độ về sau cũng bắt chước như thế để diễn trò. Trường hợp nhà tu, có đứa trẻ trốn bên trong để chui vào rổ. Trường hợp con phù thủy, khi đèn được vặn mờ, chủ trò sẽ làm trò nhặng xị, tạo điều kiện cho người vận hành từ áo chui vô hộp. Trong những buổi trình diễn của mình, tôi đã nhiều lần thực hiện thành công mánh trên.

Giờ đây, xin trở lại lịch sử đời tôi.

Vai diễn thành công nhất của tôi ở London là Ahriman.

Xin ông bỏ qua việc tôi lấy tên Quỷ Vương Bái [*]Hỏa để đặt cho một người Ai Cập. Ông cũng đừng nghi Welkyn, bởi lão chẳng dính dáng gì đến các kế hoạch bẩn của tôi. Tội nghiệp, đến ngày nay, Welkyn vẫn không ngờ tôi chính là tên lùn râu ria ngày nào lão từng bảo vệ. Trong vụ kiện tội phỉ báng, Welkyn tin tôi có năng lực ngoại cảm, bào chữa cho tôi thật đắc lực, nên khi tái xuất với tư cách người thừa kế thất lạc, tôi lại chọn lão làm đại diện pháp lí.

(Sư phụ à, vụ kiện phỉ báng làm tôi ngứa nghề muốn chết. Tôi hồi hộp, hi vọng có thể biểu diễn tài ngoại cảm tại tòa. Quan tòa vốn là bạn học với cha tôi ngày xưa, tôi định lên đồng trên ghế nhân chứng, tiết lộ sự thật về ổng. Trong thập niên 1890, cha tôi giao lưu rất rộng tại thủ đô, nhờ đó tôi có nhiều thông tin, chứ đâu phải Ahriman đọc được suy nghĩ các thân chủ. Nhưng thích chơi trò ngoạn mục thì đúng là đặc tính của tôi.)

Sự việc hiện tại bắt đầu khi tôi đang đóng vai Ahriman.

Trước kia, tôi cứ ngỡ thằng bạn nhỏ chết rồi. Tới ngày nó vào phòng tư vấn trên đường Nửa Vầng Trăng, trút bầu tâm sự, mới biết nó không những còn sống, mà đã trở thành tòng nam nước John Farnleigh. Phải cố gắng, tôi mới không cười vào mặt nó. Đến bá tước Monte Cristo cũng không lâm vào tình thế tương tự. Tôi cho rằng những lời an ủi của mình lại càng khiến nó mất ăn mất ngủ hơn.

Tuy nhiên, điều quan trọng không phải nó, mà là tôi đã gặp Molly.

Nhắc đến Molly, tôi trở nên nồng nhiệt, quá nồng nhiệt, khó viết thành văn cho trôi chảy. Ông có thấy tôi và nàng tuy hai mà một không? Khi đã tìm thấy nhau, chúng tôi sẽ nắm tay nhau đi mãi cùng trời cuối đất. Tình yêu chúng tôi đến quá bất ngờ, song trọn vẹn, mù quáng, và cháy bỏng. Trong nó, nói theo ngôn ngữ bài bạc, có đủ xám chi, cù lũ, tứ quý, và thùng phá sảnh. Ông cho tôi cười một chút, không thì tôi lại sến sẩm biến ngôn từ lẩn thẩn thành thơ, câu nói tục thành lời ân ái.

Khi biết tôi tàn tật, Molly không cười, cũng không ghê tởm. Trước nàng, tôi không phải ca bài ca Người Bị Đánh, hay thằng gù [*]Quasimodo. Thưa ông, ông đừng chỉ hâm mộ ái tình cao thượng trên trời, mà coi nhẹ tình yêu quỷ quái. Pluto là người tình chân chính không kém gì Jove. Chính [*]Pluto thụ tinh cho đất, còn [*]Jove, mang tiếng Vương Thần trên đỉnh Olympus, nhưng mỗi khi tán gái lại phải hóa ra thiên nga hay trận mưa vàng. Cám ơn ông đã chịu khó đọc những hàng này.

Tôi và Molly cùng vạch âm mưu. Trong cuộc đấu trí tại Farnleigh Close, ông có ấn tượng trước vai diễn của hai chúng tôi không? Cả hai liên tục chặn họng nhau. Nàng hơi tí chửi liền, tôi thì mỉa mai đâm thọc.

Éo le thay, dẫu chính là người thừa kế thật, cả tôi lẫn Molly đều không biết làm gì ngoài việc diễn trò. Cái ông gọi là hội phù thủy nho nhỏ của Molly, thằng lợn kia đã khám phá ra. Nó giở thủ đoạn, dùng bí mật ấy để hăm dọa nàng, hòng giữ lấy địa vị; nó mà mất hết, thì nàng cũng chẳng còn chi. Tôi quyết tâm giành lại điền trang, và lấy Molly làm vợ, mong lứa đôi có thể đường đường chính chính sống cùng nhau, chia sẻ sở thích. Muốn được vậy, chỉ có cách giết thằng lợn, rồi dàn xếp hiện trường cho giống một vụ tự sát.

Rõ chưa nào? Molly không thể tự giết chồng, song tôi, một khi đã tập trung, thì không từ bất cứ chuyện gì. Không kể Molly, thằng lợn còn nợ tôi món nợ. Chứng kiến quá khứ của nó, rồi cung cách nó ngày nay, tôi chợt hiểu vì sao bọn Thanh giáo lại đạo đức, khắc kỉ, và vì sao chúng bị quét sạch khỏi cõi đời [*]này.

Hôm đến Farnleigh Close, tôi đã dự định giết người vào ban đêm. Khi nào thuận tiện thì ra tay, chứ không tính trước chính xác được. Không thể giết trước hôm đó, vì mò tới điền trang quá sớm sẽ rất dễ rách việc. Hơn thế nữa, phải công bố hết cho thiên hạ xem những bằng chứng chống lại thằng lợn, họ mới tin nó tự tử. Trong lúc Murray đang so sánh dấu vân tay, nó bỗng bước vào vườn, mở một cơ hội vàng cho tôi.

Ông bạn, tôi phải chúc mừng ông. Đứng trước vụ án bất khả, ông đã buộc được Knowles hé môi. Từ mấy thứ gỗ đá, giẻ rách, và xương xẩu vứt đi, ông thêu dệt nên lời giải thích án mạng vô cùng hợp lí, vô cùng logic. Vì quá hợp lí, người nghe không thấy mình bị lừa, và không nổi giận. Rất khéo đấy, tôi nghe mà rất vui.

Nhưng thực tế thì, như ông dư biết, không có án nào bất khả.

Đơn giản, tôi chồm lên thằng lợn, kéo nó xuống, giết nó tại hồ với con dao bỏ túi. Thế thôi. Các ông sau đó phát hiện con dao trong giậu cây.

Chả biết là xui hay hên, chính khi đó, Knowles đứng nơi cửa sổ Phòng Xanh, chứng kiến toàn bộ sự tình. Tuy vậy, ông ta không những thề sống thề chết thằng kia tự tử, mà còn tạo dựng bằng chứng ngoại phạm cho tôi, khiến tôi phải ngạc nhiên. Knowles làm thế, vì ổng ghét cay ghét đắng thằng lợn, không tin nó là Farnleigh. Dù bị treo cổ, ổng cũng không khai ra Farnleigh giả, kẻ đã cướp điền trang, bị Farnleigh thật giết. Nhờ Knowles, vỏ bọc quanh tôi dày thêm gấp đôi. Tiếc rằng tôi lại phạm một sai lầm lớn, khiến việc hỏng bét.

Lúc giết thằng lợn, tôi không mang chân giả. Hiển nhiên thôi, vì chỉ dùng đệm da, tôi mới di chuyển nhanh nhẹn, dễ dàng. Vả lại, nếu đứng trên chân giả, tôi không thể cúi xuống bên dưới các giậu cây cao ngang hông, dễ bị người ta trông thấy. Giậu cây trong vườn là bình phong tuyệt vời cho tôi. Chúng lại lắt léo nhiều nhánh, nên dễ tẩu thoát, khuất mắt mọi người, cẩn thận hơn nữa, đề phòng ai đó nhận mặt, tôi giấu trong áo chiếc mặt nạ Janus lấy trên gác xép.

Từ hướng bắc căn nhà, tức là phía chái nhà mới, tôi lao vào thằng lợn. Bất thần thấy tôi, chắc nó sợ lắm, cứng cả người lại, chưa kịp nói hay cử động đã bị kéo ngã ngay. Sức lực nơi vai và tay tôi không yếu chút nào, thưa tiến sĩ, vì tôi luyện tập đã lâu năm.

Về chuyện giết người, sau này khi nghe lời khai của Burrows, có điểm khiến tôi phát lo. Burrows đứng chỗ cửa vườn, cách hiện trường độ 10 thước. Như hắn thừa nhận, trong cảnh tranh tối tranh sáng, mắt hắn nhìn không rõ, không tả chính xác được mình trông thấy gì. Chắc chắn không thấy tôi, bởi tôi thấp hơn giậu cây. Dù vậy, hắn nhận ra nạn nhân có cử động lạ. Đọc lại lời khai Burrows, ông sẽ hiểu tôi ý tôi: “Tôi không thể tả chính xác cử động của Farnleigh. Có vẻ Farnleigh bị thứ gì đó nắm lấy chân.”

Tôi nắm chứ ai.

Nhưng lời khai trên không đáng ngại bằng thứ Welkyn thoáng thấy từ phòng ăn, chỉ vài giây sau án mạng. Chắc ông biết thừa, thứ lão thấy qua ô cửa sổ dưới thấp chính là thằng tôi. Bình thường, tôi cẩn thận, đừng hòng ai thấy, dù chỉ thoáng qua. Song lần này, do đang cáu vì phạm sai lầm (sẽ kể sau), tôi đã bất cẩn. May mà có đeo mặt nạ.

Thứ Welkyn thoáng thấy vẫn chưa đáng ngại bằng lời diễn dịch của Murray ngày hôm sau. Ông thầy cũ của tôi quả xứng danh tay buôn chữ nghĩa. Nghe Welkyn kể lại chuyện xảy ra, Murray nắm bắt ngay điều lão luật sư cảm nhận mà không diễn được thành văn. Ông ta nói với tôi: “Giờ đây cậu mới trở về, bỗng có thứ gì không chân bò ngoài vườn…”

Thật là thảm họa. Điều ấy không ai được biết, không ai được phép nghi, thế mà Murray dám gợi lên trong đầu người nghe. Ông liền nhìn sang tôi, thấy mặt tôi dúm lại, tái đi như sữa đổ màu. Sau đó, tôi mất bình tĩnh, nổi nóng chửi Murray. Lí do chắc chỉ riêng ông hiểu.

Song le, dù không có tất cả những sơ hở trên, tôi nghĩ mình cũng tiêu tùng. Ngay từ đầu, tôi đã phạm lỗi trầm trọng, gây ra xôi hỏng bỏng không. Lỗi gì? Lỗi dùng nhầm dao.

Tôi mua sẵn dao mới từ trước, định dùng giết người (Hôm sau vụ án mạng, tôi cho các ông xem dao, bảo đây là con tôi thường dùng. Chính là nó đó). Theo kế hoạch, tôi sẽ gí tay thằng lợn vào dao, và để dao lại bên hồ. Hoạt cảnh tự sát thế là hoàn hảo.

Chẳng ngờ, khi rút hung khí, tôi nhận ra đó là dao cũ. Quá trễ tràng, không đổi lại được nữa. Con dao cũ này tôi dùng từ bé, trên lưỡi khắc tên Madeline. Hàng nghìn người đã thấy tôi dùng nó tại Mỹ. Ông tìm mãi vẫn không ra bằng chứng thằng lợn từng sở hữu nó. Nhưng chuyển hướng sang tôi, chắc sẽ ra nhanh thôi.

Tệ hơn nữa, trước khi giết người, tôi nói quá nhiều ở thư viện, từng đề cập đến con dao đấy. Cụ thể, tôi kể về chuyện trên tàu Titanic, đã gặp Patrick Gore thế nào, đập nhau với nó ra sao, suýt nữa vớ dao xử nó. Chả ai đánh, tự dưng lại đi khai vũ khí và tính cách của mình. Hai lỗi tôi mắc là: Nói dối quá văn hoa, và tiết lộ quá nhiều sự thật. Đừng nên như tôi.

Giết người xong, in dấu tay thằng lợn vào dao xong, tôi nắm dao trong găng tay. Nghe động, mọi người bắt đầu đổ xô tới gần hồ. Buộc phải hành động nhanh, tôi quyết định không vứt dao lại, mà gấp nó trong khăn tay, thồn vô túi.

Vừa mang đôi chân giả, thì Welkyn bắt gặp tôi ở hướng bắc tòa nhà. Do đó, tôi nghĩ tốt nhất nên khai mình đi từ phía nam lại. Không dám đeo dao theo người, tôi tìm chỗ giấu, chờ khi có cơ hội, sẽ lấy đem ra. Trên lí thuyết, chỗ giấu của tôi rất lí tưởng. Trung sĩ Burton thừa nhận anh ta ăn may, chứ bình thường, nếu không đào hết cây trong vườn lên, cơ hội tìm ra con dao chỉ là một phần triệu.

Định mệnh chơi khăm tôi ư? Chẳng biết. Tôi đành thay đổi kế hoạch, tán đồng giả thuyết sát nhân. Với bản năng hi sinh cao thượng, Knowles khai gian, tạo cho tôi bằng chứng ngoại phạm. Trước khi tôi rời nhà đêm đó, ổng bóng gió cho tôi biết, nên đến hôm sau, tôi sẵn sàng đối phó với các ông.

Phần còn lại thì đơn giản thôi. Tôi chỉ quyết định giết người, song Molly nghĩ tốt hơn nên chôm luôn Sách Dấu Tay. Đương nhiên, ai lại nghi ngờ tôi ăn trộm cuốn sách chứa vân tay chính mình? Chúng tôi không định giữ sách, và khi biết nó là giả, liền trả lại ngay.

Từ đầu chí cuối, ông thấy Molly diễn xuất đạt chứ? Cái cảnh trong vườn, ngay sau án mạng, đã được diễn tập từ trước. Câu Molly nói: “Khốn kiếp, hắn đã đúng rồi!”, nghĩa là tôi đã đúng khi bảo trước mặt mọi người, nàng không thật sự yêu chồng, mà chỉ yêu hình bóng cũ của tôi (Đoạn này cả hai cũng tập trước luôn). Nàng không khóc quá, vì nếu khi ấy buồn đau lăn lộn, ít lâu sau lại chuyển qua yêu tôi, thiên hạ sẽ thấy bất hợp lí. Tôi và nàng cùng tính xa, đợi trong tương lai, mọi việc nguôi nguôi, sẽ cùng nhau vui thú điền trang. Nhưng giờ hỏng rồi!

Ngày hôm sau, xảy ra thêm một chuyện không may: Betty Harbottle bước vào lúc tôi đang nghịch con người máy trên gác xép. Cũng lỗi tôi nữa. Thật ra, tôi lên gác chỉ để lấy Sách Dấu Tay, song khi thấy người máy, tôi chợt nhớ ra: Bây giờ, mình có thể làm nó hoạt động. Tôi đã biết bí mật từ hồi thiếu niên, có điều hồi xưa người còn dài, chui vô không đặng, nay tội gì mà không thử xem? Thế là, như một người chồng bình thường đang sửa đồng hồ trên gác, tôi lúi húi tra dầu, chỉnh sửa nó một tí để chạy cho ngon.

Thấy tôi đi quá lâu, Molly lên lầu tìm, bắt gặp Betty Harbottle đang săm soi cái hốc đựng sách. Tôi thì bên trong người máy. Chắc nghĩ tôi định xử cô hầu, nàng bèn khóa cửa ngoài. Nhưng tôi đâu muốn hại Betty. Tôi không lo bị phát hiện, chỉ sợ cổ thấy cặp chân giả trong góc, đằng sau hình nhân. Chuyện sau đó ông đã biết. Không phải giết chóc, đánh đấm, chỉ cần cho người máy quờ quào vài cái. Betty ngất xỉu, hình như cổ thấy mắt tôi qua các lỗ nơi đầu gối người máy.

Sự cố trên không đẩy chúng tôi vào vùng nguy hiểm. Nếu ông làm gắt, tra hỏi chúng tôi bấy giờ ở đâu, tôi và Molly cùng nặn ra bằng chứng ngoại phạm cho nhau là xong.

Tôi chỉ quên mất cái tạp dề. Nó bị móng vuốt người máy cào rách, rơi xuống sàn.

Tôi thật ngu. Ngày ông tìm ra con dao, tôi thấy nguy liền. Tôi giả bộ, nói rằng đã mất dao về tay thằng lợn nhiều năm trước. Murray cũng vô tình giúp tôi khi nêu nghi vấn, khiến ông ngờ con dao không phải hung khí thật sự. Song tôi theo dõi động thái ông, cảm thấy ông đã thấu rõ vấn đề không chân.

Chính ông nhắc đến tên Ahriman, người Ai Cập, trước khi thanh tra Elliot thẩm vấn Welkyn về cái vật nhảy nhảy ngoài vườn. Với những câu hỏi về ma thuật, ông đưa Molly vào vòng. Khi tôi hỏi lại, ông đáp trả đầy ẩn ý. Đoạn, ông kết nối dữ kiện với nhau, bắt đầu từ Victoria Daly, kéo qua thái độ thằng lợn trong đêm bị giết, rồi suy ra liên hệ giữa Betty Harbottle và cái tủ sách trên gác.

Nhận xét của ông về người máy là cú đánh động áp chót. Theo lời ông, hung thủ đang làm chi đó với người máy, sợ bị lộ tẩy, song lại không trừ khử Betty. Có phải vì Betty chưa thấy hắn chăng? Tôi thách ông tìm ra nguyên lí người máy hoạt động, thì ông lái sang chuyện chủ trò ăn mặc thế nào. Ông kết luận với ý cảnh báo: Trò phù thủy của Molly nếu chưa bị phát hiện, thì cũng sắp bị đến nơi. Trong tình thế ấy, tôi buộc phải đẩy người máy xuống lầu. Tin tôi đi, ông bạn, tôi không định hại ông. Mục đích của tôi là phá Phù Thủy Vàng, đến mức không ai sửa được, không ai đoán được nguyên lí bên trong.

Trong phiên tòa pháp y kế đó, hai người nổi bật lên. Knowles nói dối, ông biết rõ. Madeline Dane thì biết quá nhiều về hành động của Molly, chúng tôi không thể để yên.

Molly không ưa Madeline. Nàng định khủng bố, bắt Madeline im lặng, bắt không được thì chơi sát ván. Chính Molly bày ra cái trò chả hay ho gì là giả làm Madeline, gọi điện thoại nhờ đem hình nhân tới Monplaisir. Nàng biết Madeline sợ nó từ lâu, bắt tôi hứa sẽ dùng nó “khai trí” cho Madeline lần nữa. Tôi chả làm, tôi còn nhiều chuyện khác.

Hên cho hai đứa tôi, lúc ông và thanh tra dùng bữa tối cùng Page và Madeline tại Monplaisir, tôi đứng ngoài vườn, nghe được hết. Tôi biết: Thế là hết, ông nắm hết sự tình rồi, vấn đề là có chứng minh được không. Lúc hai ông rời nhà, đi xuyên qua rừng, tôi cũng theo, hi vọng nghe lỏm thông tin quan trọng hơn nữa. Trước khi đi, tôi chỉ đẩy người máy ra gần cửa sổ, thay vì hù dọa Madeline đến điều theo lời Molly.

Suy luận những lời hai ông nói trên đường, tôi thấy điều mình e sợ lâu nay hoàn toàn đúng. Tôi hiểu ông, biết ông đã làm, và sẽ làm những gì, mặc dầu chưa được tường tận như hiện giờ. Mục tiêu của ông là Knowles. Điểm yếu của tôi cũng là Knowles. Viên quản gia thà bị tra tấn, chứ dưới áp lực thông thường, nhất quyết không khai thật. Tuy thế, ổng không chịu được nếu người ta đụng đến, thậm chí chỉ thở vào Molly. Chỉ có một cách khiến Knowles nói: Tra thừng vào cổ Molly, siết chặt dần dần, tới khi ổng chào thua. Tôi cũng thông minh, đọc sự kiện giỏi không kém ông, nên tự biết mình đã thua rồi. Thua rồi, tất chỉ còn cách chạy.

Giờ đây, chắc ông nghe thiên hạ bàn tán đủ điều, bảo tôi là kẻ táng tận lương tâm. Nếu thật thế, tôi đã giết Knowles, dễ dàng như thái một củ hành. Nhưng ai nỡ giết Knowles? Ai nỡ giết Madeline Dane? Ai nỡ giết Betty Harbottle? Họ là những con người bằng xương bằng thịt tôi đã quen đã biết, không phải hình nhân để muốn làm chi thì làm. Không thể coi họ chỉ như những con mèo nhồi bông ngoài hội chợ. Nói thật với ông, tôi thấy mệt mỏi, chán ngán, như lạc vào mê cung chẳng biết đường ra.

Theo chân ông và thanh tra, tôi đến Farnleigh Close gặp Molly, cho nàng hay chỉ còn đường chạy trốn. Molly đồng ý. Vì ông định đi London, chúng tôi nghĩ còn nhiều thời gian, trong vài giờ tới ít nhất chưa lộ chân tướng. Sau tôi mới hay: Khi đứng trên cửa sổ Phòng Xanh nhìn xuống, ông thấy Molly rời nhà, tay xách vali. Ông đã cố tình để chúng tôi đi, cho rằng khi bỏ chạy, chúng tôi tự đào mồ chôn chính mình. Điều ông làm, tôi nghĩ không khôn ngoan. Chỉ nên làm thế khi chắc chắn sẽ bắt lại được.

Chuyện đến hồi kết, thì tôi và Molly xảy ra bất đồng. Nàng đòi nói lời cuối với Madeline xong mới đi. Trên đường tới Monplaisir, nàng nảy ra ý định kì quái, muốn trả thù “con lắm mồm” cho bằng được (Molly không phiền tôi kể điều này, nàng biết tôi yêu nàng).

Tôi không cản nổi Molly. Chỉ vài phút, chúng tôi đến nơi, đậu xe ở ngõ sau, chỗ nhà cũ của đại tá Mardale. Cả hai đứng trong vườn, vì cửa sổ phòng ăn mở một phần, nên nghe được ông Page đang giải thích rất tường minh cái chết của Victoria Daly, cũng như phân tích tính cách của con mụ phù thủy chịu trách nhiệm vụ này. Molly muốn đẩy người máy vào cửa sổ, cho đè Madeline. Tôi không muốn chơi trò ấu trĩ, bèn lăn nó vô nhà chứa than. Giữa Molly với Madeline có sự hiềm khích cá nhân, cũng như giữa tôi và tên Patrick Gore. Đứng nghe bên ngoài, nàng giận lắm. Trong suốt vụ này, chưa bao giờ tôi thấy nàng uất đến vậy.

Tôi không biết khi đi, Molly thủ theo khẩu súng lục. Nàng rút súng trong túi, đập vào cửa sổ, Hỏng bét, đã đến lúc hành động cương quyết. Thứ nhất: Đây không phải lúc đàn bà cãi lộn, thứ hai: một chiếc xe (của Burrows) vừa đậu ngay trước cửa nhà. Tôi kẹp lấy Molly, kéo nàng ra xa. May là trong phòng bật nhạc to, nên chúng tôi không bị phát hiện, về sau, cặp đôi lại tình tự bên cửa sổ, lăng nhăng những gì ấy, khiến tôi mất tập trung, để cho Molly bắn một phát vào phòng ăn. Molly bắn rất giỏi, không bắn trúng là do không muốn mà thôi. Nàng nhờ tôi nhắn với ông: Nàng chỉ cảnh cáo thói đạo đức giả của Madeline, và nếu có dịp, nàng sẵn sàng bắn nữa.

Tôi kể những chuyện tầm phào, thậm chí lố lăng như trên vào cuối thư là có lí do. Lí do ấy đã nói ngay từ đầu. Tôi không muốn ông nghĩ tôi và Molly ra đi trong bầu không khí bi kịch, giữa những tiếng lầm bầm nguyền rủa của thánh thần. Tôi không muốn ông nghĩ chỗ nào chúng tôi đi qua, tà khí cũng dậy lên khiến thiên nhiên bịt mũi. Ông ạ, để buộc Knowles khai thật, có lẽ ông đã phóng đại vấn đề, tô vẽ Molly xấu xa hơn thực tế rất nhiều.

Molly không xảo quyệt, ngược lại là khác. Nàng cũng không ưa những trò trí óc lạnh lùng. Nàng lập hội phù thủy nhỏ đâu phải để hành hạ tinh thần người khác. Nàng làm vì nàng thích, thế thôi. Và trong tương lai, nàng vẫn thích hoài. Buộc tội Molly giết Victoria là điều vớ vẩn. Còn cái bà ở Tunbridge Wells, nguyên do bà ta chết còn chẳng chứng minh được, nói chi tới cáo buộc ai? Molly cũng giống tôi, ưa thích những chuyện thuộc về Thế Giới Bên Kia; ngoài ra chẳng có gì cả.

Chúng tôi rời Kent, giã biệt nước Anh, không có nghĩa là vở kịch luân lí kết thúc theo lối có hậu thường tình. Chúng tôi đi, cũng như một gia đình bình thường đi nghỉ mát bờ biển, có điều hơi vội, người cha không nhớ đã quăng vé đi đâu, còn người mẹ lỡ quên, chưa tắt đèn phòng tắm.

Ngày xưa, ông bà Adam rời địa đàng, chắc cũng nháo nhào như thế. Ấy là điều luật xưa nhất trong sách, nhà vua có thể tự tin khẳng định, Alice chẳng vặn hỏi [*]đâu.

Trân trọng kính chào,

John Farnleigh (trước là Patrick Gore).

↩︎Thập tự xanh (The Blue Cross) là truyện trinh thám ngắn của G. K. Chesterton, xuẩt bản năm 1910.

↩︎ Cổng thành nổi tiếng của người Philistine, được nhắc đến trong Kinh Cựu Ước Kitô giáo.

↩︎ Ông Gore nói đúng. Trong một bản cũ của Bách khoa toàn thư Anh Quốc (ấn bản lần thứ chín, in năm 1883, quyển XV, trang 210), tôi thấy lời giải thích giống vậy. Tác giả, J. A. Clarke, viết: “Người chơi đầu tiên là một nhà ái quốc Ba Lan: Worousky, vốn mất cả hai chân trong chiến trận. Worousky dùng chân giả khi xuất hiện bên ngoài. Thêm vào đó, trong đoàn của Kempelen không có người lùn hay thiếu nhi, nên không ai nghi có kẻ chui trong máy. Con người máy được đem trình diễn nhiều lần tại các thủ đô, triều đình châu Âu, từng có thời gian ngắn thuộc sở hữu của Napoleon I. Sau cái chết của Kempelen năm 1819, Maelzel lại đem nó đi lưu diễn. Nó bị hủy trong đám cháy tại Philadelphia năm 1854.” — John Dickson Carr

↩︎ Phineas Barnum (1810—1891): Chính khách, doanh nhân, chủ gánh xiếc người Mỹ.

↩︎ Ahriman là tên của ác thần trong Bái Hỏa Giáo, một tôn giáo cổ, bắt nguồn từ Ba Tư.

↩︎Người Bị Đánh: Nhân vật trong vở kịch cùng tên của Leonid Andreyev; Quasimodo: Nhân vật trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris của Victor Hugo. Cả hai đều đau khổ vì tình.

↩︎ Diêm Vương trong thần thoại La Mã.

↩︎ Tức Jupiter, vua cua các thần trong thần thoại La Mã, ngự trị trên đỉnh linh sơn Olympus. Mỗi khi tán gái, Jupiter hóa ra con bò, thiên nga, trận mưa vàng…

↩︎ Phong trào Thanh giáo chỉ thịnh trong khoảng thế kỉ 16,17, đên thế kỉ 18 thì suy tàn.

↩︎ Trong tác phẩm Alice ở xứ sở diệu kì của Lewis Carroll, khi nhà vua bảo: Điều 42 là luật lâu năm nhất trong sách, Alice vặn lại: Lâu năm nhất phải là điều số 1, làm vua tái mặt.