Chương V
Thế kỷ thứ nhất trôi qua. Nó có vẻ lâu hết và tai hại cho dân chúng và nhiều công việc làm ăn, nhưng nó không để lại dấu vết gì trên các công trình xây cất đã tính toán kỹ, mà nền móng chắc chắn: chiếc cầu với cái kapia và lữ quán gắn đó vẫn đứng vững và giúp ích cho dân chúng như ngày mới đầu. Đáng lý ra, thế kỷ thứ nhì cũng vậy, xuân qua thu lại, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, mà cầu và lữ quán vẫn y nhiên, không thay đổi. Nhưng thời gian không làm gì được thì những hoàn cảnh xảy ra ở xa đã gây những biến động bất ngờ khiến cho vật đổi sao dời.
Vào thời đó, cuối thế kỉ XVII, trong các bài hát, các cuộc đàm đạo và các câu chuyện thì thầm với nhau, người ta thường nói tới xứ Hung Gia Lợi mà đạo quân Thổ chiếm cứ được một thế kỷ rồi, bắt đầu triệt thoái.[42]
Nhiều lãnh chúa Bosnie cầm khí giới để bảo vệ đất đai của họ ở Hung, trong cuộc rút lui đó, đã gởi xương trên đất Hung. Có thể nói rằng chết như vậy lại có phước nhất vì nhiều lãnh chúa khác trở về tổ quốc Bosnie, trần như nhộng, sống một cuộc đời eo hẹp, nghèo khổ trên những ruộng đất khô cằn, sau khi đã hưởng một đời xa hoa, tiêu pha rộng rãi trên những lãnh địa rộng lớn ở Hung. Những biến cố từ xa đó có tiếng vang tới tận đây, dịu đi, nhưng không ai nghĩ rằng cái xứ Ungaria[43] của điệu ca tiếng hát đó lại có thể có chút liên lạc gì với đời sống thực sự thường ngày ở thị trấn nhỏ này được. Vậy mà có đấy. Khi quân đội Thổ rút ra khỏi Hung thì ngoài những cái khác ra không kề, những của cải vakòuf cũng mất luôn, mà lữ quán Vichégrad trông vào những của cải đó để sống.
Dân chúng thị trấn và các khách qua đường từ một thế kỷ nay đã quen với lữ quán bóng đá đó rồi, không hề nghĩ nó sống nhờ những nguồn lợi nào, những nguồn lợi đó do đâu mà có; họ cứ hưởng những tiện lợi của lữ quán như hưởng một cây ăn trái trời cho mọc ở bên đường vậy, chẳng của ai cả mà lại là thuộc về mọi người. Họ cầu nguyện như cái máy cho linh hồn quan tể tướng được hưởng cảnh cực lạc ở thiên đường, nhưng họ không nghĩ rằng ngài đã mất một thế kỷ rồi, mà cũng chẳng hỏi hiện nay ai giữ gìn, bảo vệ.đất công của triều đình và của cải của vakouf. Ai mà có thể tưởng tượng được rằng những sự việc ở đời cách xa nhau như vậy lại tùy thuộc lẫn nhau, liên lạc mật thiết với nhau? Cho nên trong thị trấn, người ta không nhận thấy rằng nguồn tiếp tế cho lữ quán đã cạn. Bọn đầy tớ vẫn tiếp tục làm việc và lữ quán vẫn tiếp các khách qua đường như trước. Người ta cho rằng tiến để duy trì lữ quán gởi tới chậm, điều đó đã có lần xảy ra rồi. Nhưng chờ hết tháng này qua tháng khác năm này qua năm khác mà tiền vẫn không tới. Bọn đầy tớ thôi làm. Người quản lý các của cải vakouf thời đó, ông Daout – Hodja Moutevelitch (người ta gọi ông như vậy, riết rồi thành tên họ ông[44] hỏi han, vận động mọi nơi mà chẳng nơi nào hồi âm cả. Các khách lữ hành đành phải tự làm lấy, quét dọn lữ quán khi nào thấy thực cần thiết cho họ và cho súc vật của họ; nhưng người nào đi cũng để lại phân và rác rữơi, thật hỗn độn, người tới sau phải thu xếp, quét dọn, tình trạng cứ mỗi ngày một tệ thêm.
Daout – Hodja làm mọi cách để cứu vãn lữ quán, duy trì nó. Mới dầu ông ta bỏ tiền túi ra, rồi bắt đầu mang nợ. Năm này qua năm khác, ông trùng tu và tô điểm ngôi nhà đắt tiền đó. Người ta chê ông dại, tán gia bại sản dể rán duy trì một cái không thể duy trì được thì ông đáp rằng ông đặt tiền lấy lời đấy, vì ông cho Thượng đế vay tiền đấy; ông với tư cách là người quản lý của cải vakouf thì phải duy trì kiến trúc từ thiện này mà mọi người đã bỏ.
Con người minh triết mộ đạo, bướng bỉnh, bền chí mà dân thị trấn nhớ hoại đó một mực gắng sức mặc dầu là công dã tràng. Ông ta tận tụy làm việc, từ lâu đã chấp nhận rằng thân phận con người là phải chống với mọi sự phá hoại, chống với sự chết, sự suy tàn, và cả những khi hoàn toàn tuyệt vọng thì cũng phải kiên nhẫn chiến đấu Và ngồi trước cái lữ quán nó điêu tàn ngay dưới mắt ông, có ai khuyên ông thôi đừng gắng sức nữa, hoặc tỏ vẻ thương hại ông, thì ông đáp: -Đừng thương hại tôi. Vì hết thảy chúng ta chỉ chết một lần thôi, còn hạng vĩ nhân thì chết tới hai lần kia: lần thứ nhất khi họ từ giã cõi trần, lần thứ nhì khi sự nghiệp họ tạo nên tiêu tan mất đi.
Khi không có tiền mướn lao công nữa, mặc dầu già nua rồi, ông đích thân dãy cỏ lấy ở chung quanh lữ quán và làm những công việc tu bổ nho nhỏ. Vì vậy mà ông qua đời một hôm ông leo lên nóc để thay một viên ngói ông mất rồi lữ quán bỗng nhiên đổ nát. Đâu đâu cũng hiện lên những dấu hiệu suy tàn đầu tiên. Ống nước bắt đầu nghẹt và có mùi hôi, nóc dột, cửa và cửa sổ hở, để gió lọt vô, chuồng ngựa lún trong đám phân và bụi cỏ. Nhưng bề ngoài lữ quán bằng đá xây cất rất kỹ, có vẻ không thay đổi gì cả, vẫn vững bền, đẹp một cách êm đềm, bình tĩnh (…)
Lần lần người ta tránh không ghé đêm ở lại trấn nữa, hoặc người ta lại ở lữ quán Oustamouitch mà trả tiền. Khách qua đường tá túc ở lữ quán Vichégrad càng ngày càng hiếm, mặc dầu chẳng phải chịu một phí tổn nào cả, chi cần cầu nguyện cho vong linh quan tể tướng thôi. Sau cùng, khi người ta biết rõ rằng tiền sẽ không bao giờ tới, và chẳng có ai chịu quản lý lữ quán cả, thì mọi người, kể cả người thay thế ông Daout – Hodja ở cơ quan từ thiện vakouf cũng hết bận tâm về lữ quán, bỏ hoang nó trong cảnh im lìm và nó bắt đầu hư nát, sụp đổ như mọi ngôi nhà không có người ở và không có người trông nom. Cỏ dại và cây gai mọc đầy chung quanh. Quạ lớn quạ nhỏ bắt đầu làm tổ trên nóc, thành từng bầy đen kêu điếc tai.
(…) Nhưng trong khi lữ quán, do những hoàn cảnh bất thường, sớm bị tàn phế, thì chiếc cầu, không cần coi sóc tu bổ, vẫn đứng vững không thay đổi gì cả, vẫn nối hai bờ sông với nhau, đưa người sống và người chết từ bên này qua bên kia, như ngày nó mới ra đời vậy.
Chim làm tổ ở tường, cỏ mọc trong những kẽ nứt mới đầu không ai thấy. Thứ đá vàng vàng thưa thớt của chiếc cầu, dãi dầu mưa nắng, co lại, cứng lại, lâu năm ngả màu trắng đục như giấy da cừu sẫm, ban đêm lấp lánh như có ánh sáng ở bên trong.
Những trận lụt tai họa thường xuyên của thị trấn, không làm gì nổi nó (…) Cứ mỗi năm, ít nhất là một lần hay hai, vào mùa xuân và mùa thu, con sông Drina dựng lên, đục ngầu, chảy ào ào, cuốn theo ở dưới nhịp cầu, những hàng rào đổ sập ở trong đồng, những thân cây bật rễ, và những phù sa xám với lá cây, cành cây của các rừng hai bên bờ. Trong thị trấn, vườn, sân, kho lẫm ở gần sông bị hư hại. Thế thôi.
Nhưng cách khoảng không đều, từ hai đến ba chục năm lại xảy ra một trận lụt lớn, lưu lại một ấn tượng sâu trong trí nhớ dân chúng không kém cuộc khởi loạn hoặc chiến tranh, và người ta dùng những năm lụt đó làm cái mốc để tính đời người và đời các nhà cửa: “Năm sáu năm sau trận lụt lớn”, “trong trận lụt lớn.”
Những trận lụt lớn như vậy cuốn đi gần hết những đồ đạc trong già nửa thị trấn, tức khu ở trên cánh đồng và doi đất nằm giữa hai con sông Drina và Rfav, và làm cho cả thị trấn thụt lùi mất vài năm. Thế hệ bị lụt phải suốt đời tu bổ lại những sự hư hại, cứu vãn những tai họa mà trận lụt đã để lại, sau khi nước rút. Trong câu chuyện, họ nhắc hoài nỗi kinh khủng đêm thu đó, dưới cơn mưa lạnh và ngọn cuồng phong; dưới ánh sáng le lói của vài ngọn đèn, họ phải khiêng hàng hóa ra, dời quán lên khu Meidan ở trên cao kia, gởi đỡ trong nhà và trong kho người khác. Và sớm hôm sau, trong ánh sáng đục đục từ trên đồi họ nhìn xuống thị trấn mà họ bất giác yêu thắm thiết yêu xương máu của họ vậy, nhìn làn nước đục, nổi bọt, chảy như thác trong các đường phố, ngập tới nóc nhà, ầm ầm cuốn đi hết tấm ván này tới tấm ván khác; họ nhìn những nóc nhà còn đứng vững mà đoán là nhà của ai.
Trong những dịp lễ slava[45], lễ Noel; hoặc trong những đêm ramadan[46], các gia trưởng tóc hoa rấm, đi đứng nặng nề, hay ưu tư, hễ nhắc tới biến cố quan trọng nhất, đau khổ nhất trong đời họ: “trận lụt”, thì bỗng hóa ra hăng hái, thao thao bất tuyệt. Sau mười lăm, hai mươi năm ki cóp để sửa chữa nhà cửa, nhớ lại trận lụt, người ta thấy nó vừa lớn lao, đáng sợ, vừa thân thiết, gần gũi. Nó là mối liên hệ mạt thiết giữa những người cùng một thế hệ cứ thưa dần đi; vì không có gì liên kết con người hơn một tai họa cùng chịu chung với nhau rồi cùng may mắn sống sót được (…)
Ngồi trong những căn phòng ấm áp của ngôi nhà trước kia bị trận lụt, họ thích thú đặc biệt mà kể lại có tới cả trám lần rồi, vài cảnh cảm động hoặc bi thảm. Hồi ký càng đau xót thì niềm vui kể lại càng tăng. Trong lúc phì phèo điếu thuốc lá hoặc nhấm nháp một ly rượu nhẹ, những cảnh đó thường được óc tưởng tượng và thời gian biến đổi, phóng đại, tô điểm thêm, nhưng chẳng ai nhận thấy vậy mà còn cam đoan rằng đúng vậy nữa, vì ai cũng dự vào việc tô điểm vô tình đó (…)
Một trong những trận lụt lớn nhất trong lịch sử thị trấn, xuất hiện vào năm cuối cùng của thế kỷ XVIII và được khắc sâu trong trí nhớ mọi người, làm đầu đề cho nhiều câu chuyện (…) Trong mấy ngày thu mưa tầm tã đó mọi người đều đề phòng, biết rằng “nước là một kẻ thù”. Những người ở gần sông nhất đã chở những đồ trong kho đi chỗ khác, ban đêm cầm đèn đi tuần theo bờ sông, lắng tai nghe tiếng nước chảy ồ ồ, vì các cụ già bảo rằng nghe tiếng nước chảy có thể đoán được lụt sẽ nhỏ như thường năm, chỉ gây tai hại sơ sơ cho thị trấn, hoặc sẽ dữ dội – may thay, trường hợp này rất hiếm – ngập hết cả cầu và thị trấn, còn cuốn theo tất cả những nhà cửa xây không chắc chắn, nền móng không vững vàng.
Hôm sau người ta thấy nước sông Drina không dâng lên nữa, và cả thị trấn ngủ say vì đêm trước đã mất ngủ đến mệt lử. Thế là họ đã mắc mưu dòng nước. Đêm đó, nước sông Rfav thình lình dâng lên một cạch phi thường, đó những bùn, chặn dòng sông Drina ở chỗ hợp lưu. Thế là nước hai con sông hòa với nhau ngập cả thị trấn.
Souliaga Osmanagitch, một người Thổ vào hạng giàu nhất trong thị trấn có một con ngựa hồng Á Rập thuần chủng rất quí, rất đẹp. Ngay khi nước sông Drina bị dồn lại dâng lên, hai giờ trước khi tràn vào đường phố, con ngựa đó hí hoài cho tới khi đầy tớ và chủ nhà thức dậy, đưa nó ra khỏi chuồng cất ngay trên bờ sông, nó mới thôi. Nhờ vậy mà đa số dân chúng mới tỉnh dậy chạy lụt dưới cơn mưa lạnh và gió bão một đêm âm u tháng mười, cứu vãn được cái gì thì cứu vãn. Họ không kịp bận đủ quần áo, lội bì bõm trong nước tới đầu gối, cõng con cái đầm đìa nước mắt. Cừu hoảng sợ kêu be be. Thỉnh thoảng lại nghe thấy tiếng ầm của những thân cây, gốc cây bị dòng sông Dnna cuốn đi, đụng vào cột cầu.
Tại khu Meidan trên cao, nước không bao giờ ngập tới được, cửa sổ nhà nào cũng sáng, và những ngọn đèn lù mù đong đưa hoài trong đêm tối. Nhà nào cũng mở cửa đón những người chạy lụt ướt đẫm, hoảng hốt, ôm con và các vật cần thiết trên tay. Trong chuồng bò, người ta đốt lửa lên cho họ sưởi. Những nhân vật quan trọng nhất trong khu thương mại, sau khi tiếp các người tránh lụt rồi – Thổ thì vào ti nạn trong các nhà Thổ, Ki tô giáo
và Do Thái giáo thì vào các nhà Ki tô giáo – tụ họp nhau trong phòng rộng tầng dưới nhà ông Hadja Ristanov. Có đủ mặt các nhà chỉ huy, các quận trường, Thổ, Ki tô giáo Do Thái giáo lẫn lộn, người nào người nấy đều ướt đẫm kiệt lực, sau khi đã đi đánh thức đồng bào và kiếm chỗ cho họ trú tạm. Tai nạn chung do nước lũ, cuồng phong đã bắc một nhịp cầu qua cái hố chia cách họ với nhau, đặc biệt giữa người Ki tô giáo và người Thổ (…)
Người nào cũng ớt đẫm, tái mét, mím môi, nhưng bề ngoài có vẻ bình tĩnh; họ ngồi hút thuốc, bàn về những biện pháp cứu nạn đã thi hành và còn phải thi hành nữa. Lát lát lại có những thanh niên nước chảy ròng ròng từ áo quần, vô cho hay rằng tất cả những người sống đã đưa lên khu Meidan, sau đồn lũy, tạm trú trong các nhà Thổ và Ki tô giáo, còn nước sông dưới kia vẫn dâng hoài, ngập hết đường này tới đường khác (…)
Như có một sự mặc nhiên đồng ý, người ta chuyển hướng câu chuyện, tránh nhắc cả tới những vụ lụt trước mà người ta chỉ nghe kể lại; người ta nói những chuyện không liên quan gì tới nước, tới tai họa đương xảy ra. Những người tuyệt vọng đó gắng sức một cách tuyệt vọng để làm ra vẻ bình tĩnh, thản nhiên, gần như phù phiếm nữa (…) tự cho mình có bổn phận tự chủ, và lúc này đây, ít nhất là ngoài mặt, phải giấu niềm ưu tư đi, trước một tai họa không sao tránh được thì phải vui đùa nói về những chuyện khác.
Nhưng đúng lúc họ bắt đầu bình tĩnh lại, chuyện trò với nhau như vậy để quên đi mà nghỉ ngơi, lấy lại sức cho ngày hôm sau – điều đó rất cần thiết – thì vài người lạ bước vô dắt theo Kosta Baranats, một điền chủ còn trẻ, ướt như chuột lột, bùn bê bết tới đầu gối, mà không mang dây lưng. Chóa mắt vì ánh sáng, ngượng nghịu vì thấy đông người, chàng ngó xuống đất như trong giấc mộng, và đưa hai bàn tay lên vuốt nước ròng ròng trên mặt. Người ta nhường chỗ cho chàng, rót cho chàng một ly rakia mà chàng lóng cóng không đưa lên môi được. Toàn thân chàng run bần bật. Có tiếng thì thầm trong phòng: chàng muốn gieo mình xuống dòng nước tối tăm lúc đó đương vỗ vào bờ cát, đúng vào chỗ có những kho lúa và kho gây rượu của chàng.
Thanh niên đó là con một nông dân ở nơi khác tới hồi hai chục năm trước, mới đầu còn học nghề, sau cưới vợ trong một gia đình khá giả, và làm giàu rất mau trong mấy năm vừa qua, thình lình vượt hẳn các gia đình phong lưu, thờ mạo hiểm làm ăn, chẳng nể gì ai cả; chàng không quen thất bại và không chịu nổi tai họa. Mùa thu đó, chàng đã mua giành mua giật được rất nhiều mận và hạt dẻ, quá khả năng tài chánh của chàng xa, tính mùa đông tới, bán giá nào ai cũng phải mua, như vậy trả được hết nợ, và lời thêm được nhiều như năm trước. Bây giờ thì phá sản rồi.
Một lát sau cảm giác khó chịu do con người thất thế đó gây ra mới tan đi (…) Những người lớn tuổi và có danh vọng lại lái câu chuyện về những đầu đề vô hại.
Người ta uống rượu rakia cay và nóng, nhắc lại những nhân vật kỳ cục thời trước và đủ loại biến cố vui vui, khác thường. Giáo trưởng và Hadji Liatcho làm gương cho người khác (…)
Người ta kể chuyện Giáo trưởng Iovan hồi xa làm mục sư ở đây mà các tín đồ khen là người tốt, không “mát tay” và những lời cầu nguyện của ông không được Thượng đế chú ý tới.
Mùa hè, gặp những hồi đại hạn, mùa màng hư hại hết, lần nào giáo trưởng Iovan cũng tổ chức một cuộc lễ tước để đảo vũ, nhưng thường thường đảo vũ xong thì nắng hạn còn tăng lên, oi bức ngộp thở. Và một mùa thu nọ, sau một mùa hè nắng hạn, khi nước sông Drina bắt đầu dâng lên nhiều, có mòi lụt lớn, ông ta ra bờ sông, tập hợp tín đồ lại, đọc kinh cầu đảo, xin trời đừng mưa nữa cho nước sông đừng lên. Đúng lúc đó, một gã say rượu lời biếng tên là Iokitch, nhận thấy rằng ông cầu xin điều gì Thượng đế cũng ban cho điều ngược lại, bèn la lớn: -Đừng đọc bài đó thưa cha, đọc bài mùa hè kia, bài đảo vũ đó, như vậy chắc chắn nước sẽ rút.
Ismet Efendi, mập mạp, nói về các người tiền nhiệm của ông và cách các ông đó chống lụt.
Đã âu lắm rồi, trong một vụ lụt, hai ông Hodja ở Vichégrad đều đi cầu đảo, cho dân chúng khỏi bị tai họa. Một ông có nhà trong một khu thấp, bị ngập, còn ông kia ở trên đồi, nước lên không tới. Ông ở trên đồi cầu đảo trước nhưng nước không xuống. Một người Tsigane da trắng mà nhà đã bắt đầu chìm dưới nước, vội la lên: -Bà con ơi, xin đón ông Hodja ở tnmg tâm thị trấn lại đây nhà ông cũng bị ngập nước như nhà bọn mình, còn ông ở trên đồi này chỉ cầu đảo ngoài đầu lưỡi thôi, bà con không thấy sao?
Hadji Liatcho hồng hào, tươi tỉnh, tóc trắng, quăn rậm, ló ra khỏi chiếc mũ fez[47] chụp xuống gần sát lông mày, nghe những lời nói đùa đó, cười lớn và bảo vị giáo trưởng và ông Hodja: -Thôi đừng nhắc tới những chuyện cầu đảo đó nữa, kẻo dân chúng nhớ lại thời trước và có thể đẩy cả ba chúng ta ra ngoài và bắt chúng ta cầu đảo dưới cơn mưa tầm tã này để cho nước rút đấy.
Họ kể với nhau những truyện như vậy, những truyện tự nó vô nghĩa, người ngoài không hiểu được, chỉ có ý nghĩa với họ và những người cùng thế hệ với họ thôi: luôn luôn là một hồi ký vô hại, thầm kín chỉ họ biết với nhau, nó gợi lại đời sống đơn điệu, và khó nhọc của thị trấn này, đời sống đó chính là đời sống của họ (…)
Những vị quyền thế, từ tuổi thơ đã quen chiu mọi cảnh bất hạnh, nhờ vậy chế ngự được “cái đêm lụt lớn đó” tìm được đủ nghị lực để gượng gạo giữ vẻ cười cợt (…) mà trong thâm tâm thực ra họ rất lo ngại; họ luôn luôn lắng tai nghe tiếng nước gầm, tiếng gió rít, và những tiếng ở khu thấp của thị trấn đưa lên, khu mà tất cả gia sản của họ đương lâm nguy. Ngủ một đêm ở trên khu Meidan, sáng hôm sau họ có thể nhìn xuống cánh đồng thấy nhà cửa họ bị ngập, một số ngập tới lưng chừng, còn lại thì ngập tới nóc. Lần đó là lần đầu mà cũng là lần chót trong đời họ, họ thấy thị trấn không có cầu.
Nước dâng lên tới mười thước thành thử bít hết các nhịp cầu rộng và cao, cầu chìm xuống nước và nước chảy băng băng ở phía trên. Chi có khúc tường cao ở cái kapia là ló ra khỏi mặt nước, thành như một cái tháp nhỏ. Nhưng hai ngày sau nước thình lình rút, trời quang đãng, mặt trời chiếu rực rỡ, ấm áp, đẹp đẽ; ở xứ phì nhiêu đó, tháng mười thường có được vài ngày như vậy.
Trong ngày đẹp trời đó, cảnh thị trấn thật ghê rợn và não lòng. Nhà cửa của bọn Tsigane và những dân nghèo ở trên bờ sông đều nghiêng theo hướng nước chảy, nhiều căn mất nóc, vôi và đất sét trôi đi hết chỉ còn trơ lại cái sườn mắt cáo đen làm bằng cành liễu, coi như bộ xương.
Trong những khu sân không có hàng rào, các ngôi nhà giàu có đều tanh banh vì cửa sổ đã sập hết; ngôi nào cũng có một lần bùn đỏ: mực nước đã lên tới đó. Nhiều chuồng bò đã bị nước cuốn đi, nhiều kho lẫm sụp đổ. Trong những cửa tiệm thấp, bùn lên tới đầu gối, ngổn ngang các hàng hóa chở đi không kịp. Đường phố la liệt những thân cây đủ cả cành, rễ mà nước đã cuốn từ đâu tới không biết, và xác loài vật trương phình ra.
Người ta phải trở xuống tiếp tục sống trong thị trấn tan hoang như vậy. Chiếc cầu trắng, không thay đổi gì cả dưới ánh nắng, đã ló lên khỏi dòng nước vẫn còn đục ngầu chảy cuồn cuộn, ầm ầm giữa hai bờ bị ngập. Mực nước còn ở giữa lưng chừng cột cầu và chiếc cầu có vẻ cắm xuống một con sông khác sâu hơn. Trên cầu, dọc theo bao lơn, là những lớp bùn đương khô và nứt nẻ dưới ánh nắng; trên cái kapia, cành cây và phù sa đóng lại thành đống, nhưng hình dáng chiếc cầu vẫn y cựu: chi riêng có chiếc cầu là trải qua cơn lụt mà không hư hại, không thay đổi.
Mọi người trong thị trấn vội vã bắt tay vào việc liền để mưu sinh, tu bổ những tổn thất, không ai có thì giờ nghĩ tới ý nghĩa sự thắng lợi của chiếc cầu; nhưng trong khi chạy vạy làm lụng trong thị trấn bất hạnh đó – mọi vật đều bị tàn phá, hoặc ít nhất là bị thay đổi – họ biết rằng trong đời của họ, có cái gì đó có thể chống lại với mọi thiên tai, nhờ hình thức điều hòa và nền móng vững chắc mà vượt được cơn thử thách, trường tồn, bất diệt và bất biến.
Mùa đông năm đó cuộc sống thực gay go. Mọi sản vật chứa trong sân, trại, kho như lúa, gỗ, cỏ khô đều bị nước cuốn đi hết. Phải tu bổ lại nhà cửa, chuồng bò, hàng rào, mua chịu hàng hóa để thay những thứ đã bị hư hại. Kosta Baranats đã bị thiệt hại nhiều nhất vì đã quá táo bạo đầu cơ về mận, rầu rĩ và xấu hổ quá, chết trong mùa đông đó, để lại mấy đứa con còn nhỏ, gần như lang thang trên vỉa hè, với nhiều món nợ rải rác trong mọi làng.
Nhưng ngay từ mùa hè năm sau, hình ảnh trận lụt đã bắt đầu phai mờ trong ký ức các ông già bà cả, mặc dầu các cụ thường thở dài; còn bọn trẻ thì ngồi trên cái kapia bằng đá nhẵn bóng mà chuyện trò, ca hát và tiếng nước róc rách ở dưới sâu như phụ họa với giọng hát của họ.
Vậy, trên cái kapia, ở giữa khoảng trời, sông và núi, các thế hệ kế tiếp nhau tập đừng rầu rĩ quá mức về nạn lụt của sông Drina. Tại đó, họ chấp nhận triết lý hồn nhiên này của thị trấn: đời sống là một phép mầu không sao hiểu nổi, vì nó tiêu ma, tan loãng lần lần hoài, vậy mà vẫn tồn tại và đứng vững được “như chiếc cầu trên sông Drina.”
Chú thích:
[42] Năm 1697, Eugêne de Savoie, một vương công áo thắng Thổ, chiếm được Saraìevo và Thổ phải nhưởng cho áo một phần Bosnie Herzégovine.
[43] Tức Hung Gia Lợi.
[44] Tiếng Thổ mouteveli có nghĩa là người quản lý các cơ quan từ thiện.
[45] Lễ vị thánh phù hộ cho một gia đình. Chi người Serbie theo chính giáo mới làm lễ này.
[46] Tháng chính âm của người Hồi vào tháng t, tháng năm dương lịch. Trong tháng đó họ phải nhịn ăn và uống từ sáng đến tối.
[47] Mũ của Thổ không có vành.