← Quay lại trang sách

Chương III

Ngay từ mùa xuân năm tể tướng Sokoli quyết định xây cầu, thủ hạ của ngài với bọn tùy tùng đã “được phái tới Vichégrad để chuẩn bị mọi công việc cần thiết. Họ tới đông đảo với ngựa xe, lều và mọi dụng cụ. Sự xuất hiện của họ làm cho dân trong thị trấn nhỏ và các làng lân cận, nhất là dân theo Ki tô giáo sợ sệt, nhốn nháo lên.

Cầm đầu phái đoàn, sắp dặt công việc xây cất là Abidaga, người được tể tướng tin cậy nhất. Người phụ tá ông ta là đốc công Tosoan Efendi[17] (Trước khi Abidaga tới người ta đã nghe đồn rằng ông ta không nể ai cả, tàn nhẫn, vô tình nghiêm khắc quá mức). Khi họ tới dựng lều ở Meidan rồi, Abidaga triệu tập ngay đại diện các nhà cầm quyền và tất cả các thân hào Hồi để thảo luận. Có thảo luận gì nhiều đâu vì chỉ có một mình Abidaga nói thôi. Ông ta lực lưỡng, mặt đỏ gay, mắt xanh lá cây, bận một bộ đồ sang trọng ở Tsarigrad, râu hung hung, ngắn, còn ria thì uốn nhọn lột cách kỳ cục theo kiểu Hung Gia Lợi. Diễn văn của con người tàn bạo đó còn làm cho những người dự hội ngạc nhiên hơn là bề ngoài ông ta nữa:

“Chắc chắn là trước khi bản chức tới đây, các ông đã nghe thấy nhiều lời đồn về bản chức rồi, mà bản chức biết rằng những lời đồn đó chẳng đẹp đẽ, dễ thương chút nào. Chắc các ông đã nghe người ta đồn rằng bản chức buộc mọi người phải làm việc và tuân lệnh, và kẻ nào không làm việc đàng hoàng, tuân lệnh răm rắp thì bản chức sẽ đánh đập, sẽ giết chết; rằng bản chức không biết cái gì là “không thể làm được”, “cái gì là không có”, mà kẻ nào nói bậy một lời thôi cũng có thể bay đầu với bản chức lắm; tóm lại bản chức là một người khát máu, tàn bạo. Bản chức cần cho các ông hay rằng những tiếng đồn đó không phải là tưởng tượng phóng đại đâu. Dưới cây bồ đề của bản chức không có bóng mát đâu. Bản chức đã lừng danh như vậy nhờ đã hầu hạ lâu năm quan tể tướng, thi hành đúng lệnh của ngài. Tin ở Chúa, bản chức mong rằng lần này cũng làm xong công việc quan tể tướng giao phó ở đây, và khi công việc làm xong rồi, bản chức ra đi thì lại có những tiếng đồn khác lan đi trước hung dữ hơn những tiếng đồn đã tới tai các ông.

Sau lời nhập đề lạ lùng đó mà mọi người làm thinh nghe, mắt nhìn xuống, Abidaga giảng cho họ hiểu rằng sẽ làm một công trình kiến trúc rất quan trọng, nhiều xứ khác giàu có hơn cũng không thực hiện được, công việc sẽ kéo dài năm năm, có thể sáu năm, và quan tể tướng muốn làm cho thật chu đáo, đúng ngày đúng giờ phải xong. Rồi ông ta trình bày mới đầu cần những gì, phải chuẩn bị công việc ra sao, và ông ta mong rằng nhân dịp này, các người Thổ mới[18] sẽ giúp được gì, còn bọn tà giáo bọn Ki tô giáo thì phải làm được những gì.

Ngồi bên cạnh ông ta là Toboun Efendi, một người nhỏ con, Hồi hóa, xanh bủng, gốc gác ở các đảo Hy Lạp làm đốc công, đã xây cất nhiều công trình từ thiện cho Mehmed Pacha. Ông ta ngồi yên, thờ ơ như không nghe thấy gì hoặc không hiểu lời nói của Abidaga. Ông ngó hai bàn tay của mình, lâu lâu mới ngước mắt lên, và lúc đó người ta thấy cặp mắt cận thị, đẹp, long lanh như nhung của một người chỉ biết công việc của mình thôi, ngoài ra chẳng cảm thấy hoặc hiểu gì về đời sống và xã hội cả. Các đầu mục, thân hào từ trong lều chật hẹp, hầm hơi chui ra, áo não mệt nhọc. Họ thấy mồ hôi chảy từng giọt dưới lớp lễ phục mới của họ và nỗi lo sợ ưu tư xâm chiếm ngay lòng họ, không dằn được.

Một bất hạnh lớn, vô lý bỗng đâu giáng xuống thị trấn và cả xứ, tai họa này không biết bao giờ mới chấm dứt. Trước hết người ta đốn cây trong rừng rồi chở ra, chất thành từng đống đà ngang đà dọc trên hai bên bờ sông Drina, khiến trong một thời gian, người ta tưởng tượng cầu sẽ cất bằng gỗ. Rồi bắt đầu tới công việc đào đất đào lỗ trên bờ đá. Phấn lớn những công việc đó đều do làm xâu. Như vậy cho tới gần cuối thu, rồi công việc tạm ngưng lại, phần đầu kể như đã xong.

Abidưnga cầm cây ba-toong dài màu xanh kiểm soát mọi công việc. Dân chúng đã làm một bài vè về chiếc ba-toong đó, vì kẻ nào ông ta bắt gặp làm không đàng hoàng hoặc nhởn nhơ, mất thì giờ, thì ông ta cầm ba-toong chỉ và tức khắc bọn giám thị túm cổ liền, đánh đập ngay tại chỗ cho tới chết ngất, máu me đầy người, rồi giội nước vào cho tỉnh dậy, bắt đi làm trở lại. Cuối thu khi sắp rời thị trấn, Abidaga lại triệu tập một lần nữa các đầu mục, thân hào, bảo họ rằng mùa đông này ông ta đi nơi khác, nhưng cặp mắt không rời nơi này đâu. Mọi người phải chịu trách nhiệm về bất kỳ một chuyện gì. Nếu ông ta thấy có sự hư hại bất kỳ ra sao trong công việc, dù là chỉ mất một khúc gỗ thôi thì cả thị trấn sẽ bị phạt vạ. Người ta bảo nước lụt cũng có thể gây hư hại được thì ông ta không do dự một chút, lạnh lùng đáp rằng đây là xứ của họ, con sông của họ, vậy lụt có gây hại thì họ phải chịu.

Suốt mùa đông, dân chúng coi chừng giữ gìn công việc cẩn thận như con ngươi của họ vậy. Qua xuân, Abidaga và Tosoun Efendi trở lại, thêm một bọn đục đá ở Dalmatie mà dân chúng gọi là bọn “thợ La Mã.” Mới đầu có khoảng ba chục người, chú thợ cả tên là Antoịne, một người theo Ki tô giáo ở Oultsigne[19]. Chú ta đẹp trai, cao, mắt lớn và có vẻ bạo dạn, mũi quặm, tóc nâu phủ tới vai, quần áo đẹp cắt theo kiểu phương Tây. Người phụ tá của chú là một tên da đen chính cống trẻ tuổi, vui tính, mà mọi người đều gọi là “mọi da đen.”

Năm trước thấy những đống đà gỗ chở lại, người ta đã tưởng Abidaga muốn dựng cầu bằng gỗ; bây giờ mọi người có cảm tướng rằng ông ta muốn xây một Constantinople[20] mới trên sông Drina này. Người ta bắt đầu đục đá ở trên núi gần Bania, cách thị trấn một giờ đi bội; đẽo vạc qua loa rồi chở về.

Năm sau, một mùa xuân tưng bừng lạ thường xuất hiện ở gần bến đò Vichégrad. Cũng như mọi năm, cây cối trổ lá, đâm bông, nhưng năm nay, từ mặt đất còn mọc lên cả một đám lều quán, và có những con đường mới đưa tới những chỗ có nước. Vô số xe vận tải do bò hay ngựa kéo, qua lại đông như đàn kiến. Dân chúng Meidan và Okolitché ngày nào cũng thấy xuất hiện ở phía dưới gần sông một đám người lăng xăng với bò, ngựa, dụng cụ xây cất, như cây cỏ ở dưới đất đâm lên.

Bờ đá cheo leo là chỗ làm việc của thợ đẽo đá. Bụi đá bay ra nhuộm vàng cả một khu. Cách đó một quãng trên cánh đông cát, bọn thợ công nhật bản xứ tô vôi, quần áo rách rưới và trắng những vôi, đi qua làn khói trắng đục từ lò vôi tỏa ra. Xe chở nặng quá, đường hư hết. Chiếc đò qua lại suốt ngày, chở gỗ, thầy và thợ. Lội trong làn nước xám mùa đông lên tới lưng quần, bọn thợ chuyên môn đóng cừ và đổ đất sét vào đầy các sọt, thả xuống nước, chặn cho dòng nước chảy qua hướng khác.

Dân chúng từ trước sống yên ồn trong thị trấn, nhà cửa rải rác trên sườn núi gần bến đò, bây giờ bu lại coi những công việc đó; và nếu chỉ coi thôi thì không sao, nhưng công việc lớn lao quá, phát triển mạnh quá như cơn lốc tới nỗi cuốn theo những sinh vật và tử vật ở trong thị trấn và cả những miến xa chung quanh nữa. Qua năm thứ nhì, số thợ tăng lên nhiều bằng số đàn ông trong thị trấn. Xe cộ, bò, ngựa đều dùng vào việc xây cầu hết. Tất cả những cái gì leo được, lăn được đều bị lôi đi, buộc phải làm việc, đôi khi được trả công nhưng cũng có khi bị trưng dụng làm xâu. Có nhiều tiền hơn trước đấy, nhưng đời sống đắt đỏ và sự đói kém tăng lên mau hơn tiền bạc, thành thử khi tiến vào tay thợ thì chỉ còn một nửa. Còn khổ hơn nỗi đắt đỏ, đói kém, là cảnh hỗn độn, bất an, lo lắng nó giáng xuống đầu cổ dân trong thị trấn từ khi đám lao động từ đâu không biết đổ xô lại đây. Mặc dầu Abidaga nghiêm trị, mà vẫn xảy ra nhiều cuộc ấu đả giữa bọn thợ, và nhiều vụ trộm cắp trong vườn, trong sân. Bọn phụ nữ Hốt giáo phải che mặt cả những khi bước ra sân vì phía nào cũng có thể có cặp mắt của bọn thợ đông vô kể đó, thợ miền khác tới và thợ địa phương, mà bọn người Thổ ở đây vì là Thổ mới (không người nào là không có cha hoặc ông mới bỏ Ki tô giáo mà theo Hồi giáo), cho nên giữ giáo huấn Hồi giáo còn nghiêm nhặt hơn ai nữa. Vì những lẽ đó mà những ông già bà cả theo tục Thổ, bất bình ra mặt và quay lưng đi, không nhìn đám hỗn độn những thợ; bò, ngựa, gỗ, đá, đất cát cứ mỗi ngày một bành trướng, phức tạp thêm ở hai bên bờ bến đò, phá hoại tất cả và đã lấn vào đường phố, sân vườn của họ rồi.

Mới đầu họ đều hãnh diện rằng một vị tể tướng gốc gác ở miền này cho xây cất một công trình phước thiện tại quê quán. Hồi đó họ không ngờ, bây giờ họ mới thấy công trình xây cất vẻ vang đó gây ra biết bao hỗn độn, lo lắng, tốn tiền mà phí sức (…). Thị trấn đã biến thành địa ngục, như một tà thuật múa may quay cuồng trong cảnh khói, bụi, hò hét ồn ào, không sao hiểu nổi. Đã mấy năm trôi qua, công việc tuy phát triển, xây cất cao thêm nhưng vẫn chưa thấy xong, chẳng ra ý nghĩa gì cả. Nó giống bất kỳ cái gì đó, đâu phải là cầu.

Đó, những người Thổ mới nghĩ như vậy và nói riêng với nhau rằng họ ngán quá chừng, chẳng sang trọng, hãnh diện, vẻ vang thì đừng; họ từ bỏ quan tể tướng, không chấp nhận cái cầu, chi xin Chúa sao cho mau thoát tai họa này đi, mà nhà cửa họ lại được yên ổn như trước họ lại yên ổn sống cuộc đời giản dị bên chiếc đò cũ trên sông như hồi trước.

Những người theo Ki tô giáo ở Vichégrad cũng lo lắng như người Thổ, chỉ khác là không ai hỏi ý kiến họ nên họ không phất biểu nỗi bất bình được. Bây giờ đã qua năm thứ ba, dân chúng ba năm đã phải làm xâu, bò ngựa bị trưng dụng vào việc cất cầu rồi. Mà chẳng phải riêng ở Vichégrad, cả ba tỉnh chung quanh cũng vậy. Đâu đâu bọn hiến binh của Abidaga cũng cỡi ngựa đi lùng dân Ki tô giáo, dù ở thành thị hay ở thôn quê, lôi về bắt đi làm cầu. Thường thường chúng xông vào trong khi họ ngủ, bắt như bắt gà. Trong khắp xứ Bosnie các người đi đường khuyên nhau đừng lại sông Drina vì bất kỳ ai lớ quớ tới đó là bị hiến binh bắt liền, chẳng cần hỏi tên tuổi, làm gì, đi đâu, cứ lôi phắt đi, bắt phải làm xâu ít nhất là vài ngày đã. Dân Ki tô giáo ở thành thị đút lót để được tha, còn dân quê thì ráng trốn vào rừng, nhưng bọn hiến binh bắt ngay người trong nhà làm con tin, nhiều khi bắt cả đàn bà thay cho những thanh niên đã bỏ trốn.

Dân chúng làm xâu ở cầu mùa thu rày là mùa thu thứ ba, mà công việc chưa thấy tiến được bao nhiêu, chưa thấy nỗi cùng khổ này sắp chấm dứt. Đã giữa thu rồi, lá đã rụng, đường đã lầy lội vì mưa, nước sông Drina dâng lên đục ngầu, và cánh đồng trơ gốc rạ đầy những quạ khoang lượn qua lượn lại mà Abinga vẫn chưa cho ngưng công việc. Dưới ánh sáng đục của tháng Mười một dân chúng chở gỗ, đá, kẻ chân không, kẻ đi opanci[21] làm bằng da sống chưa thuộc còn dính máu, lội trên những đường lầy, toát mồ hôi mà vẫn run rẩy khi gió thổi, bận những quần cụt đen bẩn thỉu, đầy lỗ rách và chỗ vá đụp, và lấy những manh áo sơ mi duy nhất của họ cột lại, chiếc sơ mi bằng gai thô, đen vì mưa bùn và khói nhưng họ không dám giặt, sợ nó bục rời ra từng sợi mất. Chiếc ba-toong xanh của Abidaga lúc nào cũng giơ cao trên đầu họ, vì Abidaga kiểm soát mọi nơi từ hầm đá tới công việc ở chung quanh cầu, mỗi ngày mấy lượt ông ta nổi điên lên với mọi người vì ngày tháng trôi qua mà công việc chẳng tiến hành mau như ý ông. Bận một chiếc áo cầu dày bằng da lông Nga, đi giày cao ống, mặt đỏ bừng, ông ta leo lên những cái giàn lúc này đã cao hơn mặt nước, vào các lò rên, các chòi, rạp của thợ và chửi hết cả mọi người một loạt, cả giám thị, cai thầu

- Ngày thì ngắn, càng ngày càng ngắn. Đồ chó đẻ! Ăn mà không làm.

Ông ta quát tháo, nổi điên lên, như thể ngày mùa này ngắn là tại họ. Nhưng trước giờ hoàng hôn tàn nhẫn, tuyệt vọng ở Vichégrad, khi đồi núi dựng đứng khép lại chung quanh thị trấn, đêm tối xuống mau, nặng nề như thể đêm cuối cùng, thì Abidaga nổi quạu tới tột đỉnh; và không còn ai để trút cơn thịnh nộ lên nữa, ông ta bứt rứt, nóng ruột, không sao ngủ được, vì còn bao nhiêu công việc bỏ dở và bao nhiêu kẻ chờ đợi mất thì giờ. Ông ta nghiến răng, kêu bọn giám thị lại, tính toán xem hôm sau phải tổ chức ra sao cho thợ thuyền làm được nhiều hơn.

Trong lúc đó, bọn thợ ngủ trong chòi và chuồng bò để lấy lại sức. Nhưng không phải mọi người đều ngủ, cũng có kẻ thức. Giữa một chuồng bò rộng và khô ráo, một đống lửa sắp tàn, chỉ còn lại than hồng âm ỉ, thành thử phòng nửa tối nửa sáng, mù mịt những khói, sực nức mùi nặng và chua của những quần áo uớt, và của hơi người bốc từ ba mươi mấy thân thể ra. Họ đều là bọn làm xâu, nông dân nông nô miền chung quanh, nghèo khổ, và theo Ki tô giáo. Hết thảy đều bẩn thỉu, quần áo ướt đẫm, mệt lử, lo lắng. Họ đau khổ, nóng ruột vì nỗi sắp tới vụ cày mùa thu rồi mà họ phải bỏ ruộng nương tại làng ở trên kia để làm xâu không công ở đậy, không biết ngày nào mới được thả về. Họ hơ obojak[22] bên đống lửa, cột bện opanci lại hoặc ngồi không ngó đống than hồng. Trong đám có một người Monténégro[23] không biết từ đâu tới. Bọn hiến binh bắt được anh ta ở trên đường và anh phải làm xàu từ mấy bữa nay, mặc dầu anh kể hoài, chứng minh hoài với mọi người rằng công việc này nặng nhọc quá, không hợp với anh, đê tiện quá, làm mất thể diện của anh.

Hầu hết các nông dân còn thức, nhất là bọn trẻ, quây quần chung quanh anh ta. Từ cái túi sâu của chiếc áo gối- lê bằng da cừu, anh ta khoan thai lấy ra một cây guzla[24] nhỏ bằng bàn tay và một cái cung kéo đàn ngắn. Một nông dân bước ra ngoài, đứng canh ở cửa, coi chừng có người Thổ nào tới không. Mọi người ngó anh Monténégro như mới gặp lần đầu, và chiếc guzla anh ôm kín trong hai bàn tay to lớn. Anh ta cúi xuống, đặt chiếc guzla trên đùi, đưa cằm ra ghì cái cán, lấy nhựa thông bôi vào dây đàn, rồi thổi lên cái cung. Cái gì cũng ẩm thấp, mềm, chùng. Người ta đăm đăm ngó anh làm những công việc đó một cách cẩn thận, bình tĩnh như chung quanh không có ai cả. Sau cùng một tiếng đàn vang lên, chói tai, ồ ồ. Xúc động tăng lên. Anh ta lấy giọng, hát bằng mũi theo tiếng đàn, thật hòa hợp: có vẻ sắp được nghe một truyện kỳ thú … Rồi thình lình anh hất đầu mạnh ra phía sau một cách tự phụ, hầu anh lộ ra thành một cục trên cái cổ nhỏ, bán diện nhọn hoắt của anh rực rỡ dưới ánh sáng. Anh thết một tiếng ngân nga nhỏ “Aaan – aaaa?” rồi cất giọng trong và vang:

Đức Vua Stéphane xứ Serbie uống rượu

ở Prizren, một miền phong phú;

Bên cạnh ngày là những vị kỳ lão, giáo trưởng.

Có bốn vị giáo trưởng.

Và cũng có chín vị chủ giáo

Và hai chục quan đại thần ba đuôi ngựa[25]

Và các công hầu ngồi theo thứ tự chức tước.

Mihailo, dâng rượu,

Và em gái ông ta là nàng Kandosie

Ngực đeo đầy kim cương bảo ngọc

Lấp lánh, sáng rực cả căn phòng …

Bọn nông dân mỗi lúc mỗi xán gần hơn nữa nhưng hoàn toàn im lặng; không nghe thấy tiếng thở của họ. Họ đều lim dim cặp mắt, say mê, hân hoan … Giọng hát dồn dập hơn, phong phú hơn, cao hơn và mỗi lúc mỗi hay hơn, phóng túng hơn …

Trong đám nông dân làm xâu đó, có một gã tên là Radislav ở Ounitché, một làng nhỏ ở trên đồi sát ngay thị trấn. Nhỏ con, da bánh mật, mắt long lanh, lưng khòm, gã đi rất nhanh, chân giạng ra, đầu và vai đong đưa như khi rây bột. Gã không nghèo như người ta tưởng, và làm bộ ngây thơ chứ không ngây thơ. Gia đình gã, dòng họ Kherak, có ruộng tốt và nhiều gia nhân. Nhưng trong bốn chục năm trước, gần khắp làng đã Hồi hóa, thành thử họ bị gom tại sống lẻ loi với nhau. Bé nhỏ, ít nói mà nóng nảy, Radislav trong những đêm thu năm đó di từ chuồng bò này qua chuồng bò khác, gieo rắc tư tưởng nổi loạn, len lỏi như một con lươn[26] trong giới nông dân và bao giờ cũng chỉ thì thầm với một người một thôi. Đại khái gã bảo: -Anh em ơi, chịu hết nổi rồi, chúng mình phải tự bảo vệ lấy thôi. Anh em thấy đấy, công việc xây cầu này sẽ chôn sống, nuốt chửng chúng ta. Mà nếu kẻ nào còn sống được thì con cái cũng sẽ phải làm xâu nữa. Họ tính tận diệt chúng ta chứ không có ý gì khác. Bọn nghèo đi chân không và bọn theo Ki tô giáo đâu có cần cầu. Chính bọn Thổ mới cần cầu. Còn chúng ta có quân đội gì đâu, có buôn bán gì đâu, chiếc đò cũng đủ dùng quá rồi. Vì vậy trong bọn chúng tôi, có một số người đồng lòng những đêm tối trời lén phá hủy cái gì họ đã xây cất, càng nhiều càng tốt rồi loan tin rằng bà Thủy đã phá không cho cất cầu trên công Drina. Để xem cách đó có hiệu quả không. Không còn cách nào khác; mà không thể khoanh lay được.

Luôn luôn có những kẻ nhút nhát, đa nghi cho rằng cách đó không êm vì bọn Thổ có quyền lực, lại mưu mô, không chịu bỏ quyết định của họ đâu; vậy phải tiếp tục làm xâu cho tới khi cầu cất xong, đừng làm cho tình hình tệ hại hơn nữa. Nhưng lại có người nghĩ rằng gì thì gì cũng còn hơn là tiếp tục cái kiếp trâu ngựa này, quần áo sẽ rách hết, tàn lực sẽ tiêu ma hết vì phải quần quật, mới được mấy miếng bánh mì hẩm của thằng Abidaga; vậy ai tìm được một lối thoát thì mình phải theo người đó. Nhóm sau gồm đa số thanh niên, nhưng cũng có những người đàng hoàng, có gia đinh, con cái, không nhiệt tâm, không hung hăng mà có vẻ ưu tư, tỏ ý tán thành: -Chúng mình đi phá cầu đi, đỗ máu ra mà phá nó, đừng để nó diệt chúng mình. Nhưng nếu công toi…

Và họ giang tay, có vẻ hoài nghi trong thái độ quyết đinh tuyệt vọng.

Vậy là trong mấy ngày vào thu, mới đầu trong đám thợ thuyền, rồi sau lan tới khắp thị trấn, có tin đồn rằng bà Thủy ngăn cản công việc xây cầu, cứ ban ngày xây cất được gì thì ban đêm phá hủy hết. Và đồng thời, ban đêm bắt đầu xảy ra những tổn hại không sao hiểu được tại con đê và cả tại những chỗ đương xây cất. Những đồ dùng mà thợ hồ từ trước vẫn để trên những cột cầu mới xây ở hai đầu cầu, bỗng biến mất, những cái đập bằng đất dựng lên bắt đầu nứt nẻ, bị nước cuốn đi.

Tiếng đồn không sao cất nổi chiếc cầu, được người Thổ cũng như người Ki tô giáo loan truyền ra xa và càng ngày càng được người ta tin chắc. Bọn raia[27], theo Ki tô giáo mừng rỡ lắm, thì thầm với nhau một cách âm hiểm và hoan hỉ. Còn bọn Thổ mới, hồi đầu hãnh diện về công việc xây cất của quan tề tướng, bây giờ cũng bắt đầu đưa mắt nhìn nhau, tỏ vẻ khinh bỉ và giơ tay ra vẻ thất vọng (…) Người ta đã bảo nhau rằng bọn thợ ngoại quốc đã sửa soạn rút đi rồi, cầu sẽ không dựng lên đâu (…) Tất cả tin đồn đó lẫn lộn với nhau, loan đi rất mau.

Dân chúng dễ đặt truyện rồi lan truyền lắm, nhưng phần sự thực bao giờ cũng xen vào, kết với phần tưởng tượng một cách kỳ cục, không sao gỡ ra được manh mối. Chính những nông dân đêm đó nghe anh chàng Monténégro gảy đàn guzla, kể truyện rằng bà Thủy phá cầu đó bảo Abidaga phải kiếm cho được hai đứa bé sinh đôi một đứa trai, một đứa gái, tên là Stoia Ostoia nhốt vào trong cột cầu rồi bít kín lại thì ngài mới thôi không phá cầu nữa. Và có nhiều người thề rằng đã thấy tận mắt bọn hiến binh đi lùng khắp làng xóm một kiếm cặp trẻ như vậy. (Bọn hiến binh Thổ quả thực có đi tuần nhưng không phải để kiếm trẻ. Theo lệnh Abidaga, họ lắng tai nghe ngóng, đò hỏi dân chúng có biết kẻ nào phá cầu không).

Vào lúc đó trong một làng ở phía trên Vichégrad, có một đứa con gái ngọng và ngớ ngẩn mang thai. Con bé tội nghiệp đó đi ở cho một người ngoại quốc. Nó không muốn nói hoặc chính nó cũng không biết người đàn ông nào đã làm cho nó có mang. Thế là có tiếng đồn ra xa rồi nó sanh một cặp sinh đôi trong một khoảng đất rào kín, nhưng hai đứa nhỏ mới sanh ra đều chết. Mấy người đàn bà trong làng đỡ đẻ cho nó – nó sanh cực kỳ khó khăn – và chôn hai đứa nhỏ trong một vườn mận. Tới ngày thứ ba, thiếu phụ khốn nạn đó mà trời không cho được làm mẹ, đi kiếm con khắp trong làng. Người ta bảo chúng đã chết và đã đem chôn rồi, nhưng nó không tin, cứ hỏi hoài; bực mình quá, để cho nó khỏi hỏi nữa, người ta bảo – đúng hơn là ra dấu cho nó hiểu – rằng con của nó đã bị người ta bắt đem ra thị trấn, chỗ mà người Thổ đương xây cầu.

Thế là, yếu đuối và thất vọng, nó đi lang thang lại thị trấn, lảng vảng chung quanh chỗ xây cầu, sợ sệt ngó vào mặt mọi người ấp úng hỏi con nó đâu, mà chẳng ai hiểu gì cả. Người ta ngạc nhiên nhìn nó, đuổi nó đi, dọa nó đừng quấy rầy nữa để người ta làm việc. Thấy mọi người không hiểu nó muốn gì, nó bèn vạch chiếc áo quê mùa bằng vải thô, để lộ hai cái vú căng sữa nhức nhối ra, núm vú đã bắt đầu nứt và chảy máu vì sữa căng lên không ngăn được. Không ai biết giúp đỡ nó cách nào, không sao giảng cho nó tin được rằng con nó không bị nhốt và bít kín trong cầu. An ủi nó, cam đoan với nó, chửi mắng dọa nạt nó, nó cũng cứ một mực than thở, ấp úng nghi ngờ, xoi mói nhìn hết chỗ này chỗ khác. Sau cùng người ta không đuổi nó đi nữa, để mặc nó lảng vảng chung quanh, và để tránh gặp nó, người ta đi vòng đường khác, trong lòng đau khổ thương hại cho nó. Bọn làm bếp vét chảo nấu bột bắp – món ăn tồi tệ của thợ – nhiều khi chỉ được một lớp cháy, cho nó ăn. Họ đặt tên cho nó là mụ điên Ilinka, rồi cả thị trấn đều dùng tên đó. Chính Abidaga, khi đi ngang qua nó cũng làm thinh, tin dị đoan, quay mặt đi, và ra lệnh bố thí cho nó. Thế là nó sống bên cạnh chiếc cầu đương cất, như một mụ điên không phá phách ai. Do đó mà có huyền thoại rằng bọn Thổ đã nhốt hai đứa trẻ trong cầu rồi bít kín lại. Có người tin, có người không, nhưng tin hay không, người ta cũng kể lại với nhau, truyền bá truyện đó ra.

Nhưng những sự phá hoại vẫn tiếp tục, lúc nhiều lúc ít đồng thời vẫn có những tin đồn càng ngày càng chắc chắn rằng bà Thủy không cho cất cầu trên sông Drina.

Abidaga phát điên lên, căm lắm: mình nổi tiếng là nghiêm khắc không ai bằng – điều đó đặc biệt đáng hãnh diện – mà có kẻ dám tìm cách phá hủy công trình của mình, ngăn cản ý định của minh à? Ông ta đồng thời đâm ra tởm dân chúng ở đây (Hồi giáo cũng như Ki tô giáo) làm việc thì chậm chạp, vụng về, còn nhạo báng vô lễ thì nhanh nhẩu lắm, kiếm ngay được những tiếng mỉa mai chua cay để chê tất cả những gì họ không hiểu hoặc không biết làm, ông ta đặt người canh gác hai bên bờ sông. Thế là không còn những vụ phá hoại trên bờ nữa, nhưng vẫn còn ở ngay trên sông. Có điếu là những đêm trăng, không xảy ra vụ phá hoại nào cả. Điều đó làm cho ông ta tin rằng không có quỉ thần ma quái gì đâu, Thủy thần phá hoại đó không phải là vô hình, không phải từ trên trời xuống. Trước kia ông ta không muốn tin, không thể tin được lời những kẻ bảo ông rằng nông dân đã lập mưu phá hoại, nhưng bây giờ thì ông tin chắc rồi. Càng tin ông lại càng nổi điên lên. Nhưng đồng thời ông biết rằng phải bình tĩnh, đừng để lộ vẻ giận ra thì mới rình và bắt được kẻ phá hoại, mà đánh tan được triệt để và thật mau huyền thoại về Thủy thần, cùng tin đồn sẽ bỏ dở việc xây cầu, những tin đó có thể hóa ra rất tai hại. Ông ta bèn cho gọi viên đội hiến binh lại, người này xanh xao, yếu ớt, gốc gác ở Plevié[28], hồi trẻ sống ở Constantinople.

(…) Abidaga không bao giờ dịu dàng dễ thương đối với ai cả, riêng đối với viên đội hiến binh xanh xao tái mét, Hồi hóa, phản giáo đó thì càng tỏ vẻ ghét ra mặt. Lời nói nào, hành động nào của thầy cũng làm cho ông ta nổi dóa, mắng chửi, làm nhục. Và thầy ta càng khúm núm, tỏ vẻ hiền lành, ân cần, sốt sắng thì Abidaga lại càng ghét cay ghét đắng. Ngay từ ngày đầu, thầy đội đã sợ Abidaga kinh khủng, như sợ quỉ thần vậy. Lần lần nỗi sợ đó biến thành một ác mộng đau khổ, không lúc nào dứt. Mỗi bước đi, mỗi cử động, nhiều khi cả trong giấc mộng nữa, là thầy lại tự hỏi: Abidaga sẽ mắng chửi mình không đây Thầy lại càng khúm núm ti tiện lấy lòng Abidaga, nhưng chỉ làm cho Abidaga nổi giận thêm. Nỗi oán ghét không sao hiểu nổi đó làm cho thầy bối rối, tê liệt cứng ngắc hơn, vụng về hơn, tin chắc rằng một ngày kia sẽ mất chẳng những nồi gạo, địa vị mà cả tính mạng nữa. Cho nên lúc nào thầy cũng lo lắng không yên, hết thất vọng ghê gớm thì lại nhanh nhẩu làm việc hăng hái như điên. Lúc này thầy tái mét, cứng đơ đứng trước Abidaga và ông ta cố nén giận bảo: “Này, thằng to đầu mà ngu kia, mày biết bầy heo đó, biết ngôn ngữ cùng âm mưu của chúng mà mày không tìm ra được con chó ghẻ nào đã phá hoại công việc của quan tể tướng. Chỉ vì mày cũng là loài chó ghẻ như chúng (…) Tao bảo cho mày biết này, tao sẽ chôn sống mày cho mày không còn một chút bóng nào – dù nhỏ như cọng cỏ – ở dưới ánh mặt trời nữa. Tao gia hạn cho ba ngày nữa, nếu những vụ phá hoại vẫn còn, mà mày không bắt được thủ phạm, không ngăn chặn những tiếng đồn ngu xuẩn về Thủy thần, về sự bỏ dở công việc thì tạo sẽ xóc xiên sống mày bêu ở chỗ cao nhất của giàn để mọi người thấy mà sợ và không làm bậy nữa. Tao đem mạng và tôn giáo của tao mà thề độc với mày như vậy. Hôm nay là thứ Năm, tao gia hạn cho mày tới chủ nhật đấy. Thôi, cút đi, đi!”

Abidaga chẳng phải thề thì thầy ta cũng tin lời dọa đó vì cả trong giấc ngủ, thầy cũng run lên, tưởng chừng còn nghe giọng nói và trông thấy vẻ nhìn của Abidaga. Thấy bước ra, sợ ghê gớm, run bật bật và tức thì hăng hái làm việc một cách tuyệt vọng. Thầy cho gọi các bộ hạ lại, đương mất hồn bỗng nổi cơn điên lên, chửi mắng: “Đồ đui đồ ăn hại!” gào hét như bị xóc xiên rồi vậy, quát vào mặt từng hiến binh một: -Chúng bay canh gác của cải Đức vua như vậy hả? Gọi đi ăn thì nhanh lắm, còn đi làm việc thì cẳng như bị cột lại trí óc như bị tê liệt. Tao xấu hổ vì tụi bay! Đừng phản phúc nữa, quân ăn hại! Tao sẽ giết hết tụi bay, bêu trên những giàn này. Chúng bay sẽ bay đầu hết nếu hai ngày nữa mà không bắt được, không giết được những tên ăn cướp đó mà làm ngưng vụ phá hoại này đi. Chúng bay chỉ còn hai ngày nữa để sống, tao thề bằng tôn giáo và kinh Coran như vậy!

Thầy ta gào hét hồi lâu, rồi không biết nói gì, dọa gì thêm nữa, thầy nhổ vào mặt từng người một. Nạt nộ xong rồi, cởi được nỗi sợ rồi (vì nổi giận là một hình thức sợ), thầy cương quyết một cách tuyệt vọng bắt tay vào việc liền. Ban đêm thầy dắt bộ hạ đi tuần dọc theo bờ sông.

Bỗng họ hình như thấy có tiếng gõ hay đập gì ở cái giàn cất xa bờ nhất, họ chạy lại, nghe thấy một tấm ván kêu răng rắc và một cục đá rớt tõm xuống nước. Tới nơi quả nhiên thấy giàn đã gãy mà tường đã bị phá, nhưng thủ phạm thì biệt tăm. Trước cảnh vắng lặng như có ma đó, họ run lên, một phần vì đêm lạnh, một phần vì sợ. Họ gọi nhau, mở rộng mắt nhìn trong bóng tối, vung vung mấy bó đuốc, nhưng chẳng thấy gì cả. Lại có kẻ phá hoại nữa, những không bắt được, như có ma vậy.

Đêm sau, viên đội chuẩn bị cuộc rình bắt kỹ hơn. Thầy cắt đặt vài người ở bờ bên kia nữa. Khi trời tối, thầy cho hiến binh núp ở khắp các giàn, còn thầy với hai người nữa ngồi trong chiếc ca-nô, chèo qua tả ngạn mà không ai thấy vì tối trời. Ở đó, chỉ quậy vài cái là tới gần những cột cầu mới bắt đầu xây. Như vậy là họ tấn công kẻ phá hoại cả hai phía, trừ phi là chim hay cá, còn thì không sao thóat được.

Mấy đêm dài lạnh lẽo đó, thầy đội năm trong chiếc canô, phủ mền bằng da cừu luôn luôn bị những ý nghĩ hắc ám nhất hành hạ, tự hỏi hoài Abidaga chỉ dọa thôi hay là sẽ giết mình thật, mà đời đống bên cạnh một xếp như cậy sợ sệt, khổ nảo quá, đâu phải là đời sống. Nhưyng dọc theo chỗ xây cất không nghe thấy một tiếng động nào cả, trừ tiếng nước chảy róc rách. Rồi trời hừng đông và trong cơ thể lạnh run tê cóng, thầy ta cảm thấy đời sống eủa mình tối sầm lại, ngắn lại.

Đêm sau, tức đêm thứ ba và đêmi cuối cùng, cũng sắp đặt canh gác như vậy, cũng sợ sệt chăm chú rình rrập. Đã quá nửa đêm. Đương lúc thầy thấy một nỗi chán nảm ghê gớm không thiết sống nữa lần lần xâm chiếm cõi lòng thì bỗng nghe thấy một tiếng nước vỗ nhẹ rồi một tiếng lớn hơn đập vào những cây đà bằng gỗ sên cắm xuống sông để dựng giàn. Tức thì từ phía đó một tiếng tu-huýt vang lên chói tai. Và chiếc ca-nô của thầy đã lướt tới. Đứng trong ca-nô, mở lớn mắt nhìn trong bóng tối, thầy hoa tay, la lớn, giọng ồ ồ: “Chèo đi, tận tận lực đi!”

Bọn hiến binh còn ngái ngủ hăng hái chèo nhưng hơi trễ, gặp ngay một dòng bước chảy xiết, đáng lẽ ghé vào giàn thì ca-nô lại trôi theo dòng nước. Nếu không có một cái gì đó ngăn nó lại một cách bết ngờ thì nó đã bị cuốn xa rồi.

ở giữa vực xoáy, chỗ không có cột cũng không có giàn, chiếc ca-nô đụng nhầm một vật nặng bằng gỗ, Nghe ầm một tiếng. Lúc đó họ mới hay rằng ở trên giàn, bọn hiến binh đương túm cổ, vật lộn với một kẻ nào đó. Họ đều là những người Hồi hóa ở trong miến, đồng thanh hét lớn.

- Nắm chặt lấy nó, đừng buông!

- Kakhriman, lại đây!

- Rồi.

Giữa những tiếng la om sòm đó, người ta nghe thấy một vật gì nặng hay một người nào đó té xuống nước. Thầy đội rất hoang mang, không biết mình hiện ngừng ở đâu cái gì đương xảy ra, nhưng khi tỉnh trí lại rồi, thầy đưa cây sào dài có móc sắt ở đầu móc vào cái cột mà ca-nô mới dụng phải, rồi kêo lại phía mình, cho chiếc ca-nô đi ngược dòng lại gần cái giàn. Bây giờ thầy đã tới những cây cột sên, phấn khởi, la lớn: -Đuốc đất đuốc lên! Đưa tao dây thừng!

Mới đầu không ai đáp cả. Mọi người cùng gọi nhau ơi ới mà không ai nghe, cũng chẳng ai hiểu người đứng bên mình nói gì. Một lát sau, một ngọn đuốc nhỏ chập chờn, e dè bắt lửa. Ánh sáng đầu tiên đó làm cho các hiến binh quáng mắt; người và vật với hình bóng, ánh đỏ chiếu trên nước, tất cả quay cuồng lẫn lộn, ai nấy hơi rờn rợn. Rồi thêm một cây đuốc khác. Lúc đó mới thấy rõ, người ta bắt đầu bình tĩnh lại và bắt đầu nhận ra nhau, và hiểu đầu đuôi mọi việc.

Từ chiếc ca-nô của thầy đội tới cái giàn, có một chiếc bè nhỏ (…) buộc vào một cây cột sên dưới giàn bằng một dây thừng làm bằng vỏ cây phỉ (…) Bọn hiến binh ở trên giàn đỡ cho xếp của họ bước qua chiếc bè và leo lên giàn.

Mọi người đều hổn hển, ngơ ngác hung dữ. Một nông dân theo Ki tô giáo bị cột, nằm trên sàn, ngực phập phồng, hơi thở dồn dập, con ngươi muốn lòi ra, trắng đã, kinh hoảng.

Có bốn hiến binh. Người lớn tuổi nhất rất xúc động kể với xếp rằng họ nép ở trên giàn mà rình. Trong bóng tối họ nghe thấy tiếng chèo quậy nước, tưởng là ca-nô của xếp, nhưng họ đủ khôn, cứ làm thinh đợi xem. Rồi họ thấy hai nông dân lại chỗ mấy cây cột, khó khăn mới buộc được chiếc bè vào một cây cột. Bọn hiến binh cứ để mặc cho chúng leo lên, tới sát rồi mới vung rìu ra chém, hạ được, trói lại. Tên nông dân này bị một nhát vào đầu bất tỉnh, nên trói dễ; còn một tên nữa mới đầu làm bộ chết giấc, rồi trờn như một con cá, len lỏi giữa các tấm ván, thoát xuống nước được.

Hiến binh đó ngừng kể, hoảng sợ, và thầy đội la lớn: -Ai để cho nó trốn thoát? Nói ngay, ai để cho nó trốn được, vì tao sẽ băm vằm tới bay hết, không chừa đứa nào?

Mọi người làm thinh, chớp chớp mắt dưới ánh sáng đỏ chập chờn, còn thầy đội thì quay mình lại như để tìm trong bóng tối tên nông dân trốn thoát đó, miệng không ngớt chửi rủa, sỉ nhục bọn họ tàn nhẫn hơn bao giờ hết.

Thình lình thầy ta giật mình, cúi xuống nhìn tên nông dân bị trói như nhìn một bảo vật, rồi rít lên trong miệng thành một giọng nho nhỏ, thê thảm: -Canh chừng này, canh kỹ nó! Đồ chó đẻ, tụi bay mà để thằng này thoát thì bay đầu với tao!

Bọn hiến binh lăng xăng ở bên kẻ bị trói, hai hiến binh khác thuyền từ giàn này qua giàn kia mà lên bờ. Thầy đội ra lệnh trói kỹ hơn nữa, thắt chặt hơn nữa, rồi họ khiêng lên bờ, nhè nhẹ, thận trọng như khiêng một thây ma. Thầy đội đi theo họ, mắt không rời tên nông dân, không ngó xuống dưới chân nữa. Bước mỗi bước thầy lại thấy mình lớn lên một chút, bây giờ mới thực sự bắt đầu sống đây.

Ở trên bờ, có nhiều cây đuốc khác bắt dầu cháy, bập bùng rồi tắt, rồi cháy lại. Người ta khiêng nông dân đó vô một cái lều quán của thợ, tại đó đã đốt lửa, rối buộc hắn vào một cây cột bằng thừng và xích gỡ ở lò than ra.

Hắn chính là Radislav ở Ounitché. Thầy đội bình tĩnh lại một chút, không còn rên như ngựa hí và chửi thề nữa, nhưng không đứng yên một chỗ. Thầy phái mấy hiến binh đi dọc theo bờ sông về phía dưới để tìm tên nông dân đã nhảy xuống sông kia, mặc dầu ai cũng biết rõ rằng đêm tối như vậy, nó nếu không chết đuối thì đã trốn thoát rồi, làm cách nào mà bắt được. Thầy còn ra nhiều lệnh khác nữa, đi ra, đi vô, đi tới, đi lui, xúc động dữ. Thầy bắt đầu lấy khẩu cung tên nông dân, nhưng rồi thôi. Mọi hành động của thầy chỉ là để nén, giấu nỗi lo lắng, vì thực ra thầy chỉ có mỗi một ý nghĩ: đợi Abidaga tới. Và thầy không phải đợi lâu.

Abidaga có thói quen ngủ được một giấc đầu rồi, vừa quá nửa đêm là tỉnh dậy, không ngủ lại được nữa đứng gần cửa sổ, ngó trong bóng tối. Từ trên bao lơn khu Bhikavats này ban ngày ông ta có thể nhìn thế thung lũng sông Drina và tất cả khu xây cầu: chòi, nhà xay bột, chuồng ngựa, và cả khoảng đất lồi lõm, ngổn ngang bừa bãi chung quanh. Lúc này đây trong bóng tối nhìn về phía đó, ông ta đoán được vị trí, nghĩ ngợi chua chát, tự nhủ thầm rằng công việc tiến hành chậm quá khó khăn quá, một ngày kia sẽ tới tai quan tể tướng mất. Thế nào mà chẳng có kẻ ton hót với ngài. Chưa biết chưng chính là thằng Tosoun Efendi lãnh đạm, âm hiểm mặt mày nhẵn nhụi đó. Như vậy thì ông ta có thể bị thất sủng mất. Chính vì vậy mà ông ta không ngủ được và run sợ cả trong giấc ngủ. Mỗi khi nghĩ đến nông nỗi bị thất sửng, ông thấy thức ăn như độc được, mọi người đều khả ố mà đời sống đau khổ quá chừng. Ông tưởng tượng thất sủng thì ra sao: mi sẽ không được gần gũi quan tể tướng nữa, kẻ thù của mi sẽ chế giễu mi (thôi mà, tội nghiệp.), mi sẽ chẳng còn ra cái quái gì nữa, chỉ như một miếng giẻ rách, một thằng khốn nạn chẳng những trong mắt người khác mà cả trong mắt mi nữa, thất sủng thì mất luôn cả một sản nghiệp đã khó nhọc ra sao mới gây dựng được; mà có giữ được thì cũng phải lén lút gậm nhấm dần nó ở xa lstamboul, tại một tỉnh tối tăm, hẻo. lánh nào đó, bị mọi người quên đi như một vật thừa, khốn nạn, làm trò cười cho thiên hạ. Không, bắt tôi chịu cảnh gì thì bắt, đừng bắt tôi chịu cảnh đó? Thà bắt tôi không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không hít không khí nữa. Không còn của cải thì thà đừng làm người nữa mà lại hơn, hơn cả trăm lần! Chính ý nghĩ đó nó cứ ám ảnh ông ta hoài mỗi ngày không biết bao nhiêu lần, đã làm cho máu ông dồn lên thái dương, đau nhói, dồn lên đỉnh đầu, mà không lúc nào biến mất được, đọng lại đó như một thứ cặn đen. Đó, bị thất sủng thì như vậy mà sự thất sủng có thể tới bất kỳ ngày nào, giờ nào, vì mọi người mọi sự như hùa nhau để thúc đẩy nó tới mà chỉ có mỗi một mình ông để chống cự lại: nghĩa là một mình ông phải đương đầu với mọi người, mọi sự. Tình cảnh đó kéo dài đã mười lăm năm rồi từ ngày quan tể tướng giao cho ông ta những công việc quan trọng. Mà ai là người chịu nổi ưu tư như vậy? Làm sao ăn ngủ bình tĩnh cho được?

Mặc dầu đêm thu đó lạnh và ẩm thấp, Abidaga cũng mở cửa sổ, ngó ra ngoài đêm tối, vì ông ta có cảm tưởng nghẹt thở trong căn phòng kín này. Và mở cửa ra, ông nhận thấy có ánh sáng bùng lên, đi qua đi lại trên mấy cái giàn và dọc theo bờ sông. Khi nhận thấy đốm sáng càng lúc càng nhiều, ông đoán rằng có chuyện gì bất thường xảy ra: ông bèn thay quần áo, đánh thức tên gia nhân. Vì vậy ông tới chuồng bò đúng lúc thầy đội không biết chửi rủa gì nữa, ra lệnh cho ai nữa, để thì giờ ngắn lại, bớt sốt ruột.

Abidaga tới bất ngờ làm cho thầy ta hoàn toàn bối rối. Thầy mong đợi lúc này lắm chứ. Nhưng bây giờ, thầy lại không biết lợi dụng tình thế như thầy đã nghĩ trước. Xúc động quá, thầy lắp bắp, quên bẵng tên nông dân bị trói đi. Abidaga chỉ khinh bỉ nhìn cao lên khỏi đầu thầy rồi tiến lại phía tên nông dân bị bắt.

Người ta khêu lửa cho cháy rực hơn, thành thử cả góc xa nhất trong luồng bò cũng sáng, và bọn hiến binh tiếp tục thỉnh thoảng đút thêm củi vào.

Abidaga đứng trước mặt tên nông dân bị trói, hắn thấp hơn ông ta nhiều. Ông ta bình tĩnh, có vẻ suy nghĩ. Mọi người đợi ông nói, nhưng ông vẫn trầm tư: thì ra mình phải chiến đấu đọ sức vôi tên đội đê tiện, ngu ngốc, Hồi hóa và con sâu bọ Ki tô giáo tàn bạo, cứng cổ không sao hiểu nổi này đây, địa vị mình, vận mạng mình tùy thuộc bọn này đây. Ông rùng mình và bắt đầu ra lệnh lấy khẩu cung.

Chuồng bò đặc nghẹt hiến binh. Ở ngoài, lào xào có tiếng các giám thị và thợ thuyền đã tỉnh dậy. Abidaga hỏi, thầy đội thông ngôn lại.

Mới đầu Radislav bảo hắn với một thanh niên nữa định trốn đi nên mới làm chiếc bè nhỏ đó và thả trôi theo dòng sông. Khi người ta bảo lời khai đó vô lý vì đêm tối như vầy, nước chảy cuồn cuộn, nhiều xoáy đá ngầm, bãi nổi, thì làm sao thả bè được – với lại, muốn trốn mà sao lại leo lên giàn, phá hủy công việc xây cất thì hắn không đáp, chỉ xấc láo bảo: -Tôi ở trong tay các người. Các người muốn làm gì thì làm.

Abidaga quát liền: -Được lắm? Mày sẽ thấy chúng tao muốn gì.

Bọn hiến binh cởi dây xích, đế hở ngực hắn ra, liệng dây xích vào trong lửa rực và đứng đợi. Vì dây xích đầy mồ hóng, nên trên tay họ, người họ, trên thân thể ở trần của anh nông dân, chỗ nào cũng dính vết đen. Khi dây xích đã gần đỏ rồi, Merdjan, gốc Tsigane[29] lại gần, dùng những cái kìm dài gắp một đầu, lôi ra; một hiến binh khác cũng dùng cách đó giữ đầu kia.

Thầy đội thông ngôn lời của Abidaga: -Bây giờ mày khai thực cho chúng tao nghe.

- Tôi có gì đâu mà khai? Các người biết hết rồi và muốn làm gì thì làm.

Hai người kia đem dây xích lại gần, quấn vào cái ngực nở nang đầy lông của người nông dân. Lông ngực cháy xèo xèo khét lẹt. Miệng người đó mím lại, gân cổ phồng lên, xương sườn lòi ra, bắp thịt ở bụng bắt đầu thắt lại rồi dãn ra như khi người ta mửa. Anh ta rên rỉ, vùng vẫy vô ích, cố bứt những sợi dây thừng cột trói anh, cố làm cho dây xích nóng bỏng bớt chạm vào da thịt. Anh ta chớp chớp mắt, nước mất chảy ròng ròng trên má. Người ta kéo dây xích ra.

- Đấy mới chỉ là hình phạt đầu tiên thôi. Khai ngay đi đừng để tao tra tấn, chẳng hơn

Người nông dân thở phì phì bằng mũi, nhưng vẫn làm thinh.

- Đứa nào cùng phá với mày?

- Tên hắn là Jean, nhưng tôi không biết nhà cửa, làng mạc ở đâu.

Lại dí dây xích vào, lông và đưa lại cháy xèo xèo.

Khói bốc lên làm cho anh ta sặc. Đau quá, anh ta bắt đầu khai nhát gừng.

Hết thảy chỉ có hai người đồng ý phá cầu. Người khác không có ai hay và không dự vào. Mới đầu từ bờ ra, họ đã phá vài chỗ, thành công, nhưng sau thấy có lính canh gác ở giàn và dọc theo bờ, họ nảy ra ý buộc ba cái cột gỗ làm thành chiếc bè, như vậy có thể thả trôi đi trên dòng sông xuống chỗ cất cầu mà không ai hay. Họ làm như vậy từ ba bữa trước. Đêm đầu xuýt bị bắt thì thoát kịp. Cho nên đêm sau họ ở nhà. Đêm nay họ cũng lại dùng bè và việc đã xảy ra như vậy.

Chỉ có bấy nhiêu thôi. Trước sau như vậy. Chúng tôi hành động như vậy, và bây giờ các người muốn làm gì tôi thì làm.

- Không, tao muốn biết điều khác kia, muốn biết đứa nào đã xúi mày phá cầu. Hình phạt mới rồi chưa thấm gì đâu, sẽ còn nhiều cách tra tấn khác nữa.

- Muốn tra tấn sao tùy ý.

Chú thợ rèn Merdjan đem kìm lại, quì xuống và bắt đầu nhổ những móng trên bàn chân trần của người nông dân. Anh ta nghiến răng không rên la, nhưng nửa người phía trên run lên kỳ dị – mặc cầu bị trói kỹ – dủ biết anh đau dớn ghê gớm. Có lúc một tiếng phào phào thoát ra khỏi miệng anh. Thầy đội rình từng cử động, lời nói của anh, mong anh thú bất kỳ một điều gì nên ra dấu cho Merdjan bảo ngừng lại, rồi thầy nhảy bổ tới hỏi:

- Sao, mày nói gì?

- Không. Tôi bảo: tại sao các người hành hạ tôi, mất thì giờ vô ích như vậy?

- Khai ngay, ai xúi mày?

- Ai xúi tôi à? Qui nó xúi.

- Quỉ?

- Phải, quỉ. Chính con qui nó đã xúi các người lại đây xây cầu chính nó đấy.

Giọng anh ta dịu dàng nhưng cương quyết rành mạch.

Quỉ! Cái tên đó kỳ dị mà thốt ra một cách chua chát làm sao trong hoàn cảnh rất đặc biệt này!

Quỉ! Thầy đội nghĩ bụng, mà có qủi thật. Thầy bây giờ đứng cúi đầu xuống, như thể vai trò đã đảo ngược và chính thầy bị tên tù kia tra vấn. Tiếng quỉ đó chạm vào một nhược điểm của thầy, bỗng làm nổi dậy tất cả những nỗi lo lắng, sợ sệt mạnh mẽ, mênh mông hơn bao giờ hết; những nỗi lo đâu đã tiêu tan khi thầy bắt được thủ phạm. Phải, có lẽ mà tất cả những cái đó, Abidaga, việc xây cầu và tên nông dân điên khùng này, đều do quỉ xui nên. Quỉ! Có lẽ chỉ có quỉ là đáng sợ thôi. Thầy rên lên, ngửa đầu ra phía sau. Đúng lúc đó, giọng quát tháo của Abidaga làm cho thầy giật mình, bừng tỉnh: -Ủa, mày ngủ gục đó, quân vô lại kia

Abidaga cầm chiếc roi ngắn bằng da quất vào chiếc giày ống bên phải của ông ta.

Merdjan vẫn còn qùi, tay cầm kìm, ngước cặp mắt đen lóng lánh lên nhìn thân hình cao lớn của Abidaga một cách khúm núm sợ sệt. Bọn hiến binh lại khêu thêm lửa mặc dầu ngọn lửa đã bốc cao (…). Trong chuồng bò và ở chung quanh; có cái không khí kinh hãi uy nghi, yên lặng đặc biệt như tại mọi nơi lấy khẩu cung và tra tấn hoặc như tại những nơi tiết lộ thiên cơ. Abidaga, thầy đội và tên tù cử động và nói năng như đương diễn trò, còn mọi người khác thì rón rén đi, mắt nhìn xuống, nói thì thầm với nhau ít tiếng đủ hiểu thôi. Ai cũng mong được ở chỗ khác không dự vào việc này, nhưng đã phải ở lại thì nói thật nhỏ, cử động thật ít, như vậy ít nhất cũng có vẻ xa cách hơn, bớt dính líu đi.

Thấy việc lấy khẩu cung tiến hành chậm quá mà coi mòi không có kết quả, Abidaga bực mình; chửi thề một tràng rồi bước ra, theo sau là thân hình lắc của thầy đội cuối cùng là bọn hiến binh.

Bên ngoài đã hừng đông. Mặt trời chưa ló nhưng chân trời đã sáng. Từ đồi này tới đồi khác, có những đám mây kéo dài ra thành những giải tím thẫm trên một nền trời sáng, trong, màu xanh tựa lá cây. Những cây ăn trái lá thưa thớt và vàng ló ngọn lên khỏi những làn sương mù là là trên mặt đất ướt. Abidaga vẫn cầm roi quất vào chiếc giày ống của mình ra lệnh: tiếp tục lấy khẩu cung, đặc biệt bắt phạm nhân khai kẻ đồng lõa, nhưng đừng tra tấn nó tới chết;. chuẩn bị để mời hai giờ trưa hôm đó xóc xiên[30] bêu nó trên cái giàn cao nhất ở chỗ cao nhất, cho thợ hai bên bờ và dân thị trấn đều trông thấy; Merdjan Phải chuẩn bị tất cả những công việc đó còn tên mõ thì phải đi rao khắp thị trấn rằng giữa trưa dân chúng sẽ thấy ở trên cầu những kẻ phá cầu bị xử tội ra sao, và tất cả đàn ông Thổ và Ki tô giáo, già trẻ lớn bé phải tụ tập lại đó hết.

Hôm đó là ngày Chủ nhật. Chủ nhật cũng làm việc như những ngày khác, nhưng hôm nay, ngay bọn giám thị cũng lơ đãng. Mặt trời vừa mới mọc thì ai nấy đều biết tin rằng tên phá cầu đã bị bắt, tra tấn và sẽ bị hành hình vào giữa tra. Cái tâm trạng vừa e dè vừa nghiêm trọng từ chuồng bò lan ra khắp chung quanh nơi xây cầu. Bọn làm xâu im lặng làm việc, tránh không nhìn thẳng vào mắt nhau mà đăm đăm ngó vào công việc như buổi khai thiên và tận thế vậy.

Mới mười một giờ, dân thị trấn, đa số là Thổ đã tụ họp trên bình nguyên ở gần cầu. Trẻ con leo lên những phiến đá lớn chưa đục đẽo ở đó. Thợ lăng xăng chung quanh những tấm ván hẹp trên đó người ta phát bánh mì để họ vừa đủ sống. Họ vừa nhai vừa ngó chung quanh, im lặng ngơ ngác sợ sệt. Lát sau, Abidaga tới với Toson Efendi, thợ cả Antoine và vài thân hào Thổ. Họ đứng ở một chỗ cao ráo giữa khoảng từ cầu tới chuồng bò giam phạm nhân. Abidaga tới chuồng bò một lần cuối cùng, mọi việc đã chuẩn bị xong: có một cái nọc bằng gỗ “sên” dài khoảng hai thước rưỡi, nhọn, đầu bịt sắt, nhỏ mà thon, bôi đầy mỡ bò. Trên giàn có đóng nhiều cây cột để chẹn và đỡ cây nọc, có cả một cái vồ bằng gỗ để nện cây nọc, và dây thừng, đủ hết, không thiếu thứ gì.

Thầy đội thảng thốt, mặt tái mét, mắt dỏ ngầu. Ngay lúc này mà thầy cũng tránh, không dám nhìn cặp mắt nẩy lửa của Abidaga.

- Nghe kỹ này, nếu mọi sự không được như ý, nếu mày làm cho tao mất mặt trước dân chúng thì mày và cả cái đồ cứt ngựa là thằng Tsigane kia đừng trông thấy mặt tao nữa, tao sẽ nhận chìm chúng bay xuống sông Drina như những con chó con đui vậy.

Rồi ông ta quay lại nhìn chú thợ rèn Tsigane đương run lẩy bẩy, dịu giọng xuống bảo:

- Này, tao thưởng công cho sáu đồng này[31], nếu tới tối mà nó còn sống thì mày sẽ được thêm sáu đồng nữa. Làm cho cần thận nghe không

Từ trên đỉnh tháp giáo đường chính của Hồi giáo ở trung tâm thị trấn, viên Hodja[32] cất tiếng trong mà cao. Tâm trạng lo ngại lan trong đám người tụ tập và một lát sau, cửa chuồng bò mở ra. Mười hiến binh sắp thành hai hàng, mỗi hàng năm người. Ở giữa là Radislav chân không, đầu trần: vẫn nhanh nhẹn và cúi đầu, anh ta không giạng chân và lắc lư như rây bột nũa. Anh bước từng bước ngắn một, vẻ kỳ cục, gần như thảy cà xởn vì chân bị thương, móng chân chỉ còn là những lỗ máu me bê bết, vai anh đeo một cái cọc dài, trắng, nhọn. Theo sau anh là Merdjan và hai Tsigane khác, phụ tá Merdjan trong việc hành hình. Bỗng thầy đội cười ngựa hồng không hiểu từ đâu phi lại, dẫn đầu đoàn đó lại giàn cách xa chỉ độ trăm thước …

Thiên hạ nghểnh cổ, nhón gót để nhìn con người âm mưu tổ chức vụ kháng cự và phá hoại. Ai nấy đầu ngạc nhiên thấy vẻ khốn nạn, quá tầm thường của anh ta, khác hẳn hình ảnh trong trí tưởng tượng của họ. Dĩ nhiên không ai biết tại sao anh ta nhảy cà xởn cà xởn kỳ cục như vậy vì người ta đã bận cho anh chiếc áo lót và chiếc áo da cừu, che những vết cháy ăn sâu vào ngực anh thành những vòng lớn như cái đai, do dây xích gây ra. Vì vậy mà anh có vẻ khốn nạn, tấm thường quá, không ra con người đã cả gan làm công việc phá hoại kia. Chỉ có chiếc nọc dài, trắng là làm cho cảnh tượng hóa ra nghiêm trọng ghê rợn, mọi người phải chú ý tới.

Khi họ tới chỗ đào đất ở trên bờ, thầy đội xuống ngựa, vung tay một cách uy nghiêm mà phường tuồng, trao dây cương cho tên hầu, rồi cùng với đoàn hiến binh mất hút trong con đường lầy lội, hiểm trở đưa xuống sông. ít phút sau người ta thấy họ hiện ra cũng theo thứ tự như trước ở trên mấy cái giàn mà họ thận trọng, chậm chạp leo lên. Qua những chỗ hẹp cất bằng đà và ván, bọn hiến binh, bao sát Radislav để anh ta không thể nhảy xuống sông được. Họ chậm chậm leo lên mỗi lúc một cao, sau cùng lên tới đỉnh. Tại đây có một cái sàn rộng bằng một phòng trung bình, như một sân khấu cao hơn chung quanh. Radislav, thầy đội và ba người Tsigane đứng tại đó, còn các hiến binh đứng rải rác chung quanh, trên giàn.

Dân chúng đứng coi ở bình nguyên, lao nhao, đổi chỗ. Họ chỉ cách cái sàn khoảng trăm bước, nên trông thấy rõ từng người, từng cử động, nhưng không nghe được lời nói, phân biệt được chi tiết. Còn đám đông và thợ ở bên tả ngạn, xa gấp ba, chạy đi chạy lại, rán kiếm chỗ để nghe cho rõ, nhìn cho rõ. Nhưng họ không nghe thấy gì hết, mà những cảnh lúc đầu có vẻ tầm thường, chán quá, còn cảnh lúc cuối thì rùng rợn quá, thành thử mọi người quay mặt đi, nhiều người vội vàng trở về, ân hận rằng đã tới.

Khi người ta ra lệnh cho Radislav nằm xuống, anh ta do dự một chút rồi chẳng ngó bọn Tsigane và hiến binh, coi như không có họ mà lại gần thầy đội, như thể người thân, nói nho nhỏ, khàn khàn có vẻ nói chuyện riêng với nhau: -Anh ơi, anh làm ơn xiên tôi nhè nhẹ, đừng để tôi đau đớn như con chó nhé.

Thầy đội hoảng hốt, giật mình, la lớn như không chấp nhận sự thố lộ tâm sự đó.

- Thằng theo Ki tô giáo kia, lại nằm xuống. Mày cả gan phá hoại cầu của đức Vua mà còn năn nỉ gì nữa. Như mụ đàn bà ấy Tao cứ theo lệnh trên mà làm, cho xứng với tội mày.

Radislav cúi thấp đầu hơn nữa. bọn Tsigane lại lột áo da cừu và áo lót mình của anh, để hở những vết thương sưng vù và đỏ ở ngực anh ra. Không nói gì thêm nữa, anh theo lệnh, nằm sấp xuống. Hai người Tsigane mới đầu trói ké anh rồi cột một dây thừng vào mỗi cẳng chỗ mắt cá. Mỗi người kéo về một phía, để chân anh giang ra. Trong lúc đó Merdjan đặt cái nọc lên trên hai khúc gỗ ngắn và tròn, để cho đầu nhọn của nọc nằm giữa hai cẳng anh nông dân. Rồi chú ta rút từ dây lưng ra một con dao lưỡi rộng mà ngắn, quì xuống bên cạnh kẻ bị hành hình, cúi xuống cắt đáy quần anh ta, rạch rộng chỗ mà chiếc nọc sẽ xiên vào người. Công việc ghê tởm nhất của tên đao phủ đó, cũng may dân chúng đứng xa không thấy, chỉ thấy thẩn thể tội nhân bị lưỡi dao đâm vào rất mau, run lên, ưỡn lên một nửa như muốn vùng dậy, rồi thình lình rớt xuống, đập vào sàn nghe ầm một cái. Làm xong, chú Tsigane nhảy ra, vớ cái vồ bằng gỗ ở trên sàn, gõ nhè nhẹ, có chừng mực, vào dầu dưới, tròn của chiếc nọc. Cứ gõ một cái, chú lại ngưng tay một chút, ngó thân thể tội nhân, mà chiếc nọc đã xiên vào rồi ngó hai người Tsigane bảo họ kéo nhẹ nhẹ cho đều tay. Thân thể tội nhân, chân giang ra, bất giác giật giật, co quắp lại. Cứ mỗi lần gõ vào cái vồ thì xương sống của anh gập lại, nhưng hai người Tsigane lại nắm dây thừng kéo cho nó duỗi ra.

Trên hai bờ sông im phăng phắc, người ta nghe rõ từng tiếng vồ một, nghe cả tiếng vang ở một nơi nào đó trên sườn dốc hiểm trở nữa. Những người đứng gần nhất có thể nghe thấy trán kẻ bất hạnh đập vào, và một thanh âm khác kỳ dị, không phải là tiếng rên, tiếng kêu, cũng không phải tiếng thở hắt ra, của người sắp chết, không giống một thanh âm nào của con người cả. Tất cả thân thể bị căng ra, hành hạ đó, phát ra một tiếng rít, rắc rắc như cọc hàng rào bị dẫm, hoặc như cành cây bị bẻ. Cứ gõ hai cái rồi, Merdjan lại tới bên cạnh tội nhân nằm sóng sượt, cúi xuống coi xem chiếc nọc có đâm vô đúng hướng không, và khi tin chắc rằng nọc không làm thương tổn một bộ phận quan hệ nào cả, chú ta lại trở về chỗ cũ tiếp tục công việc.

Đứng trên bờ chi nghe thấy nho nhỏ rnà nhìn lại càng không rõ hơn nữa, nhưng người nào người nấy chân đều run lên, mặt tái mét, ngón tay lạnh cóng.

Merdjan ngưng một lát vì nhận th?