Chương IV
Tất cả những người hôm đó đứng ở bờ bên đây hay bờ bên kia nhìn vụ hành hình đều phao những tin đồn ghê gớm trong thị trấn và các miền chung quanh. Dân làng và thợ thuyền kinh hoàng không thể tả nổi (…) Câu chuyện nào cũng quay chung quanh con người còn sống ở đầu cái nọc trên cao đó, khỏi mặt giàn. Ai cũng tự thề không nhắc tới hắn; nhưng lời thề mà có giá trị gì khi ý nghĩ của người ta cứ hướng hoài về hắn, khiến mắt bị thu hút về phía đó?
Những nông dân, hết người này tới người khác, từ Bania đánh những xe bò chở đá lại, đều cúi mặt xuống, dịu dàng thúc bò. Dọc bờ sông và ở trên giàn, thợ thuyền trong khi làm việc cũng tránh hỏi chuyện nhau, hoặc có thì chi thì thầm thôi. Ngay những giám thị cầm chiếc can nhỏ bằng cây phỉ cũng bớt tàn nhẫn mà hiền hơn.
Bọn thợ đá Dalmatie mặt mày tái mét, nghiến răng quay lưng lại phía cầu mà giận giữ đục đá và trong cảnh yên lặng, tiếng đục kêu cách cách như một đàn chim gõ mõ.
Hoàng hôn đổ xuống mau, thợ thuyền vội vàng về nhà, muốn rời giàn càng mau càng tốt. Trướckhil tối trời, Merdjan và một tên hầu tin cẩn của Abidaga lại leo giàn lên tận chỗ Radislav, coi chắc chắn xem tội nhân còn sống và tỉnh không sau bốn giờ bị xóc xiên. Anh ta lên cơn sết, con người đưa qua đưa lại một cách khó nhọc, chậm chạp, và khi thấy Merdjan ở dưới chân mình, anh rên lớn hơn rồi trút linh hồn. Người ta chỉ bắt được mấy tiếng rời rạc này: -Tụi Thổ … Thổ … cầu …
Họ thỏa mãn, trở về nhà Abidaga ở khu Bikavats, dọc đường báo cho mọi người hay rằng phạm nhân còn sống; hắn còn nghiến răng, giọng nói còn trong, đứng dưới chân nọc còn nghe rõ, vậy có hi vọng trưa hôm sau hắn mới chết. Abidaga cũng thỏa mãn, ra lệnh phát cho Merdjan số tiến thường đã hứa.
Đêm đó, trong thị trấn chung quanh cầu, ai nấy đều hồi hộp, thấp thỏm trong giấc ngủ. Đúng hơn là người nào ngủ được thì ngủ; nhiều người không nhắm được mắt.
Hôm sau, thứ hai, là một ngày nắng ráo tháng mười một. Mọi người ở chung quanh cầu và trong thị trấn đều nhìn về phía giàn chằng chịt đà và ván, chú ý tới phạm nhân bị xóc xiên trơ trơ một mình và ngay đơ ở mép giàn như một người đứng ở mũi tàu. Và nhiều người khi thức dậy, tưởng những điều mình thấy hôm trước ở trên cầu đã xảy ra trong giấc mộng; bây giờ đây họ đứng yên đăm đăm ngó cơn ác mộng của họ thành sự thực, kéo dài ra dưới ánh sáng mặt trời.
Bọn thợ cũng im lặng làm việc như hôm trước, họ rất hối hận và chua chát. Dân thị trấn vẫn thì thầm với nhau, hoang mang. Merdjan và cũng vẫn tên hầu tin cẩn của Abidaga lại leo lên giàn, đi chung quanh phạm nhân mấy vòng, nói với nhau gì đó, ngửng đầu lên nhìn mặt người nông dân. Chi coi cái vẻ mặt họ khi xuống bờ sông và làm thinh đi qua đám thợ, người ta cũng biết rằng người nông dân đã tắt thở. Và mọi người Serbie thấy nhẹ mình đi, như được một thắng lợi vô hình. Bây giờ ai nấy đều bạo dạn ngó lên phía giàn bêu tội nhân, và cảm thấy rằng trong cuộc vật lộn liên tục với tụi Thổ, cán cân trút về phía mình. Chết là cùng, chứ gì. Trước kia sợ sệt không dám hé răng, bây giờ họ tự nhiên mở miệng.
Lấm bùn bê bết, nhễ nhãi mồ hôi, tái mét xanh xao, râu ria lởm chởm, dùng những đòn bẩy bằng gỗ thông để lăn những khối đá lớn, họ ngừng lại một chút, khạc vào lòng bàn tay và thì thảm với nhau: -Xin Chúa phù hộ cho anh ấy!
- Một bậc tuẫn tử! Đáng thương hại cho chúng ta!
- Nhưng anh không thấy anh ấy đã thành thánh ư? Một vị thánh rồi, anh ạ!
Và mọi người kín đáo ngắm người chết đứng thẳng ở trên cao kia, như cầm đầu một đoàn quân, không có vẻ đáng sợ hay đáng thương nữa. Trái lại, ai nấy đều thấy rõ rằng nông dân đó đã siêu quần, vĩ đại tới mức nào. Anh ta không còn ở trên mặt đất nữa, tay không còn bíu vào cái gì cả không lội cũng không bay, tự đứng vững được; trút được những liên lụy trên cõi trần, anh không đau khổ nữa; không ai có thể làm gì được anh cả, súng gươm, những ý nghĩ xấu xa, những lời nói độc địa, ngay cả tòa án Thổ cũng không làm gì được anh.
Hình người ở trần tới dây lưng đó, tay chân bì trói, cứng đơ, đầu ngả vào cái nọc, không ra vẻ một thể xác trương lên rồi tan rã, mà giống một pho tượng dựng trên cao, cứng cỏi, bất diệt, cùng với non sông trường tồn.
Ở trên xóm Meidan, bọn phụ nữ chạy ù qua sân, thăm người láng giềng, thì thào với nhau vài phút, thút thít rồi vội vàng trở về nhà kẻo thức ăn cháy mất. Một bà chong một ngọn đèn nhỏ trước tượng thờ. Rồi nhà nào cũng chong một ngọn đèn thờ ở một chỗ khuất trong phòng. Trong không khí trang nghiêm đó, trẻ nhấp nháy mắt nhìn những ngọn đèn đó, lắng nghe những câu khó hiểu, ngắt quãng của người lớn: “Xin Chúa bảo vệ chúng con, che chở chúng con!”, “Ôi! Vị tuẫn tử đó được Chúa thương yêu; công lao khác gì dựng được ngôi giáo đường lớn nhất?”, “Chúa tối cao tối đại, xin Chúa giúp đỡ chúng con, Chúa diệt kẻ thù cho chúng con, đừng cho nó cầm quyền lâu!”
Bọn trẻ hỏi hoài: tuẫn tử là gì? Ai dựng giáo đường ở đâu? Bọn con trai tò mò nhất và mẹ chúng tìm cách dỗ chúng: -Im đi con cưng, nghe lời mẹ, đừng hỏi nữa, suốt đời con phải coi chừng tụi Thổ mắc dịch đó, nghe con!
Và trước khi đêm tối lại đổ xuống lấn nữa, Abidaga đi khám xét lại công việc, vừa lòng rằng sự hành hình ghê gớm đó đã có kết quả, bèn ra lệnh cho đem xác nông dân đi:
- Liệng con chó đó cho chó xé thây nó đi!
Đêm đó – thình lình tối sầm – không khí ẩm thấp và ấm như một đêm xuân, bọn thợ bỗng náo động, sùng sục lên, thật khó hiểu. Những kẻ trước kia không muốn nghe bàn về việc kháng cự, phá hoại, bây giờ cũng sẵn sàng hy sinh, không từ chối một việc gì. Xác người nông dân dã thành một vật linh thiêng. Mấy trăm người mệt đừ do bản năng, do sức mạnh của lòng trắc ẩn và những cổ tục, bỗng nhiên lao nhao lên, hợp lực nhau để lấy cho được xác người tuẫn tử, chôn cất theo nghi lễ Ki tô giáo không để cho tụi Thổ phạm tới. Họ thì thầm thận trọng bàn tính với nhau trong các chuồng bò, lều quán, góp nhau được một số tiền lớn là bảy đồng để đút lót Merdjan.
Họ lựa ba người lanh lợi nhất và ba người này tìm cách tiếp xúc với tên đao phủ. Mồ hôi đầm đìa, mệt lử sau khi làm việc, ba nông dân đó bây giờ đương ung dung thương lượng, dùng mưu mô nói quanh co. Người lớn tuổi nhất cau mày, gãi đầu, làm bộ ấp úng, nói với tên Tsigane: -Thôi thế là mọi sự đã xong, số phận đã an bài. Có điều là anh biết sự thể ra sao, nói mà nghe, cũng là con người cả, như thiên hạ thường nói, cũng là do Trời sinh ra cả, không nên để cho, nói mà nghe, để cho loài thú ăn thịt cho chó xé thây.
Merdjan đã đoán được họ muốn gì rồi, làm tiền được đây chỉ than thở giữ thế chứ không khăng khăng gạt đi.
- Thôi đi anh em ơi, đừng nói nữa. Anh em muốn tôi bị nướng sống sao đây. Anh em không biết tên Abidaga đó hung dữ như sơn-miêu sao!
Chú nông dân đó đau khổ cau mày nghĩ bụng: “Thằng này là một tên Tsigane, vô tôn giáo, vô linh hồn, không có tình nghĩa gì cả, không thân thiện với nó được. Nó có biết sợ thần thánh gì đâu mà thề với thốt.” Tay phải chú ta nắm chặt bảy đồng bạc trong cái túi nông của chiếc áo ngoài.
- Nhưng tôi biết sự tình ra sao rồi. Chúng tôi biết, nói mà nghe, rằng đối với anh cũng vậy, không phải là dễ dàng. Có điều là, chúng tôi biết phải quấy. Thế này, chúng tôi đã xoay được bốn đồng dể tặng anh, và chúng tôi nghĩ bấy nhiêu là vừa phải.
Không, không, sinh mạng của tôi quí hơn hết thảy của cải trên đời này. Mà Abidaga sẽ không để cho tôi sống đâu, cả khi hắn ngủ mà cũng không gì qua mắt hắn được. chỉ nghĩ tới điều đó thôi tôi cũng chết khiếp rồi.
Chú nông dân mặc những lời than thở của tên Tsigane, đề nghị thêm.
- Bốn, năm nữa đi, cũng được. Chúng tôi sẽ xoay xở cho đủ.
- Tôi không dám đâu, không dám đâu, thôi!
- Nè, anh được lệnh liệng cái … cái xác đó, nói mà nghe, như… cho chó, thì anh cứ liệng đi, rồi cái gì xảy ra sau đó, anh khỏi quan tâm tới, chẳng ai tra hỏi anh làm gì? Và này nhé, thế thì, nói mà nghe, chúng tôi lượm cái xác đó chôn theo nghi lễ chúng tôi, nhưng chôn lén, nói mà nghe, khiến cho không ai hay cả. Rồi hôm sau anh bảo rằng, chó, nói ví dụ vậy, chó đã lôi … cái xác đó đi đâu mất rồi, ví dụ vậy. Không ai thấy, không ai hay, mà anh thì sẽ được trả ơn.
Chú nông dân nói năng dè dặt, cân nhắc từng lời, nhưng trước khi thết tiếng “cái xác” thì ngừng lại, ngượng ngùng khác thường.
- Bộ anh em tưởng rằng vì năm đồng mà tôi liều mạng tôi sao? Không, không.
Chú nông dân bình tĩnh tăng thêm: -Sáu đấy
Tức thì tên Tsigane đứng dậy, giang tay ra làm ra vẻ nghiêm trang, thành thực mà cảm động, vẻ mà chỉ hạng người nói dối mà vẫn cho là mình nói thực, mới có được; hắn đứng trước chú nông dân như thể chú là đao phủ mà hắn là kẻ phạm tội.
- Số phận đã vậy, thì tôi đành mất đầu thôi, mụ vợ tôi sẽ thành đàn bà góa, con cái tôi sẽ mồ côi cha; đưa tôi bảy đồng đi rồi khiêng thây ma đi, nhưng đừng cho ai thấy, đừng cho ai hay đấy.
Chú nông dân gật đầu, rất tiếc rằng phải đưa hết cả bảy đồng cho quân vô lại đó. Có vẻ như hắn đã nhìn thấy chú nắm chặt bao nhiêu tiền trong tay rồi.
Họ bèn bàn tính với nhau về chi tiết. Merdian hạ thây ma từ trên giàn xuống, chở qua tả ngạn rồi, và ngay khi mới tối trời sẽ liệng vào một chỗ dầy đá ở gần đường cái cho gia nhân của Abidaga và mọi người qua đường thấy. Ba người nông dân sẽ núp trong một bụi
rậm cách xa đó một chút. Rồi ngay khi mới tối mịt, họ tới lấy thây ma, đem chôn trong một chỗ kín đáo, không để lại một dấu vết gì, mà mọi người có thể tin rằng ban đêm chó đã lại xé và ăn thây. Đưa trước cho hắn ba đồng, còn bốn đồng kia, khi mọi việc xong xuôi sẽ đưa nốt.
Ngay đêm đó, công việc được thực hiện như họ đã thỏa thuận với nhau.
Khi hoàng hôn xuống, Merdjan chở thây ma lại liệng. Ở bờ sông bên kia tại dưới lề đường (…). Rồi hắn cùng với những kẻ phụ lực, xuống dò trở về liền. Bọn nông dân đợi trong bụi rậm. Chỉ còn vài người thợ về trễ hoặc vài người Thổ qua lại chỗ đó để về nhà. Rồi đêm xuống, cảnh vật yên lặng. Một đàn chó sủa ran, toàn là chó lớn, trụi lông, đói, hoảng sợ, vô chủ. Núp trong bụi rậm, bọn nông dân liệng đá đuổi chúng đi; chúng cúp duỗi chạy, cách cái thây khoảng hai chục bước rồi ngừng lại, dò xem có gì xảy ra không. Trong bóng tối, người ta thấy mắt chúng sáng như đuốc: Khi trời đã tối bưng, chắc chắn không còn ai qua lại nữa mấy người nông dân ở trong bụi chui ra, mang theo một cái cuốc, một cái leng, và hai tấm ván họ chồng lên nhau, đặt người chết lên ván, khiêng lên sườn đồi. Tại đây, trong một chỗ bị nước mưa mùa xuân và mùa thu chảy xuống sông Drina mà xoi thành lòng chảo, họ cào những hòn cuội lớn đi rồi đào một cái huyệt sâu. Họ lặng lẽ làm việc rất mau, không nói một lời, không phát một tiếng động. Họ hạ cái xác cứng đơ, lạnh ngắt, nhăn nheo xuống huyệt.
Người nông dân cao tuổi nhất nhảy xuống huyệt, thận trọng đập mấy lần vào một cục đá lửa để mồi một miếng bùi nhùi rồi châm một cây nến nhỏ gói trong một miếng vải đầy sáp, hai tay khum lại để che. Chú cắm cây nến ở Phía trên đầu người chết, lanh lẹ làm dấu thánh giá ba lần, và khấn lớn tiếng: “Nhân danh đức Thánh Cha, đức thánh Con và đức Thánh Linh.” Hai người kia đứng trên cao trong chỗ tối làm dấu theo. Người lớn tuổi đưa tay không ra như vẩy rượu hai lần trên mình người chết, hai lần thành kính thì thầm cầu nguyện: “Xin Chúa nhận linh hồn kẻ nô lệ của Chúa đây trong đám các vị thánh của Chúa.”
Sau cùng chú ta lẩm bẩm cầu nguyện vài lời không mạch lạc, không ai hiểu gì cả, nhưng trang trọng, và hai người kia làm dấu thánh giá hoài không ngưng. Khi chú cầu nguyện xong rồi, họ đứng trên cao chuyền tay cho chú hai tấm ván, chú đặt ván thành cái vòm theo chiều dài, như một cái nóc che cho cái xác. Chú lại làm dấu một lần nửa, tắt nến rồi từ trong huyệt nhoi lên. Nhẹ tay và chậm chạp, cả ba đều liệng đất xuống huyệt, nện kỹ để không ai thấy dấu vết. Xong đâu đấy, họ cào đá cuội về chỗ cũ như một đường nước chảy, lấp chỗ đất mới xới, lại làm dấu thánh giá một lần nữa, ra về, đánh một vòng lớn để xuống đường cái, ở một chỗ cách thật xa cái mộ.
Đêm đó mưa dày hột, nhưng nhẹ mà không gió, sáng hôm sau một đám sương mù nặng và trắng như sữa, ẩm thấp mà ấm áp, bao phủ tất cả thung lũng. Thấy một ánh sáng trắng lúc lên lúc xuống, người ta biết rằng tia nắng đương cố xuyên qua đám sương. mù mà không được. Cái gì thấy cũng mờ mờ, huyền ảo, quái di, mới mẻ. Bóng người thình lình hiện trong đám sương rồi lại thình lình biến mất. Sáng sớm hôm đó, một chiếc xe bò đi qua trung tâm thị trấn, trên xe hai người hiến binh ghìm thầy đội đã bị trói lại; mới hôm trước thầy còn làm bếp họ.
Hai hôm trước từ lúc thấy mình vẫn còn sống chứ không bị bêu trên nọc, thầy ta mừng rỡ như điên, nhảy múa trước mặt mọi người, và mất bình tĩnh luôn. Tất cả các bắp thịt thường run bần bật, thầy không đứng yên được luôn luôn phải tự thuyết phục mình và tỏ cho người khác thấy rằng mình còn sống, khỏe mạnh và cử động được; như có một nhu cầu gì thúc đẩy thầy làm như vậy, không sao chống lại nổi. Đôi khi thầy nhớ tới Abidaga
(một bóng tối trong niềm vui rực rỡ của thầy) và tức thì thầy đau khổ suy tư, và một sức mạnh mới dồn trong người thầy, bắt thầy phải múa men, tung tăng như thằng điên. Thế là thầy lại đứng dậy, giang tay nhảy múa, búng tay, lắc lư thân mình như một vũ nữ, làm đủ các cử động đột ngột, lanh lẹ, mới mẻ dể tỏ rằng mình không bị xóc xiên. Rồi vừa hổn hển theo nhịp vũ, thầy vừa nói: -Đó. tôi có thể làm được cử động này, cử động kia.
Không chịu ăn uống gì cả, đương nói chuyện cũng thình lình ngưng lại, múa may, cứ mỗi cử động là xác nhận một cách con nít: -Coi này, thấy không, tôi làm được này …!
Mãi đêm trước, người ta mới dám báo cho Abidaga hay thầy đội khùng khùng như vậy, ông ta chỉ lạnh lùng vắn tắt bảo: “Đưa thằng điên đó về quê nó ở Plevié, trói nó lại cho nó khỏi làm bậy, phá phách hàng xóm. Nó làm không nổi công việc hành hình đó.”
Người ta làm theo lời. Vì thầy ta vẫn chưa bình tĩnh, nên hiến binh phải cột vào xe bò chở đi. Thầy khóc lóc, chống cự, còn cử động được phần thân thể nào thì vùng vẫy la hét: “Đấy, thấy không?” Sau cùng người ta trói được chân tay để thầy ngồi trong xe, ngay ngắn như một bao lúa, dây thừng chằng chịt khắp người. Nhưng bây giờ không cử động được nữa thì thầy lại tưởng rằng người ta sắp xóc xiên mình, vặn mình chống cự, gào hét một cách tuyệt vọng: -Đừng bắt tôi, đừng! Bắt bà Thủy ấy! Không, ông Abidaga ơi!
Khi xe mới ra khỏi thị trấn, thiên hạ nghe thấy những tiếng la đó, chạy ra coi, nhưng chiếc xe bò đã mất hút trên con đường đi Dobroum, trong đám sương mù dày đặc chỉ lờ mờ đoán được mặt trời ở đâu.
Thấy thầy đội bị chở đi một cách bất ngờ, bi thảm như vậy thiên hạ càng thêm lạnh xương sống. Người ta bắt đầu thì thầm với nhau rằng người nông dân vô tội, chính thầy dội đã làm cho anh ta bị hành hình oan. Trên miền Meidan, bọn đàn bà bảo rằng thần tiên đã chôn xác của Radislav trong núi đá Boutko và đêm đêm, một làn ánh sáng từ trên trời chiếu xuống ngôi mộ: có cả ngàn, cả ngàn ngọn nến lấp lánh nhấp nháy thành một vệt dài từ trên trời xuống đất. Mắt họ đã rưng rưng khi trông thấy những ngọn nến đó.
Đủ các thứ tin đồn được người ta thì thầm truyền cho nhau, nhưng nỗi sợ hãi vẫn mạnh hơn cả. Và công việc xây cầu vẫn tiếp tục mau chóng, không trục trặc, không lộn xộn, không bị ngưng chỉ. Và còn tiếp tục không biết tới bao giờ nếu đầu tháng chạp, trời không bỗng nhiên trở lạnh một cách khác thường, lạnh tới nỗi Abidaga cương quyết như vậy mà cũng đành thúc thủ.
Cha bao giờ người ta thấy những cơn lạnh và đông tuyết như thượng tuần tháng chạp năm đó. Giá làm cho đá dính chặt vào đất, cây cối nứt ra. Một lớp tuyết nhẹ trong suốt phủ các đồ vật, dựng cụ, lều quán, và hôm sau một cơn gió bất thường thổi nó đi để phủ một chỗ khác.
Công việc tự nhiên phải ngưng lại, người ta bớt sợ rồi hết sợ Abidaga. Abidaga rán đương đầu vài ngày, sau đành chịu thua, ngưng công việc cho thợ về. Rồi trong một cơn lốc tuyết dữ dội, chính ông ta cũng cưỡi ngựa dông tuốt với đoàn tùy tùng. Ngay hôm đó Tosoun Efendi và thợ cả Antoine cũng ra đi sau Abidaga. Tosoun quấn mền kín mít ngồi trong đống rơm trên một chiếc xe trượt tuyết của nông dân, Antoine đi về phía ngược lại. Cả bọn thợ làm xâu phân tán trong các làng xóm, thung lũng, yên lặng biến mất lúc nào không ai hay, như nước bị đất hút vậy. Chiếc cầu xây dở, trơ lại đó như một đồ chơi bỏ đi.
Trước khi đi, Abidaga triệu tập thân hào Thổ một lần nữa. Vì bất lực, ông ta trầm uất, quạu quọ, bảo như năm trước rằng ông giao trách nhiệm coi cầu cho họ: -Bản chức đi, nhưng mắt bản chức không rời nơi này đâu. Các ông coi chừng đấy: thà chặt đầu hai chục tên phiến loạn còn hơn là để mất một cây đinh của đức Vua. Qua xuân, bản chức sẽ trở lại và các ông phải tường trình dủ cho bản chức.
Các thân hào cũng hứa như năm trước rồi giải tán về nhà người nào người nấy ưu tư, quấn ba bốn lớp áo, áo da lông, áo trong khăn quàng, thầm cảm ơn Trời đã đem mùa đông và đông tuyết lại; ít nhất như vậy cũng nhờ thiên lực mà hạn chế được sức mạnh của những kẻ quyền lực lớn nhất.
Nhưng khi xuân về, không phải Abidaga tới mà là một người tin cẩn khác của quan tể tướng, tên là Areif-Bey[34]; ông này tới cùng với Tosoun Efendi. Điều mà Abidaga rất sợ đã xảy ra. Có kẻ nào đó biết rõ tình cảnh nhìn rõ từng chi tiết một đã báo cáo đầy đủ và đúng với tể tướng về hoạt dộng của Abidadga ở cầu Vichégrad. Quan tể tướng biết rằng hai năm nay ngày nào cũng có từ hai tới ba trăm dân làm xâu mà không được lãnh một xu tiền công nào cả, nhiều khi phải tự bỏ tiền ra mua thức ăn nữa; tiền của tể tướng phát ra, Abidaga bỏ túi hết (bỏ túi bao nhiêu, tể tướng đã cho tính kỹ tới hôm nay rồi). Trò đời vẫn vậy kẻ gian tham thường làm việc siêng năng, nghiêm khắc quá mức để giấu tội mình; thành thử tất cả dân chúng trong miền, chẳng riêng những người theo Ki-tô giáo, ngay cả người Thổ nữa, dã không hoan nghênh công trình xây cất phước thiện này mà còn oán cái ngày khởi công và người ra lệnh xây cất nữa. Quan tể trong suốt đời chống nạn đục khoét công quỹ diệt thói gian tham của công chức, ra lệnh cho tên sâu dân mọt nước đó phải hoàn lại hết số tiền, với tất cả sản nghiệp còn lại cùng đám nàng hầu của hắn, bắt hắn tức tốc phải dời lại ở một làng nhỏ miền Anatolie, chôn tên tuổi đi, nếu không muốn bị một hình phạt nặng hơn.
Thợ cả Antoine với một số thợ nữa từ Dalmatie lại hai ngày sau ông Arif-bey. Tosoun Efendi giới thiệu Antoine với Arif-bey. Một ngày nắng ráo, nóng nực tháng tư họ cùng nhau đi coi khắp công trường, định kế hoạch cho các công việc đầu tiên. Khi Arif-bey ra về rồi, hai người kia còn ở lại trên bờ, thợ cả Antoine nhìn kỹ mặt Tosoun Efendi, mặc dầu trời nắng mà Tosoun Efendi cũng co ro, lẩy bẩy quấn mình kín trong chiếc áo khoác rộng màu đen.
- Ông này vào hạng người khác hẳn. Nhờ trời! Tôi tự hỏi không biết ai mà khéo léo, can đảm thế, báo cáo cho quan tể tướng hay để ngài tống cổ con thú vật đó đi.
Tosoun Efendi ngó phía trước, bình tĩnh đáp: -Nhất định là ông này tốt hơn rồi.
- Chắc là một người biết rõ cách làm việc của Abidaga được lại gần quan tể tướng và được ngài tin cậy.
Tosoun Efendi kéo áo che kín mình hơn nữa, vẫn nhìn xuống, không ngước mắt lên, đáp: -Chắc ông này tốt hơn.
Như vậy công việc lại bắt đầu trở lại, do sự điều khiển của Arif-bey.
Người sếp mới này hoàn toàn khác hắn. Rất cao, hơi khòm lưng, không có râu, lưỡng quyền cao, mắt đen xếch ngược, lúc nào cũng như cười. Dân chúng đặt ngay cho ông ta biệt danh là “xác ướp”[35]. Không la hét, không dùng ba-toong, không thốt những tiếng thô tục và bề ngoài không thấy gắng sức, ông ta cười cười, thanh thản như từ chỗ nào đó ở trên cao mà ra lệnh, phân phát công việc, vậy mà không có gì là qua mắt ông cả. Ông tacũng đem lại cái không khí siêng năng, nghiêm trang thực hiện ý muốn và mệnh lệnh của quan tể tướng, chỉ khác là ông bình tĩnh, trong sạch, lương thiện, không sợ gì cả không giấu gì cả, vì vậy không cần làm cho người khác sợ mình, không truy nã họ. Công việc tiếp tục cũng nhanh như trước (quan tể tướng muốn vậy), lỗi lầm cũng bị trừng trị nghiêm như trước, nhưng việc làm xâu bỏ ngay từ ngày đầu. Mọi người thợ đều được trả công, được phát bột và muối, cho nên công việc tiến hành mau hơn, kỹ hơn thời Abidaga. Ngay mụ điên Ilinka tới mùa đông năm đó cũng biến đâu mất.
Công việc xây cất lớn lên và mở rộng ra. Bây giờ người ta thấy rằng công việc từ thiện của quan tể tướng không phải chỉ gồm chiếc cầu mà còn có một lữ quán để người từ xa tới, đêm tối qua cầu có chỗ nghỉ chân, gởi ngựa và gởi hàng. Khi vào khu thương mại, cách cầu độ hai hai trăm bước, chỗ mà con đường đi về Meidan bắt đầu lên dốc, có một bình nguyên, cứ mỗi thứ tư họp phiên chợ súc vật. Người ta xây cất lữ quán mới trên bình nguyên đó. Công việc tiến hành chậm chạp, nhưng coi nền móng người ta cũng đoán được rằng lữ quán sẽ bền vững, đẹp lớn … Người ta chú ý tới chiếc cầu nên không nhận thấy rằng lữ quán bằng đá đó cất lên tuy chậm mà đều đều, không ngừng.
Công việc trên sông Drina bây giờ lạ và phức tạp quá nên bọn người ở không, từ trên bờ nhìn ra, không thể theo dõi, hiểu nổi. Luôn luôn đắp những đê mới, đào những hầm hố mới theo đủ các hướng; con sông bị phân cách, chia ra thành cửa cống, nhánh, nước sông từ nhánh này đổ sang nhánh kia (…)
Dân chúng ngày nào cũng nhìn, năm này qua năm khác riết rồi mất ý thức về thời gian và không nhận được dúng ý chỉ của người xây cất nữa. Họ cảm thấy công việc đã không tiến hành mà rắc rối thêm lên; rối beng, vì thêm nhiều công việc phụ (…) Bọn Thổ lại bắt đầu nhún vai trở lại, khoát tay có vẻ hoài nghi khi nói tới cây cầu. Bọn theo Ki tô giáo làm thinh ngó cầu, có nhiều ẩn ý và một niềm vui độc ác: họ mong bọn Thổ làm công việc gì cũng thất bại (…)
Năm tháng lại trôi qua, hạ rồi qua thu, đông rồi tới xuân, bọn thợ đi rồi trở lại. Bây giờ đây, trên sông Drina thấy đầy những vòm, không phải vì cầu, mà vì những giàn gỗ, đà và ván thông chằng chịt với nhau kỳ cục (…)
Cuối năm thứ ba, xảy ra một tai họa mà những công trình xây cất lớn ít khi tránh được. Trong khi cái cổ hạc thả một phiến đá lớn xuống đầu cột cầu ở giữa, dây thừng bỗng đứt, đè nửa mình dưới người Mọi da den, máu chảy ra như suối, và nửa giờ sau anh ta tắt thở. Đám táng của anh thật long trọng, người ta nhớ hoài. Tất cả những người theo Hồi giáo đều đi đưa đám và thay phiên nhau khiêng mỗi toán vài thước chiếc quan tài trong đó chỉ có nửa mình trên của thanh niên đó, còn nửa kia bẹp dí dưới phiến đá mà không có cách nào gỡ ra được; với lại phiến dá rơi vào đúng chỗ người ta định đặt nó nên không cần phải dời đi. Thợ cả Antoine dùng ngay thứ đá xây cầu dựng cho anh ta một ngôi mộ đẹp (…)
Năm đó và năm sau, lùa đông không lạnh ìắm và có thể làm việc cho tới giữa tháng chạp.
Sang năm thứ năm, trên bình nguyên bên cạnh con đường đi Meidan, lữ quán mới đã dựng xong. Rộng lớn, có một tầng lầu, cùng cất bằng một thứ đá với cây cầu, màu sáng, hơi vàng, nóc lợp ngói đỏ đậm, có một hàng cửa sổ đục rất kỹ, dân chúng cho rằng lộng lẫy vô song, không tưởng tượng nổi. Lữ quán do một vị đại thần xây cất thì cơ hồ chỉ hàng đại thần mới đáng ghé đó thôi.
[Đồng thời, cái khối đá và ván chằng chịt ở trên sông cũng bắt đầu giảm đi và lần lần người ta nhận ra được rõ hơn hình dáng chiếc cầu][36].
Dân Vichégrad vốn mau miệng khen cũng như chê, xấu hổ vì trước đã nghi ngờ, không tin, bây giờ không còn giấu lòng thán phục, không ngăn được niềm hoan hỉ nữa. Chưa cho phép qua cầu, nhưng thiên hạ tụ họp hai bên bờ, nhất là trên hữu ngạn, phía có khu thương mại và phần lớn nhất của thị trấn, nhìn thợ đi qua đi lại trên cầu, mài nhẵn đá trên bao lơn và trên các bệ cao của cái kapia (…)
Một ông Hodja nhỏ con, gốc ở Doutché, trong lúc hoan hỉ, xúc động bảo: -Đấy tôi vẫn nói từ trước mà, có sai đâu, quan tể tướng muốn là được, và những người tài trí đó sẽ xây cất xong công trình của họ, mà bà con thì cứ bảo: họ không làm xong đâu, không làm được đâu. Họ làm xong rồi đấy, thấy không Chà, chiếc cầu lớn làm sao, đẹp đẽ, ích lợi làm sao!
Mọi người đều gật đầu, mặc dầu không ai nhớ trước kia ông ta nói những gì, chỉ biết rằng ông ta cũng như họ, đã chê bai việc dựng cầu và người dựng cầu. Và mọi người đều thành thực mừng rỡ, khen hoài không ngớt: -Bà con ơi, coi kìa, thị trấn chúng ta có được chiếc cầu như vậy kìa!
- Thấy không, thế lực và trí thông minh của một quan tể tướng như vậy đấy, hễ để mắt tới đâu là chỗ đó dựng lên được một công trình từ thiện, tạo hạnh phúc cho dân.
Họ ganh nhau, không tiếc lời ca ngợi, tìm những lời khen mới hơn nữa, đẹp hơn, mạnh hơn nữa. Chỉ duy có Akhmed Aga Cheta, một người buôn lúa, giàu có, ủ rũ, hay gắt gỏng, và hà tiện, lúc nào cũng bĩu môi ngó cây cầu và những người khen cầu. Cao lớn, nước da vàng và khô mắt đen và tinh, môi mỏng dính, cặp mắt nhấp nháy dưới ánh nắng một ngày đẹp trời tháng chín đó, chú ta vẫn giữ những ý kiến trước, ai nhiệt liệt khen cầu lớn và vững bền hơn tất cả các đồn lũy nữa, thì chú khinh bỉ bảo: -Đợi coi sau một trận lụt, một trận lụt đích đáng ở Vichégrad này, rồi sẽ biết còn lại gì hay không!
(…) Nhưng Cheta chỉ là một trường hợp lẻ loi, một lệ ngoại. Niềm vui mừng, hoan hỉ của dân chúng mỗi ngày mồi tăng và lan tới các làng bên. Trong mấy ngày đầu tháng mười, Arif-bey long trọng tổ chức lễ khánh thành. Con người có điệu bộ quí phái, nghiên khắc một cách kín đáo mà thanh liêm hiếm có đó, quan tể tướng giao cho bao nhiêu tiền thì tiêu hết vào việc xây cất không hề bớt xén một đồng, được dân chúng coi là nhân vật quan trọng nhất trong công việc kiến thiết này. Họ khen ông ta hơn là khen quan tể tướng nữa. Thành thử lễ khánh thành thực long trọng, trong lệ, rực rỡ.
Bọn giám thị và thợ thuyền đều được tặng tiền bạc, quần áo; thêm một bữa tiệc chung kéo dài tới hai ngày, ai muốn dự cũng được. ăn uống, đờn ca, vũ, để chúc tụng quan tể tướng; lại tổ chức chạy đua, đua ngựa; lại phát chẩn thịt và bánh kẹo cho người nghèo. Ở khu chợ từ cầu tới trung tâm thị trấn, người ta nấu trong chảo những chiếc bánh halval[37]. Và phát cho dân chúng khi bánh còn nóng hổi. Và cả những kẻ ngày lễ Bairam[38] không được ăn bánh kẹo, lần này cũng được ăn. Người ta phân phát bánh halva tới cả những làng chung quanh, người lào ăn rồi cũng chúc quan tể tướng trường thọ và các công trình kiến thiết của ngài trường tồn. Có những đứa bé trở lại mười bốn lần để xin bánh, tới nỗi người đầu bếp nhận được mặt, cầm chiếc môi đánh đuổi. Một em nhỏ Tsigane ăn nhiều halva quá, bội thực, chết.
Những chuyện đó, dân chúng nhớ hoài và mỗi lần kể truyện xây cầu thì lại nhắc tới; nhất là các thế kỷ sau, những vị đại thần nhân từ và các vị đốc công liêm khiết cơ hồ như không còn nữa, mà những lễ long trọng như vậy càng ngày càng hiếm, rồi không ai được thấy nữa, tới nỗi thành những truyện hoang đường như truyện Tiên Thánh, truyện hai đứa bé sinh đôi stoia và Ostoia, vân vân …
Trong mấy ngày ăn mừng đó, cũng như trong mấy ngày đầu dân chúng qua qua lại lại từ đầu cầu tới cuối cầu không biết bao nhiêu lần, trẻ thì chạy, người lớn thì đi thủng thẳng, vừa đi vừa chuyện trò với nhau hoặc ngừng lại từng chỗ ngắm những chân trời mới. Những kẻ tê bại, què quặt, tàn tật, khập khiễng được khiêng tới bằng cáng vì ai cũng muốn dự cái lễ lớn lao thiên tài nhất nhì này, nếu không thì uổng lắm (…)
Thanh niên Thổ bắt đầu múa điệu kolo chung quanh các chảo halva, rồi tiếp tục múa qua cầu vì ở trên cầu họ có cảm giác là bay chứ không phải đi trên đất, rồi lại múa một vòng trên cái kapia, nện gót giày xuống những phiến đá mới lát như thể thử xem cầu có vững không. Chung quanh đám thanh niên sát cánh nhau thành một vòng tròn, múa hoài điệu kolo không biết mệt đó, là một đám con nít cũng nhảy múa, có đứa lòn qua dưới chân bọn thanh niên, như qua một hàng rào luôn luôn di động, lọt vào giữa vòng kolo (…). Ở trên kapia, nơi mà người ta bảo có nửa cái thây của người Mọi da đen bất hạnh bị bít kín trong đá, và cứ đêm đêm hồn ma hiện lên, chúng vui thích vì bọn đàn anh chúng múa kolo, nhưng chúng vẫn sợ người Mọi đó muốn chết, sợ ngay từ khi hắn còn sống và xây cất cầu. Ở trên cái cầu cao, mới mẻ và lạ lùng đó, không có cảm tưởng là xa mẹ, xa nhà mà lạc vào một xứ lạ, xứ của người da đen, có những kiến trúc tuyệt đẹp và những vũ khúc khác thường. Chúng run sợ mà vẫn không quên được người Mọi, vẫn không rời khỏi đám vũ kolo trên cái kapia tuyệt thú đó được. Chỉ có một phép màu nào tân kỳ mới thu hút chúng, làm cho chúng quên đi được thôi.
Một thanh niên ngớ ngẩn, tên là Mourat, biệt danh là thằng câm, sinh ra trong một gia đình aga, gia đình Tvrtkovitch ở Nézouké, bị mọi người trong thị trấn thường chế giễu, một hôm bỗng leo lên bao lơn bằng đá của cầu. Người ta nghe thấy trẻ con reo hò, người lớn ngạc nhiên hoảng hốt gọi bảo đừng, nhưng thằng ngốc đó như bị ma ám, hai tay giang ra, đầu ngửa ra sau, cứ đi trên thành đá hẹp đó, chân nọ đặt lên phía trước chân kia, như bước những bước vũ thật đẹp mà không biết dưới chân là vực thẳm và dòng nước. Một bọn vô lại ở không đi theo nó, khuyến khích nó. Ớ đầu cầu bên kia, anh nó tên là Aliaga đứng đợi và quất nó như quất một đứa bé.
Nhiều người đi xuôi dòng sông, cách độ vài cây số, tới Kalata hoặc Mezalino, để ngắm chiếc cầu trắng và nhẹ nhàng nổi bật lên ở giữa hai đồi xám, với mười một nhịp cầu lớn nhỏ khác nhau, như một hình chạm kỳ dị trên làn nước xanh.
Hồi đó người ta chở tới một tấm bia lớn, trắng, khắc chữ để dựng trên bức tường đá hồng hồng cao hơn cái bao lơn ở kapia non hai thước.
Dân chúng tụ họp chung quanh tấm bia và ngó cho tới khi gặp được một nhà thần học Thổ vì muốn làm một việc thiện, hoặc một thư sinh muốn được đền công một ly cà phê, một miếng da, mà đọc chữ được chữ chăng những hàng khắc trên bia cho họ nghe.
Trong mấy ngày đó, người ta đánh vần cả trăm lần những câu thơ mà Badi, một thi nhân ở Constantinople, đã làm để ghi tên họ, quê quán, chức tước của người đã xây dựng công trình từ thiện này, và ghi năm hoàn thành: năm 979 theo kỷ nguyên Hồi giáo, tức năm 1571 theo kỷ nguyên Ki tô giáo[39]. Chàng Badi đó, hễ ai thuê tiền là làm những câu thơ nhẹ nhàng mà kêu, khôn khéo lắm, khiến các vị quyến thế xây cất hoặc trùng tu một kiến trúc lớn lao nào cũng nhờ tới tài gieo vần của chàng. Những người biết rõ chàng (và hơi ghen chàng một chút) mỉa mai bảo rằng chỉ có vòm trời là chứa được bài bi ký nào của chàng. Nhưng chàng mặc dầu lãnh được những số thù lao hậu hĩnh, vẫn túng thiếu, suốt đời phải chiến đấu với con ma nghèo nó thường đeo đuổi các thi nhân như một nghiệp chướng mà không có sự thù lao, tưởng thưởng nào giải được.
Vì ít học, trì độn mà óc tưởng tượng lại sắc bén, nên mỗi ông hay chữ lỏng trong thị trấn đọc và giảng theo một cách bài bi ký của Badi. Bài đó cũng như mọi văn thơ khác, một khi đã ra mắt công chúng thì nằm trên phiến đá, vạn cổ bất dịch, phơi rà dưới mắt mọi người, kẻ sáng suốt cũng như kẻ điên, kẻ có ác tâm cũng như kẻ có thiện chí, muốn giải thích ra sao thì giải. Mà mỗi người nghe cũng chỉ nhớ những câu thơ hợp với lỗ tai hoặc tính tình mình nhất. Thành thử những lời khắc trên đá để cho bàn dân thiên hạ nhìn, đọc đó, được truyền từ miệng người này qua miệng người khác theo nhiều cách khác nhau, thường khi biến đổi hẳn ý nghĩa đi tới hóa ra vô lý nữa.
Lời khắc trên như sau:
“Đây Mehmed Pacha, đại thần, minh triết nhất, đức độ lớn nhất đương thời. Ngài đã tự nguyện trong lòng rồi tự lực xây cất chiếc cầu này trên sông Drina. Trên dòng nước sâu và chảy xiết này, các vị tiền nhiệm của ngài chẳng xây cất được gì cả. Tôi xin Trời phù hộ cho công trình của ngài được bền vững, và suốt đời ngài được hưởng hạnh phúc, không bao giờ gặp cảnh buồn rầu, vì trong đời, ngài đã bỏ vàng bạc ra xây dựng nhiều kiến trúc từ thiện; không ai có thể bảo được rộng tiêu tiền như vậy là phí phạm vô ích. Tôi Badi, đã thấy vậy khi chiếc cầu này cất xong, cho nên viết bài bi ký này. Xin Trời phù hộ cho công trình này, cho chiếc cầu tuyệt đẹp này!”
Riết rồi thiên hạ cũng chán, không ngắm nghía, khen ngợi cây cầu nữa, không đi đi lại lại từ đầu này tới đầu kia cầu nữa. Không nghe đọc những câu thơ khắc trên bi ký nữa. Cái kỳ quan mấy ngày đầu đó thuộc vào đời sống hàng ngày của họ, và bây giờ mỗi khi qua cầu thì họ bước vội vàng, thản nhiên mãi lo nghĩ chuyện khác, đãng trí, như dòng nước chảy ào ào dưới cầu kia; họ coi cầu cũng như vô số những con đường mà họ và súc vật của họ dẫm dưới chân. Và tấm bia với bài thơ ở trên ngọn tường cũng câm lặng luôn như mọi bia đá khác.
Bây giờ con đường bên tả ngạn đã được nối trực tiếp với khúc đường ở trên bình nguyên bờ bên kia. Không còn chiếc đò ngang đen và mọt, không còn những chú chở đò kỳ cục nữa. Ở sâu dưới những nhịp cầu cuối cùng, còn những mỏm đá với cát; trên bờ còn những đường dốc, leo lên cũng khó như leo xuống, tại đó hồi xa người ta khổ cực ngồi đợi và gọi đò mà chẳng thấy ai đáp. Bây giờ đây hết nông nỗi đó, và người ta qua con sông chảy như thác này một cách dễ dàng như có phép mầu. Người ta đi lại ở trên cao, như có cánh, thẳng một mạch từ bờ bên đây qua bờ bên kia, nhờ cây cầu rộng kiên cố như núi, và vang lên dưới móng ngựa như một phiến đá lát.
Cũng mất luôn những nhà xay bột bằng gỗ và những quán trọ khách qua đường đêm tối phải vào ngủ đỡ. Những quán đó đã được thay thế bằng một trú đình vững chắc, lộng lẫy, khách tới mỗi ngày mỗi đông:.Người ta vô lữ quán bằng một cánh cửa rộng, đường nét kiến trúc thật điều hòa. Hai bên cửa đó có hai cửa sổ lớn, chấn song không phải bằng sắt mà bằng thứ đá vôi nguyên khối đục đẽo. Khu sân rộng hình chữ nhật có đủ chỗ để chất hàng hóa, hành lý, và khắp bốn bên chung quang sân là một dãy cửa của ba mươi sáu căn phòng. Phía sau, dưới chân dồi là chuồng ngựa, mọi người đều ngạc nhiên rằng chuồng cất cũng bằng đá, như chuồng ngụa của nhà vua vậy. Từ Sarajevo tới Iedrene[40], không đâu có được một lữ quán như vậy. Ở đây, bất kỳ khách qua đường nào cũng được vô nghỉ một ngày và một đêm, ăn ở khỏi trả tiền, có củi lửa, nước tắm rửa cả cho mình, lẫn đầy tớ và ngựa nữa.
Tất cả những cái đó cũng như chiếc cầu là do công việc lừ thiện của quan tế tướng Sokoli đã ra đời trên sáu chục năm trước sau dãy núi xa xa kia, trong làng Sokolovitchi cheo leo trên cao kia, hồi nhỏ đã cùng với một bọn trẻ, con cái nông dân Serbie, bị bắt đem lại Istamboul vì cái luật “thuế máu”. Tất cả những phí tổn duy trì trú đình đó do quỉ vakouf[41], mà quan tể tướng đã thành lập nhờ gom góp các gia sản lớn tịch thu trong những miền mới bị Thổ xâm chiến ở Hung Gia Lợi.
Vậy nhờ xây cầu và lữ quán đó mà dân chúng đỡ được nhiều nỗi khổ sở và bất tiện. Đáng lý ra, cả cái bệnh dị thường ngài bị từ hồi nhỏ khi qua đò Vichégrad cũng có thể biến mất luôn được nữa: tức cái lằn đen đau nhói thỉnh thoảng hiện lên như cắt ngực ngài ra làm hai đó. Nhưng trời không cho ngài sống được lành mạnh lâu. không được hưởng lâu cái vui đã xây dựng công trình từ thiện đó ở Vichégrad. Công việc mới hoàn thành được ít lâu lữ quán mới bắt dầu mở cửa, chiếc cầu mới được bàn dân thiên hạ biết tới thì ngài lại thấy hiện lên cái “lưỡi dao đen” trong ngực ngài. Và lần đó là lần cuối.
Một ngày thứ sáu, ngài với bọn hộ vệ vô một giáo đường thì một giáo sĩ Hồi giáo nửa điên nửa khùng, ăn bận rách rưới, chìa tay trái ra xin ngài bố thí. Ngài quay lại ra lệnh cho một người hộ vệ cho hắn ít tiền, thì hắn từ trong ống tay áo bên phải rút ra một con dao phay nặng chém thật mạnh vào bên sườn ngài. Bọn hộ vệ hạ sát tên giáo sĩ đó. Hắn trút hơi thở cùng một lúc với ngài. Trên những phiến đá lát màu xám trước giáo đường, hai thi thể nằm bên cạnh nhau một lát: tên sát nhân béo tốt, hồng hào, tay chân giang ra như còn đương hăng tiết vì nhát chém điên rồ đó; còn ngài thì chiếc áo đứt nút, ngực phanh ra, chiếc khăn chít đầu lăn ra xa.
Trong mấy năm cuối cùng, ngài đã gầy đi, khòm lưng, thần sắc sạm lại, nét mặt rắn lại. Bây giờ, ngực phanh ra, đầu trần, thân thể đầy máu me, gập lại, co quắp lại, ngài giống một nông dân Sokolovichi già nua bị đánh đập tới chết hơn là một vị đại thần bị hạ sát, mà mới lúc trước còn cầm quyền cai trị đế quốc Thổ.
Mấy tháng sau, hung tin đó mới tới thị trấn, mà chỉ là những lời thì thầm kín đáo có thể đúng, có thể không, chứ không phải là một tin rành mạch đích xác. Vì trong đế quốc Thổ, người ta cấm loan truyền những tin xấu và những biến cố tai hại, ngay cả khi xảy ra ở một xứ bên cạnh chứ đừng nói là một đại họa của quốc gia nữa. Với lại, trong vụ ám sát này, không ai có lợi gì mà nói nhiều và lâu về cái chết của quan tể tướng. Phe thù nghịch ngài, khi hạ sát ngài rồi, làm lễ an táng cực kỳ long trọng cho ngài để chôn vùi luôn hình ảnh của ngài cùng với thể xác của ngài, mà không ai nhớ tới ngài nữa. Còn những thân nhân, những người hợp tác và phe đảng của ngài ở Istamboul thì đa số đồng ý rằng nhắc tới ngài ít chừng nào hay chừng đó, vì như vậy mới có hy vọng lấy lòng được bọn mới lên cầm quyền mà được họ bỏ qua cho dĩ vãng của mình.
Nhưng hai kiến trúc đẹp đẽ trên sông Drina bắt đầu ảnh hưởng tới thương mại và giao thông, ảnh hưởng tới thị trấn Vichégrad và các miền lân cận, ảnh hưởng tới cả người sống lẫn người chết, kẻ dương thịnh lẫn kẻ đương suy. Thị trấn bắt đầu lan ra mạnh, từ trên đồi xuống đến bờ nước, rồi mỗi ngày mỗi phát triển, mở rộng ra, tập trung ở chung quanh cầu, và chung quanh trú đình mà dân chúng gọi là lữ quán bóng đá.
Đó, nguồn gốc cây cầu và cái kapia như vậy, và thị trấn đã phát triển như vậy. Sau đó, trên ba thế kỷ, địa vị và ý nghĩa của chiếc cầu trong đời sống dân chúng ra sao, chúng tôi đã tả sơ lược ở trên rồi. Có thể nói rằng ý nghĩ cùng thực thể của nó là do sự vĩnh cửu của nó. Đường nét rực rỡ của nó trong cảnh thị trấn, với những đường nét các núi lân cận in lên nền trời, đều không thay đổi. Trăng tròn rồi khuyết, các thế hệ suy tàn rất mau, nhưng chiếc cầu vẫn y cựu, như dòng nước đêm ngày chảy dưới chân nó vậy. Dĩ nhiên nó cũng già đi, nhưng theo.một tỷ độ thời gian rộng hơn – chẳng những hơn đời một người, mà còn hơn cả một tràng thế hệ nữa – thành thử mắt chúng ta không nhận ra được. Đời sống của nó – mặc dầu là hữu tử đấy – tựa như vĩnh cửu vì không ai dự tri được lúc chết của nó.
Chú thích:
[34] Bay là một chức quan văn hoặc võ cao cấp của Thổ Nhĩ Kỳ. Chức đó cũng đứng sau tên.[35] Vì khô đét cũng như ta nói “cá mắm.”
[36] Đoạn nằm trong dấu [] này do chúng tôi tóm tắt.
[37] Một thứ bánh làm bằng bột, dầu và đường.
[38] Lễ Hồi giáo nhà nào cũng làm nhiễu bánh kẹo.
[39] Kỷ nguyên Hồi giáo bắt đầu từ năm 622, năm giáo chủ Mahomet Ở thành Mecque trốn qua thành Médine. Vậy thì năm 979 kỷ nguyên Hồi giáo là năm 979 + 622 = 1601
[40] Tên Thổ của Andrinophe, một thị trấn ở Thổ Nhĩ Kỳ.
[41] Vakouf là một tổ chức tôn giáo của người Hồi có mục đích từ thiện