← Quay lại trang sách

Chương VI

Ngoài những trận lụt ra, chiếc cầu và cái kapia còn chịu nhiều thử thách khác nữa do những biến cố và xung đột của loài người gây ra, nhưng cũng chẳng hại gì cho nó, chẳng gây nổi một sự thay đổi gì lâu bền, ảnh hưởng còn kém dòng nước lũ của sông Drina.

Đầu thế kỷ trước, một cuộc nổi loạn phát ra ở Serbie. Thị trấn nhỏ Vichégrad nằm ngay trên biên giới Serbie và Bosnie, thời nào cũng liên hệ trực tiếp, không hề gián đoạn với các biến cố Serbie, như hai ngón tay trên một bàn tay. Bất kỳ cái gì xảy ở Vichégrad – mất mùa, bệnh dịch, khủng bố hoặc nổi loạn – cũng không thể làm cho dân chúng Oujitsé thờ ơ được; ngược lại cũng vậy. Mới đầu sự việc xảy ra có vẻ xa xôi và vô nghĩa; xa xôi vì tận ở đầu kia của quản khu Belgrade, vô nghĩa vì những tin đồn nổi loạn thời nào mà chẳng có: hễ có đế quốc là cũng có những cuộc nổi loạn âm mưu, cũng như hễ có gia sản lớn thì phải lo lắng, chịu ít nhiều tổn thất. Nhưng rồi lần lần, cuộc nổi loạn ở Serbie xâm nhập mỗi ngày mỗi nhiều vào đời sống của tất cả quản khu Bosnie, đặc biệt là vào thị trấn nhỏ cách biên giới một giờ đi bộ đó.

Cuộc xung đột càng lan ở Serbie thì dân Thổ ở Bosnie càng phải cung cấp thêm nhiều tráng đinh cho quân đội, càng phải đảm phụ nhiều về quân nhu cùng lương thực cho lính. Đạo quân và đoàn xe cộ gởi qua Serbie đa số là đi qua thị trấn, gây ra nhiều phí tổn, bất tiện và nguy hại cho người Thổ, nhất là cho người Serbie; trong mấy năm đó bọn người Serbie bị nghi kị, truy nã và phạt vạ nhiều hơn bao giờ hết. Sau cùng, một mùa nè nọ, cuộc nổi loạn, tránh Oujitsé mà lan lưới, chi cách Vichégrad có hai giờ đi bộ. Họ nã đại bác vào phá tan tành tháp Lutvi-Bey ở Veletovo, và ở Tsintchitch, họ đất các nhà Thổ.

Trong thị trấn có nhiều người Thổ và người Serbie bảo chính tai họ đã nghe thấy tiếng đại bác của Karageorges[48]. Người Serbie theo Ki tô giáo, chống lại Thổ. (Dĩ nhiên mỗi phe có những tình cảm khác hẳn phe kia). Tiếng đại bác của nghĩa quân mà vang tới thị trấn thì điều đó còn đáng nghi ngờ, vì con người hễ sợ hoặc ước mong cái gì thì nghe thấy cái đó; nhưng còn cái chuyện nghĩa quân ban đêm nổi lửa ở trên núi Panos, một ngọn núi hiểm trở và trụi nằm giữa Veletovo và Gostilié thì nhất định là có thực, vì từ thị trấn người ta có thể nhìn rõ và đếm được mấy gốc thông lớn cô độc trên núi đó. Người Thổ và người Serbie đều trông thấy rõ và chăm chú nhìn những ngọn lửa đó mà đều làm bộ như không để ý tới. Đứng khuất sau cửa sổ hoặc núp trong bóng tối của khu vườn rậm rạp, họ đều đưa mắt theo dõi ngọn lửa bừng lên, di chuyển rồi tắt. Các phụ nữ Serbie làm dấu thánh giá trong bóng tối, và khóc, xúc động một cách kỳ cục; và qua giọt lệ, họ thấy phản ánh những ngọn lửa của nghĩa quân, không khác những ánh sáng huyền ảo hồi xa từ trên trời chiếu xuống ngôi mộ của Radislav, mà ba thế kỷ trước, tổ tiên họ, cũng từ trên khu Meidan này, đã nhìn thấy qua giọt lệ y như họ bây giờ.

Những ngọn lửa bùng lên chỗ cao chỗ thấp, rải rác trên nền trời đen sừng sững như núi trong đêm hè đó, người Serbie coi như những vì tinh tú mới hiện, báo những điềm táo bạo cho họ, và họ run rẩy đoán số phận của họ cùng những biến cố sắp xảy ra. Còn người Thổ thì cho là những ngọn sóng đầu tiên của một biển lửa sau khi đã tràn ngập Serbie, bây giờ bắt đầu đập vào những đồi núi ở trên thị trấn. Trong những đêm hè đó, ý muốn cùng lời cầu nguyện của hai phe đều xoay chung quanh những ngọn lửa đó nhưng theo hai chiều hướng khác nhau. Người Serbie thì cầu Chúa cho ngọn lửa tế độ đó cùng một thứ với ngọn lửa họ mang kín trong lòng từ hồi nào tới giờ, sẽ lan tới phía này, trên những ngọn đồi của thị trấn; còn người Thổ thì cầu Chúa ngăn lại, đẩy đi dập tắt ngọn lửa đó đi, dể cho ý muốn phá hoại của bọn tà giáo phải thất bại, mà trật tự cũ và sự thanh bình được lập lại, theo tín ngưỡng chân chính. Đêm nào, đâu đâu người ta cũng thì thầm một cách nhiệt tâm mà thận trọng; những thị dục và mơ ước táo bạo nhất từ đó lan ra như những làn sóng vô hình (…).

Nhưng sáng sớm hôm sau, Thổ và Serbie, người nào người nấy mắt lờ đờ, nét mặt không để lộ gì hết, gặp nhau, chào nhau trong khi đi làm việc, và dùng cả trăm câu sáo để trò chuyện với nhau theo phép lịch sự quê mùa ở tỉnh nhỏ (…)

Và ít lâu sau lễ Thánh Elie, khi những ngọn lửa biến mất trên ngọn núi Panos, nghĩa quân bị đẩy ra khỏi Oujitsé rồi, cả hai bên, Thổ và Serbie đều không để lộ cảm xúc ra, khó mà biết thực sự họ dã nghĩ gì. Người Thổ mừng rằng nghĩa quân đã bị đầy được ra xa rồi, nhưng nỗi vui của họ không hoàn toàn mà còn bị vẩn đục nữa vì khó mà quên được một tai họa đã tới gần như vậy. Một thời gian lâu về sau, nhiều người Thổ còn nằm mê thấy ngọn lửa huyền ảo của nghĩa quân lan trên khắp các ngọn đồi chung quanh thị trấn, hoặc nghe thấy tiếng đại bác của Karageorges chẳng phải chỉ vang dội từ xa lại, mà còn nổ ầm ầm kinh thiên động địa, gây cảnh đổ nát ở khắp nơi.

Còn người Serbie thì dĩ nhiên là thất vọng, nhưng trong thâm tâm họ vẫn còn nhớ biến cố mới xảy ra và ớc ao nó sẽ xảy ra nữa, ước ao thầm chứ không thổ lộ với ai cả. Niềm hy vọng phi lý đó là cái lợi thế lớn nhất của hạng người bị áp bức. Vì những kẻ cai trị và phải áp bức để cai trị thì bắt buộc phải hành động hợp lý. Một khi vì phẫn nộ hoặc bị kẻ địch dồn vào cái thế khiến họ phải vượt giới hạn hợp lý, thì họ bắt đầu xuống một con đường trơn tuột, sắp té rồi; còn kẻ bị áp bức, bóc lột thì dễ dùng cả lý trí lẫn sự điên khùng, vì họ chi có hai thứ khí giới đó để chiến đấu không ngừng, lúc thì công khai lúc thì âm thầm, với kẻ áp bức họ.

Thời đó chiếc cầu là đường giao thông duy nhất chắc chắn giữa quản khu Bosnie và xứ Serbie, cho nên hóa ra cực kỳ quan trọng. Một chi đội thường xuyên đóng ở thị trấn và giữ việc canh gác chiếc cầu. Muốn cho việc canh gác được hoàn hảo mà đỡ mệt, họ dựng một cái đồn bằng gỗ ở giữa cầu, từ hình thể đến vị trí cùng nguyên liệu đều cực kỳ xấu xí (…) Nó là cả một căn nhà một tầng, nặng nề, cất bằng đòn tay và ván dày, lớn. Đồn cất cao, có giàn lớn chống đỡ để nó bắc qua suốt chiều ngang cầu, chỉ dựa vào cái kapia ở hai đầu, một đầu ở trên sân bên trái, đầu kia ở trên sân bên phải. Ở dưới có đường cho xe ngựa, bộ hành qua lại, y như một đường hầm. Có một cầu thang bằng gỗ đỗ tùng bắc từ ngoài đưa lên tầng duy nhất của đồn, nơi đó lính gác ngủ và bất kỳ giờ nào cũng có thể coi chừng những người qua cầu khám xét giấy tờ, hành lý và nếu cần thì chặn lại không cho qua.

Đồn canh đó làm thay đối hẳn hình dáng chiếc cầu. Cái kapia đẹp dẽ biến mất. Kiến trúc bằng gỗ đó dựng trên những cây đà có vẻ như ngồi chồm hỗm lên cái kapia, không khác một con chim khổng lồ kỳ quái.

Đồn mới cất xong, còn hắc mùi gỗ đỗ tùng, thì lính gác đã lại đóng liền và ngay sáng sớm hôm sau, nó như một cái lưới, đã bẫy được vài nạn nhân đầu tiên.

Mặt trời mới mọc, còn thấp và đỏ rực, một bọn tụ họp ở dưới đồn, gồm một số lính và vài người Thồ trong thị trấn mang vũ khí, mấy người này ban đêm giúp cho đội, canh gác chung quanh thị trấn. Người chỉ huy ngồi trên cái đà, giữa đám đó; đứng trước mặt thầy ta là một ông già nhỏ con, vào hạng người hành hương mộ đạo, nửa tu sĩ, nửa hành khất, nhưng dịu dàng thuần tính, tuy nghèo mà có vẻ sạch sẽ, dễ thương, lanh lẹ và tươi cười mặc dầu tóc bạc phơ, da nhăn nheo. Con người kỳ dị đó tên là Télisié, quê quán ở Tchainitché. Đã từ mấy năm nay, lúc nào cũng dịu dàng, trang trọng, tươi cười, ông đi viếng các giáo đường, tu viện, dự các buổi hội họp tín đồ, và các lễ thần hộ mạng, cầu nguyện Chúa, quì lạy và giữ trai giới. Trước kia nhà cầm quyền Thổ không để ý tới ông, coi ông như một người ngớ ngẩn, một người của Chúa để ông tự do, muốn đi đâu cũng được, nói gì cũng được.

Nhưng bây giờ vì cuộc khởi nghĩa đang phát ra dữ dội ở Serbie, thời thế đã thay đồi thì biện pháp phải nghiêm ngặt hơn. Có vài gia đình Thổ nhà cửa bị nghĩa quân đốt phá, từ Serbie di cư lại thị trấn. Họ truyền bá lòng căm thù và buộc phải phục thù. Tiền đồn nào cũng có lính canh, sự kiểm soát được tăng cường, vậy mà những người Thổ mới vẫn lo lắng, căm hận, quạu quọ, nhìn mọi người bằng cặp mắt nghi ky, tàn bạo.

Ông lão từ con đường Rogatisa lại và chẳng may cho ông, hôm đó đồn mới cất xong, bọn lính đầu tiên mới lại gác thì ông là người đầu tiên qua cầu. Quả là rủi ro làm sao, ông tới vào lúc trời còn nhá nhem tối, mà ông lại cầm ở trước ngực một cây gậy khắc những dấu, những chữ kỳ cục, y như cầm một cây nến đang cháy vậy. Đồn nuốt chửng ông như một con nhện nuốt một con ruồi. Họ hỏi vắn tắt ông mấy câu: ông tên gì, làm nghề gì, ở đâu lại những dấu và chữ khắc trên gậy có nghĩa gì, nhưng ông lại đáp cả những câu họ không hỏi, đáp một cách ung dung, cởi mở, y như trước mặt Thượng đế vậy, chứ không phải trước những lính Thổ tàn bạo. Ông bảo ông chẳng là gì hết, chẳng là ai cả, chỉ là một lữ hành trên trái đất một khách qua đường trong cái khoảng bóng câu qua cửa này, một cái bóng ở dưới mặt trời thôi. Còn sống được ít ngày ngắn ngủi nữa thì ông tụng niệm, đi từ tu viện này tới tu viện khác, như vậy cho tới khi đi khắp các thánh đia, các đường, các lăng tẩm hoàng đế và lãnh chúa Serbie. Còn những hình và chữ trên cây gậy thì tượng trưng cho các triều đại tự do và hùng cường của Serbie trong quá khứ và vị lai. Ông lão khiêm tốn và rụt rè mỉm cười bảo vì thời khởi nghĩa gần tới rồi, và cứ theo lời dạy trong sách và điềm thấy trên trời dưới đất thì thời đó đã tới sát rồi nữa. Thiên đường được phục hưng, nhờ nhiều thử thách mà được chuộc lại và xây dựng trên chân lý.

“Thưa quý Ngài, tôi biết rằng những điều tôi nói đó không làm cho quí Ngài vui, và đáng lẽ tôi không được tiết lộ những điều đó ra với qúi Ngài, nhưng quí Ngài đã giữ tôi lại bắt tôi phải khai hết sự thực, cho nên tôi không thể làm khác được. Thượng đế là chân lý mà chân lý chỉ có một, và bây giờ tôi xin quý Ngài cho tôi đi vì hôm nay tôi phải tới Bania viếng tu viện Tam vị nhất thể.”

Người thông ngôn Chefko biết rất ít tiếng Thổ, khó khăn lắm mới tìm được cách dịch những tiếng trừu tượng đó viên chi huy, một người Anatolie ốm yếu, còn ngái ngủ, nghe những lời kém sáng sủa, mạch lạc của người thông ngôn và thỉnh thoảng liếc ngó ông già; ông không sợ sệt gì cả cũng không có ý nghĩ xấu xa gì cả, ngó viên chỉ huy và khóe mắt có vẻ nhận những lời thông ngôn lại là đúng, mặc dầu ông không hiểu tiếng Thổ. Lương tâm viên chỉ huy biết rõ rằng ông già khùng khùng đó là một giáo sĩ, một kẻ ngớ ngẩn vô hại, vui tính. Họ bẻ tức thì cây gậy kỳ cục ra làm mấy khúc xem trong có rỗng không, có giấu những thư mật nào không, mà không thấy gì cả Nhưng theo lời thông ngôn của Chefko thì ngôn ngữ ông già này có vẻ khả nghi, có mùi chính trị và nhiều ý muốn nguy hiểm. Giá chỉ có một mình thì viên chỉ huy đã cho con người ngớ ngẩn đó tiếp tục đi rồi, nhưng chung quanh còn có nhiều quân nhân, nhiều thường nhân canh gác nữa, họ đều theo dõi cuộc tra xét đó. Lại có thêm viên đội Takhir, một con người tàn ác, toét mắt, âm hiểm đã mấy lần vu oan thầy ta với sếp là không siêng năng nghiêm khắc. Còn gã Chefko đó nữa, khi thông dịch đã hiển nhiên diễn sai lời nói, theo cái nghĩa tai hại nhất cho tính mạng của ông già hăng hái đó; việc gì hắn cũng chõ vào, đóng cái vai mách lẻo, và chẳng có chứng cớ gì cũng có thể bịa ra hoặc xác nhận những tin đồn bậy. Ấy là chưa kể bọn Thổ, tình nguyện ở thị trấn kia, vẻ mặt trầm uất và nghiêm trọng, đi tuần, bắt những kẻ qua đường khả nghi, chẳng có gì cần thiết cũng xen vào công việc của thầy. Cả bọn đó đều tụ họp ở đây. Và hồi này họ đều cay đắng, khát khao cuồng nhiệt trả thù trừng trị, giết người. Chúng không thể giết được những người chúng muốn giết, thì chúng giết những người chúng có thể giết được. Viên chỉ huy không hiểu, không tán thành bọn chúng nhưng thấy rõ chúng đồng tình muốn rằng ngay buổi sáng đầu tiên này, đồn phải bắt được một con vật hy sinh, và thầy hơi ngại sẽ bị khốn khổ, nếu trong lúc chúng hăng tiết như vậy mà thầy cưỡng lại ý muốn của chúng. Vì ông lão điên này mà chịu những nỗi bực mình, không, thầy không muốn vậy đâu. Dù sao, mấy ngày rày tụi Thổ ở xứ này sùng sục lên như ong vỡ tổ, mà ông lão lại kể chuyện bậy bạ như vậy về đế quốc Serbie thì có được thả, cũng không đi xa được đâu. Thôi, dòng nước đục đã đánh giạt ông ta lại đây, thì lại để cho nó cuốn ông đi …

Ông lão mới vừa bị trói xong và viên chỉ huy sắp sửa về thị trấn để khỏi chứng kiến cuộc hành hình của ông thì bọn hiến binh và bọn Thổ dẫn một thanh niên Serbie tới. Anh ta ăn bận tồi tàn, quần áo rách rưới, mặt và tay đều trầy trụa, tên làu Milé, ở một mình trên đồi Lieska, anh ta coi một cái cối xay bột chạy bằng sức nước ở Osoinitsa, nhiều lắm là mười chín tuổi, lực hưởng, sức khỏe dồi dào.

Sáng đó, trước khi mặt trời mọc, anh đổ lúa để xay, mở cống nước lớn, rồi đi sâu vô rừng ở phía trên cao để đốn những cành cây trăn mềm như cọng rạ. Anh đương hưởng không khí mát mẻ của ban mai và thích thú vì vung lưỡi rìu rất bén lên là cành trăn đứt liền, thật ngọt tay. Có cái gì làm phồng ngực anh và khiến anh đưa một nhát rìu lại khoái chí la lên một tiếng. Tay anh vung càng nhanh thì tiếng la càng nhiều, càng liền nhau. Như mọi người ở đồi Lieska, tai anh là tai trâu, anh không biết hát, vậy mà lúc đó anh hát vang lên, gào hét trong khu rừng rậm âm u đó. Chẳng nghĩ ngợi gì ca, quên rằng mình ở đâu, anh hát những câu mà anh đã nghe người khác hát.

Hồi nghĩa quân nổi dậy, dân chúng sửa đổi vài tiếng trong một bài hát bình dân cổ:

Khi Ali Bey còn là một tướng quân trẻ,

Một thiếu nữ cầm cờ cho ông

Thành một bài hát mới:

Khi Georges[49] còn là một tướng quân trẻ,

Một thiếu nữ cầm cờ cho ông.

Trong cuộc tranh đấu lớn lao và kì cục kéo dài từ mấy thế kỷ nay giữa hai tín ngưỡng[50] đó, tranh đấu nhân danh tôn giáo mà sự thực là vì đất đai vì quyền hành, vì một quan niệm đặc biệt về đời sống và sự tổ chức xã hội, hai bên đã cướp lẫn của nhau, từ phụ nữ tới khí giới, ngựa, cả những bài hát nữa, do đó nhiều bài thơ từ bên này chuyền qua bên kia như một chiến lợi phẩm quí báu.

Bài hát trên kia chính là bài mà ít lâu nay người Serbie thường hát lén lút, không cho người Thổ nghe được hát trong những ngôi nhà khép kín cửa lại nhân các ngày hội hè, hoặc trong những đồng cỏ hẻo lánh mà người Thổ cả năm không đặt chân tới một lần, nơi hoang vu mà người ta chịu cảnh nghèo khổ, cô tịch dể được cái thú sống theo ý mình và muốn hát gì thì hát. Đó, Milé, gia nhân của một chủ máy xay, đã hát bài đó trong khu rừng ở phía trên con đường qua lại của người Thổ ở Olouaik và Orakhovak khi họ ra chợ Vichégrad.

Hừng đông vừa mới chiếu lên đỉnh đồi, và chung quanh anh ta, hãy còn tối vì cây cối rậm rạp. Quần áo đẫm sương nhưng anh ta thấy nực và đã ngủ một giấc ngon, ăn những miếng bánh nóng hổi và vì làm việc nhanh nhẹn. Anh vung chiếc rìu lên chặt vào cây trăn nhỏ ở sát gốc, nhưng thân cây chỉ chầm chậm gục xuống thôi như một cô dâu mới về nhà chồng cúi xuống hôn tay ông già chồng vậy. Những giọt sương lạnh trên cây trăn trút xuống người anh như một cơn mưa nhỏ, và lớp cây cỏ ở mặt đất dày quá, nên thân cây trăn cứ nghiêng nghiêng, không đổ xuống được. Một tay anh phát mấy canh lá xanh, dễ như một trò chơi. Vừa phát anh vừa gân cổ ra hát, thích thú nhấn vào vài tiếng: như tiếng “Georges” có cái gì lờ mờ mà lại mạnh mẽ, táo bạo; những tiếng “thiếu nữ” và “cờ” cũng mới lạ đối với anh, mà có phần nào hợp với những ước ao thầm kín nhất của anh, anh vẫn mong có một thiếu nữ và thiếu nữ đó cầm cờ. Dù sao, hát tới mấy tiếng đó, anh thích lắm. Anh đem hết sinh lực ra hát thật lớn, không biết bao nhiêu lần, càng hát, sức anh càng tăng lên, buộc anh phải hát lại lớn hơn nữa.

Milé, sáng sớm hôm đó ca hát như vậy trong khi đốn củi xong rồi anh xuống sườn đồi ẩm ớt, kéo lết một bó củi ở phía sau. Trước nhà máy xay có một bọn Thổ. Họ đã cột ngựa rồi và chờ đợi một cái gì. Khoảng mười người. Milé lúc này lại rách rưới, lúng túng vụng về như hồi mới đi kiếm củi, chẳng có “Georges” ở trước mắt, mà cũng chẳng có thiếu nữ với cây cờ ở bên cạnh. Bọn Thổ đợi cho anh ta đặt rìu xuống rồi mới từ bốn phía đâm bổ tới, vật lộn với anh một chút rồi trói anh lại bằng những dây thừng lớn tròng cổ thú vật, lôi anh ra thị trấn. Trên đường họ cầm gậy đập vào lưng anh hoặc đá vào đít anh, hỏi thằng Georges của anh lúc này ở đâu, mắng chửi anh vì anh hát gì mà có thiếu nữ cầm cờ.

Dưới cái đồn canh trên kapia, người ta mới trói xong ông lão điên điên khùng khùng, đã có một đám người vô công rồi nghề trong thị trấn tụ họp bên cạnh bọn lính, mặc dầu lúc đó mới bắt đầu sáng. Trong đám đó có vài người Thổ tị nạn, từ Serbie tới. Họ đều mang khí giới và có vẻ nghiêm trọng, như trước một biến cố lớn lao, một trận đánh quyết liệt vậy. Mặt trời càng lên cao thì nỗi giận dữ của họ càng tăng. Mà mặt trời lên mau lắm, cùng với đám sương mù sáng sủa, hồng hồng, ở chân trời, trên miền Golech kia. Họ coi khinh lên hoảng hốt đó như một lãnh tụ phiến loạn, mặc dầu anh ta rách rưới coi bộ khốn nạn, mà lại ở bên tả ngạn sông Drina, miền không có cuộc nổi loạn nào cả.

Bọn Thổ ở Orakhovak và Oluiak nổi quạu vì thái độ cả gan của thanh niên, không tin rằng anh vô tình hát bậy, nên đồng thanh khai rằng anh đã hát bài về Karageorges và bọn phiến loạn theo tà giáo, ở ngay sát bên đường, để khiêu khích họ. Nói cho ngay, thanh niên đó chẳng có vẻ gì là một vị anh hùng hay một thủ lãnh nguy hiểm: anh sợ sệt, bị trầy trụa, đau đớn, quần áo rách rưới, ướt đẫm. Mặt anh tái mét, cặp mặt anh vì xúc động mà hóa ra lé, ngó viên chỉ huy như thầm mong cứu sống cho. Vì ít khi ra thị trấn nên anh không biết rằng trên cầu đã dựng một đồn canh. Cho nên anh thấy những việc xảy ra đó có vẻ kì dị, hư ảo, như trong một giấc mộng, như anh lạc vào một thị trấn lạ, giữa một đám người tàn ác và nguy hiểm. Anh ta nhìn xuống đất, lắp bắp rằng anh không hát gì cả, không bao giờ làm hại danh dự của người Thổ, rằng anh chỉ là một gia nhân khốn khổ của một ông chủ máy xay, anh đi đốn củi và chẳng hiểu tại sao bị bắt dẫn lại đây. Anh sợ run lên, thực tình không hiểu tại sao thình lình lại bị đánh đập, trói tay, trên cái kapia này, trước một đám đông chăm chú ngó anh và tra hỏi anh như vầy. Chính anh cũng quên rằng đã hát, dù là một bài vô tội vạ nhất nữa.

Nhưng bọn Thổ cứ khăng khăng bảo anh đã hát bài của tụi phiến loạn, đúng lúc họ đi ngang qua; và anh đã chống cự khi họ muốn trói anh. Người nào cũng xác nhận, thề là đúng như vậy với viên chỉ huy:

- Mày chịu thề Chúa không?

- Em xin thề.

- Thề đúng rồi chưa?

- Dạ đúng.

Như vậy ba lần. Rồi người ta đặt thanh niên đó ở bên cạnh ông lão Lélisié, đi đánh thức tên đao phủ còn ngủ say. Ông lão nhìn chàng, chàng ngơ ngác, bối rối, mắc cỡ, chớp chớp mắt vì không quen ban ngày đứng lẻ loi giữa cầu, giữa đám đông như vậy. Ông lão hỏi: -Tên con là gì?

Chàng khúm núm đáp như vẫn còn đáp những lời tra vấn của bọn Thổ.

- Dạ, Mi lé.

Ông lão cúi đầu bạc xuống một bên vai của Mi lé, bảo: -Mi lé, con, chúng mình ôm nhau đi, ôm nhau đi và làm dấu thánh giá. Nhân danh đức Thánh cha, đức Thánh con và đức Thánh Thần, Men.

Ông làm dấu rồi cầu phúc cho Milé, chỉ cầu miệng thật mau thôi, không dùng tay vì tay bị trói, vả lại tên đao phủ đã lại gần rồi.

Tên này cũng!à một trong những người lính, hành hình rất mau, và những người đầu tiên từ trên đồi xuống, qua cầu – vì hôm đó nhằm phiên chợ – đã thấy, hai đầu lâu cắm trên hai cây nọc mới có nhiều máu gần dồn canh. Chỗ hành hình vấy máu đã được phủ một lớp đá sỏi rồi san phẳng.

Đó, đồn bắt đầu “làm việc” như vậy.

Từ ngày đó, tất cả những người có tội hoặc bị tình nghi liên lạc với nghĩa quân, bị bắt ở trên cầu hoặc ở một nơi nào phía biên giới cũng bị đưa lại kapia. Và kẻ nào đã bị một lần trói để tra khảo dưới đồn canh thì rất ít khi được sống sót. Ở đó người ta chặt đầu nghĩa quân – có khi chi là những kẻ vô tội bị rủi ro – bêu đầu họ trên nọc chung quanh đồn, còn thi thể thì quẳng xuống dòng sông Drina nếu không có ai lại chuộc đem về chôn.

Cuộc khởi nghĩa có lúc tạm lắng dịu một thời gian dài ngắn không chừng, rồi lại tiếp tục, như vậy nhiều năm, và rất nhiều thi thể đã bị nước cuốn đi để “xuống thủy cung đòi một cái đầu khác sáng suốt hơ, khôn hơn.”

Do một sự ngẫu nhiên chỉ tai hại cho những kẻ yếu thế và những kẻ khinh suất mà hai người chất phác, nghèo khổ vô tội và thất học đó đã dẫn đầu cả đoàn ma không đầu kia (…) Vì vậy, hình ảnh hai kẻ tội nghiệp đó mà trước kia có ai biết mặt, biết danh gì đâu, mới khắc sâu và lâu trong trí óc mọi người còn hơn nhiều nạn nhân lừng danh khác nữa.

Vậy là cái kapia biến mất dưới cái đồn ác hại, bất thường đó, và những cuộc hội họp, trò chuyện, ca hát, vui chơi cũng cùng vời nó mà mất luôn. Ngay những người Thổ cũng không vui gì khi qua đó: còn người Serbie thì bất dắc dĩ mới phải qua, mà lần nào qua cũng rảo bước, gục mặt xuống.

Chung quanh cái đồn mà ván lâu ngày chuyển qua màu xám đen đó, phát sinh ngay cái không khí người ta luôn luôn thấy chung quanh những chỗ quân đội đóng thường trực. Lính phơi quần áo trên những cái đà ngang, từ cửa sổ họ trút xuống sông Drina các rác rưởi, nước dơ trong đồn, do đó mà dọc cái chân cầu trắng chính giữa, có những vết dài, bẩn, đứng xa cũng thấy.

Cũng vẫn người lính đó làm nhiệm vụ đao phủ trong một thời gian lâu. Hắn là một người Anatolie mập, nước da sạm, mắt vàng và đục, môi dày như người mọi da đen, mặt phị, tái mét, lúc nào cũng có vẻ mỉm cười như bọn ăn uống nọ đủ và vui tính. Tên hắn là Hairoudine; chẳng bao lâu khắp thị trấn và dọc theo biên giới ở xa, không ai là không biết hắn. Hắn vui vẻ và tự đắc làm phận sự; dù sao hắn cũng rất thạo nghề và làm rất mau. Dân chúng bảo hắn còn “ngọt tay” hơn Mouchane, chú thợ cạo trong thị trấn nữa. Già, trẻ đều biết hắn, ít nhất là nghe tên hắn, mà tên hắn làm cho người ta vừa rùng mình vừa tò mò. Khi trời nắng ráo, hắn suốt ngày ngồi hay nằm dưới bóng mát của cái đồn. Thỉnh thoảng hắn đi một vòng thăm những đầu lâu bêu trên nọc, như người làm vườn đi thăm dưa, rồi lại trở về nằm trên tấm ván của hắn, dưới bóng mát, ngáp, vươn vai, duỗi tay chân, phục phịch, mắt toét nhu nhược như một con chó bécgiê xồm già nua. Ở đầu cầu, bọn con nít tò mò nép sau bức tường, rụt rè nhìn trộm hắn.

Nhưng khi làm việc thì hắn lanh lẹ và cẩn thận từng tí. Hắn không thích ai xen vào công việc của hắn. Mà cuộc khởi nghĩa càng lan tràn thì việc đó càng thường xảy ra. Khi nghĩa quân thiêu hủy làng xóm ở những đồi chung quanh thị trấn, nỗi phẫn nộ của người Thổ lên tới cực điểm. Chẳng những họ bắt nghĩa quân, bọn do thám cho nghĩa quân – thực hay chỉ là tình nghi – dẫn lại cho viên chi huy trên cầu, mà trong cơn hăng tiết, họ còn muốn xen vào việc hành hình nữa.

Tại đó, một hôm mặt trời vừa ló thì người ta thấy xuất hiện đầu lâu của vị giáo trưởng Vichégrad, chính giáo trưởng Mihailo mà trong trận lụt lớn năm trước đã có đủ nghị lực nói đùa với ông pháp sư Do-thái và ông mục sư Hồi-giáo. Trong cơn phẫn nộ chung của người Thổ đối với người Serbie, ông chết một cách oan uổng và tụi con nít Tsigane cắm một điếu xì-gà vào miệng ông.

Những trò đó, Hairoudine nghiêm cấm và hễ thấy thì ngăn lại.

Khi hắn chết thình lình về bệnh thán thư, một đao phủ khác, vụng về hơn nhiều, tiếp tục công việc trong nhiều năm nữa; cuộc khởi nghĩa còn chưa giảm thì luôn luôn người ta còn thấy hai ba chiếc đầu lâu trên cái kapia. Vào những thời như vậy, lòng con người dễ chai ra, không phản ứng nữa; nhìn quen cảnh đó rồi, người ta thản nhiên đi ngang qua và khi sự bêu đầu ghê rợn đó chấm dứt, người ta cũng không nhận ra được ngay.

Khi tình hình yên lặng trở lại ở Serbie và trên biên giới đồn canh đó hóa ra không quan trọng nữa, mất lí do tồn tại. Nhưng vẫn còn lính canh gác, ngủ ở đó, mặc dầu đã từ lâu rồi, sự qua lại trên cầu được tự do, không bị canh chừng. Trong đạo quân nào cũng vậy, mọi sự biến chuyển chậm chạp lắm mà các đạo quân của Thổ, biến chuyển chậm chạp nhất. Có mà trời biết được tình trạng đó kéo dài tới bao giờ nữa, nếu một đêm nọ, đồn không bị cháy vì một cây nến bỏ quên không tắt. Đồn cất bằng những ván[51] có nhựa, ban ngày nắng và hầm, tối còn nóng bỏng, cháy rụi cho tới chân, nghĩa là tới những phiến đá lát trên cầu và trên kapia. Dân trong thị trấn xúc động nhìn ngọn lửa cao chiếu sáng không những chiếc cầu mà cả những ngọn đồi chung quanh nữa và ánh sáng lửa hồng, chập chờn phản chiếu trên mặt sông. Sáng dậy người ta thấy chiếc cầu xuất hiện, hình dáng như hồi xưa, không còn cái đồn nặng nề bằng gỗ đã che lấp cái kapia trong bấy lâu nay. Những phiến đá lát trắng bị lửa bắt vào, đen một lớp mồ hóng, nhưng chẳng bao lâu, mưa và tuyết rửa sạch được hết. Như vậy là cái đồn và những cuộc hành hình ở đó chẳng còn lưu lại dấu vết gì, ngoài những hồi kí đau xót cứ mờ lần đi rồi hết thế hệ đó thì mất hẳn (…)

Và công dụng của cái kapia trở lại như trước đối với thị trấn. Trên cái sân bên trái từ thị trấn tới, người chủ quán cà-phê lại đốt một lò than, bày các đồ dùng. Chi có cái phông-ten là hư vì đầu rồng chỗ nước chảy ra đã bị đập bể. Thiên hạ lại bắt đầu ngừng lại trên bệ, ngồi chuyện trò, tính toán công việc làm ăn hoặc nhàn hạ thiu thiu ngủ. Đêm hè, bọn trẻ dắt nhau từng đoàn tới ca hát; cũng có những thanh niên cô độc lại đó nén nỗi sầu luyến ái, hoặc niềm hoài bão khố não và mơ hồ muốn đi xa, sống ở nơi xa, kính doanh những việc lớn lao, mạo hiểm những việc phi thường (…)

Khoảng hai chục năm sau những biến cố đó, đã có một thế hệ mới ca hát, đùa giỡn trên cầu rồi, không còn nhớ tới hình thù xấu xí, kì dị của cái đồn bằng gỗ, nhớ những tiếng hô ồ ồ của bọn lính gác ban đêm bảo người qua đường ngừng lại, nhớ tên đao phủ Hairoudine nổi tiếng là thạo nghề, nhớ những đầu lậu bị bêu nữa.

Chỉ còn vài bà già tức giận vì tụi con nít bẻ trộm đào vừa đuổi chúng vừa quát tháo, rủa chúng: -Trời sai một tràng Hairoudine xuống cho nó chặt đầu tụi bay đi! Cho mẹ tụi bay lại cái kapia mà nhận xác con!

Nhưng bọn con trai chui qua hàng rào trốn thoát, không hiểu được ý nghĩa lời rủa đó, chỉ biết nó không có nghĩa tốt đẹp, thế thôi.

Vậy các thế hệ cứ nối tiếp nhau ở gần chiếc cầu, mà chiếc cầu thì giũ – như ta giũ bụi – tất cả những dấu vết do những thị hiếu bất thường hoặc những nhu cầu nhất thời của loài người lưu lại. Rốt cuộc nó vẫn như cũ, không thay đổi gì cả và cũng không thể thay đổi được.

Chú thích:

[48] Có nghĩa là ông Georges Đen, viên thủ lãnh nghĩa quân Serbie chống lại Thổ năm 1804.

[49] Tức Karageorges, viên thủ lãnh nghĩa quân.

[50] Tức Ki tô giáo và Hồi giáo.

[51] Bản tiếng Pháp: pierres (đá), chắc lầm; planches thì phải hơn.