← Quay lại trang sách

Chương IX

Khoảng bảy chục năm sau cuộc khởi nghĩa của Karageorges, chiến tranh lại tái phát ở Serbie và các miền biên giới nổi lên hưởng ứng liền. Nhà cửa Thổ và Serbie lại cháy trên các đồi núi, tại Hieb, Tsrtchitchi và Veletovo. Đã từ bao năm nay, người ta mới lại thấy vào lúc hừng đông những đầu lâu nông dân Serbie bêu trên cái kapia, mặt khô đét, trơ xương, tóc cắt ngắn, gáy phẳng, râu mép dài, cũng y như những đầu lâu bảy chục năm trước. Nhưng tình cảnh đó không kéo dài. Ngay khi chiến tranh giữa Thổ và Serbie chấm dứt thì dân tình dịu xuống. Sự thực dưới cái bề ngoài yên tĩnh đó, còn nhiều nỗi sợ sệt, những lời ri tai lo lắng những giọng nói kích thích. Càng ngày càng có tin đồn rõ rệt, công khai rằng quân đội Áo sắp vô Bosnie.

Đầu mùa hè năm 1878, đạo quân chính qui Thổ từ Sarajevo tiến về phía Priboi, đi ngang qua thị trấn. Ai cũng tin chắc rằng vua Thổ nạp Bosnie cho Áo mà không chống cự. Vài gia đình đã chuẩn bị di cư lại Sandjak, trong số đó những gia đình mười ba năm trước từ Oujitsé tản cư tới vì không muốn sống dưới quyền cai trì của người Serbie, bây giờ lại sắp sửa phải trốn cái ách đô hộ của chính quyền Ki tô giáo. Nhưng đa số ở lại, chờ xem biến cố ra sao, bề ngoài thản nhiên mà trong lòng hoang mang đau khổ.

Đầu tháng Bảy, viên mufti[61] ở Plévié đến với một nhóm nhỏ, cương quyết tổ chức cuộc kháng Áo ở Bosnie. Con người nghiêm trang, tóc hung hung, bế ngoài ôn hòa mà bản tính hăng hái, nhiều nhiệt tâm đó, một ngày đẹp trời mùa hè, ngồi trên cái kapia, hô hào những nhân vật Thổ quan trọng nhất trong thị trấn tề tựu ở chung quanh, ráng thuyết phục họ kháng Áo. Ông bảo rằng phần lớn đạo quân chánh qui, bất chấp chỉ thị của triều đình, sẽ ở lại cùng với dân chúng chống kẻ xâm lăng và ông kêu gọi các thanh niên gia nhập ngay cuộc kháng chiến, dân chúng gởi ngay lương thực tới Sarajevo. Ông vẫn biết rằng dân Vichégrad không phải là những chiến sĩ hăng hái, thích một đời sống vui vẻ phóng đãng hơn là một sự chết dại dột, vậy mà hôm đó ông cũng ngạc nhiên sao họ lãnh đạm làm thinh như vậy. Không thể ngồi lâu được nữa, ông dọa nhân dân sẽ phán xét họ. Thượng đế sẽ trị họ, rồi ông để cho người phụ tá ông, Osman Karamanlia Efendi tiếp tục thuyết phục họ.

Trong cuộc hội họp đó, người tỏ ra chống đối ông mufti mạnh nhất là Ali Hodja Moutevelitch. Dòng họ ông vào hàng cố cựu, được kính trọng nhất trong thị trấn. Họ không giàu lớn, nhưng chính trực, thẳng thắn. Thời nào họ cũng nổi tiếng là bướng bỉnh nhưng liêm khiết không ai dọa dẫm, nịnh bợ được. Trong hơn hai trăm năm, người lớn tuổi nhất trong họ luôn luôn được đề cử quản lí tài sản cơ quan từ thiện của Melmed-Pacha trong thị trấn, cả lữ quán bằng đá ở gần cầu nữa (…)

Ali Hodja còn trẻ, nóng tính, tươi cười, thuộc hạng đa huyết chất. Đúng là dòng dõi Moutevelitch, bất kì trong việc gì ông cũng có một ý kiến khác người, mà ông ương ngạnh, kiên nhẫn bênh vực tới cùng, không chịu nhường ai, cho nên thường xung đột với hàng giáo phẩm trong tỉnh và với thượng cấp. Ông được chức Hodja nhưng không lãnh một nhiệm vụ nào cả, mà chức đó cũng chẳng đem lại cho ông một lợi lộc nào hết. Để khỏi phải tùy thuộc ai, ông quản lí lấy cửa tiệm thân phụ để lại.

Như đa số các người Hồi ở Vichégrad, Ali Hodja chống lại chủ trương kháng cự bằng vũ lực. Không thể bảo ông là hèn nhát hay không ngoan đạo. Cũng như ông mufti hoặc bất kì một người kháng chiến nào, ông ghét bọn Áo theo Ki tô giáo sắp tới với tất cả những xáo trộn chúng sẽ gây ra. Nhưng thấy rằng vua Thổ đã thực sự bỏ xứ Bosnie cho bọn Boche[62], lại biết rõ đồng bào của ông, cho nên ông chống lại một cuộc nhân dân kháng chiến thiếu tổ chức, kết quả là sẽ thua mà tai họa sẽ còn lớn hơn nữa. Khi ý kiến đó đã neo chắc trong đầu ông rồi, ông nói toạc ra và mạnh mẽ bênh vực nó. Lần này cũng vậy ông đưa ra những câu hỏi quỉ quyệt, những nhận xét tế nhị khiến cho ông mufti lúng túng.

Khi Osman Karamanha Efendi ở lại để tiếp tục thuyết phục thị dân Vichégrad, Ali Hodja cũng chống lại ông ta nữa.

Các thân hào Vichégrad chiều tối đó ngồi khoanh chân trên cái kapia, thành một vòng tròn theo thứ tự lớn nhỏ Trong số đó có Osman Efendi, cao, gầy, xanh xao, gân nổi trên mặt, mắt long lanh như lên cơn sốt, trán và má đầy những vết sẹo. Ali Hodja nhỏ con mà có vẻ uy nghi, đứng trước mặt ông ta, nóng nảy, giọng lanh lảnh, hỏi dồn một hơi: Lực lượng nào đâu? Hiện đi về đâu? Có những phương tiện gì? Đi bằng cách nào? Mục tiêu là gì? Nếu thất bại thì ra sao? (…) Osman Efendi bực mình về những lời chất vấn đó lắm, cố nén giận, và chỉ trả lời được bằng những lời mơ hồ huênh hoang: Cần tới đâu thì đi tới đó bằng những phương tiện có thể được; điều cần thiết là không để cho kẻ thù vô chiếm mà không chiến đấu, và kẻ nào chất vấn nhiều quá là làm ngăn cản công việc, tiếp tay với quân thù (…)

Thế là cuộc thảo luận biến thành một cuộc gây lộn, Osman Efendi mắng Ali Hodja là thằng “Ki tô giáo nhơ nhuốc[63] phản quốc phải chặt đầu, như chặt đầu bọn Ki tô giáo trên cái kapia này; còn Ali Hodja thì vẫn tiếp tục chẻ sợi tóc làm tư, đòi đưa lí do và chứng cứ cho kì được, cơ hồ như không nghe thấy những lời dọa nạt chửi rủa kia. (…) Rốt cuộc chẳng giải quyết được gì cả và Osman Efendi giận run lên, lớn tiếng dọa dẫm, rồi hôm sau cùng với vài bộ hạ đi báo cáo với ông mufti.

Những tin tức trong tháng đó càng làm cho các bey và aga tin chắc rằng nên giữ gìn thị trấn cùng nhà cửa của họ hơn là phiêu lưu trong cuộc kháng chiến. Khoảng giữa tháng Tám, bọn Áo vô Sarajevo. Ít lâu sau, nghĩa quân thua một trận trên đổi Glasinats và cuộc kháng chiến chấm dứt luôn. Bọn tàn quân Thổ từ đồi Lieska, theo con đường hiểm trở đi ngang qua Okolichté, bắt đầu tới Vichégrad. Họ gồm nghĩa quân địa phương và lính chánh qui Thổ không tuân lệnh nhà Vua, tự ý liều chết kháng cự. Lính chánh qui chỉ xin bánh, nước thôi và hỏi đường đi Ouvats, còn bọn nghĩa quân vẫn hung hăng hiếu chiến không chịu thua. Đen sạm, quần áo rách rưới, đầy cát bụi, họ chua chát trả lời những người Thổ thiếu tinh thần chiến đấu ở Vichégrad, họ chuẩn bị đào hầm để bảo vệ con đường qua cầu sông Drina.

Một lần nữa, Ali Hodja lại ra mặt: ông không úp mở gì cả cứ giảng hoài rằng không thể bảo vệ được thị trấn này, khi “quân Boche dã tiến từ đầu này tới đầu kia xứ Bosnie” mà còn chống cự thì vô lí lắm. Chính nghĩa quân cũng biết vậy, nhưng không chịu nhận vậy, vì bọn người quần áo lành lặn, ăn uống no đủ kia làm cho họ bực mình, như khiêu khích họ nữa: đứng ngoài cuộc nổi loạn và chiến đấu bọn nhút nhát, khôn ngoan đó bảo vệ được nhà cửa, của cải.

Đúng lúc đó, Osman Efendi tới, như một người mất trí còn xanh xao gầy ốm hơn trước nữa, mà cũng hiếu chiến, cuồng nhiệt hơn. Ông ta thuộc hạng người không chịu nhận sự thất bại. Chỉ nói tới chuyện kháng chiến, kháng chiến ở bất kì nơi nào với bất kì giá nào, và luôn luôn hô hào phải chết vì tổ quốc. Thấy nhiệt tâm như có quỉ ám đó, mọi người lánh xa rồi rút lui, trừ Ali Hodja. Không có một chút vui ác ý nào, ông lạnh lùng và tàn nhẫn chứng minh cho Osman Efendi rằng cuộc khởi nghĩa đó đã thất bại như ông tiên đoán một tháng trước, cũng trên cái kapia này. Ông khuyên Osman cùng với quân đội rút về Plévié ngay đi, càng sớm càng tốt, đừng làm cho tình hình thêm nghiêm trọng nữa. Bây giờ ông bớt hung hăng rồi, cảm động và đau khổ, tỏ vẻ ân cần với Osman như với một người bệnh nhân. Vì tuy bề ngoài sôi nổi chứ trong thâm tâm ông rầu rĩ vế tai họa sắp tới lắm. Chỉ một tín đồ Hồi giáo thấy quân ngoại xâm nhất định sẽ tới mà Hồi giáo sẽ bị tiêu diệt, mới đau khổ, bực minh như ông được. Trong lời nói ông bất giác để lộ nỗi khổ tâm ngấm ngầm đó.

Osman Efendi chửi mắng ông, ông chỉ rầu rầu đáp: “Anh tưởng tôi vui vẻ đợi tụi Boche vô chiếm nước tôi sao? Như thể chúng tôi không biết cái gì sẽ xảy ra cho chúng tôi sao, mà rồi đây … Chúng tôi biết sẽ đau khổ ra sao, sẽ mất mát những gì, biết lắm chứ. Nếu anh trở lại đây chỉ để giảng cho chúng tôi điều đó thì thật là vô ích, mất công từ Plévié lại đây. Vì tôi biết rằng anh không hiểu được tình thế như tôi đã tiên đoán đâu. Nếu anh biết thì anh đã không làm những việc anh đã làm, thốt những lời anh mới thốt với tôi. Efendi anh ơi, tôi đau khổ lắm, anh không ngờ được đâu; tôi không tìm được giải pháp nào cả, nhưng tôi biết rằng giải pháp anh khuyên chúng tôi đó không cứu được gì đâu”.

Nhưng lời nào không hợp với nhiệt tâm chân thành của mình thì Osman Efendi không chịu nghe, và ông ta ghét ông Hodja này cũng như ghét tụi Boche. Luôn luôn như vậy, khi quân thù mạnh hơn đã tiến lại sát, mà mình sắp đại bại, thì trong bất kỳ nước nào cũng phát sinh cảnh anh em căm thù nhau, chia rẽ nhau. Osman Efendi không tìm được tiếng nào khác, luôn miệng chửi Ali Hodja là đồ phản quốc, và mỉa mai bảo đi làm lễ rửa tội theo Ki tô giáo đi, trước khi quân Boche tới.

Ali Hodja bình tĩnh đáp: -Tổ tiên tôi không hề làm lễ rửa tội, tôi cũng sẽ không làm lễ rửa tội. Efendi ạ, tôi, tôi không muốn để cho một tên Boche làm lễ rửa tội cho tôi, mà tôi cũng không muốn chiến đấu với một người ngu.

Các thân hào Thổ ở Vichégrad đều đồng ý với Ali Hodja, nhưng nghĩ không nên nói ra, nhất là nói toạc ra một cách tàn nhẫn, không rào trước đón sau gì cả. Họ sợ tụi Áo đương Ồ ạt kéo tới mà cũng sợ Osman cầm đầu một chi đội đương làm chủ thị trấn. Cho nên họ không ra khỏi nhà hoặc lánh về ở một trại ruộng tại ngoại thành, và khi nào phải đụng đầu với Osman và quân lính của ông ta thì họ lấm la lấm lét, nói năng hồ đồ và kiếm cớ nào tiện nhất, cách nào chắc chắn nhất để lẩn.

Osman hội họp suốt ngày trên bình nguyên nhỏ, trước phế tích của lữ quán. Một đám người quần áo sặc sỡ đi qua đi lại không ngớt: lính tráng của Osman, khách qua đường ngẫu nhiên tới đó, người trong thị trấn lại xin hoặc hỏi điều gì, cả những kẻ mà nghĩa quân gần như lôi kéo lại bắt nghe Osman thuyết phục. Và Osman luôn miệng, dù chi nói với một người mà cũng la lớn như nói với cả trăm người. Ông ta xanh xao hơn trước, mắt long lên, lòng trắng đã đối ra màu vàng, bọt trắng đóng ở hai bên mép. Một người dân trong thị trấn kể cho ông nghe truyền thuyết về Cheik[64] Tourkhania hồi xa đã chết nơi đó trong khi ngăn đạo quân tà giáo qua sông Drina, thi hài còn trong ngôi mộ ở bên kia sông, ngay phía trên cầu, nhưng ngày nào quân lính tà giáo đặt chân lên cầu thì nhất định sẽ đội mồ mà lên để đánh đuổi chúng. Ông ta hăng hái, run rẩy nắm ngay lấy huyền thoại đó, bảo với thiên hạ rằng sẽ được thần linh phù hộ: -Anh em nghe này, cầu này là một công trình từ thiện của một vị tể tướng. Số trời đã định rồi, quân đội tà giáo không sao qua cầu được. Không phải chỉ có riêng chúng ta bảo vệ cầu mà thôi đâu, còn vị “thánh” đó nữa mà gươm, súng không làm gì được ngài. Khi quân thù tới đây ngài sẽ đội mồ lên, đứng ở giữa cầu, dang tay ra, tụi Boche trông thấy sẽ táng khí, tay chân sẽ bủn rủn, thất kinh, chạy trốn cũng không được nữa. Các bạn Thổ, đừng tản mát đi đâu, mà cùng lên cầu với tôi.

Osman gào như vậy trước đám đông. Bận chiếc mintan[65], đen và đã sờn, ông ta đứng thẳng người, dang tay cho mọi người thấy vị thánh đó sẽ đứng ra sao; và coi ông không khác một cây thánh giá cao, đen, mảnh mai, chụp một cái mũ fez.

Truyền thuyết đó; người Thổ ở Vichégrad còn biết rõ hơn Osman nữa, vì từ hồi nhỏ đã được nghe kể, rồi lớn lên đã kể lại biết bao lần cho người khác nghe, nhưng họ không muốn xáo trộn đời sống với huyền thoại; và không mong gì người chết giúp họ khi mà không một người sống nào có thể giúp họ được. Ali Hodja không rời cửa tiệm, nghe ai kể lại những lời hô hào và những việc xảy ra trước lữ quán bằng đá, thì chỉ đưa tay ra khoát, vẻ mặt âu sầu, xót xa: -Tôi biết rằng thằng ngu đó không để cho người sống và người chết yên thân đâu. Xin Chúa phù hộ chúng ta.

Osman bất lực trước quân thù, trút hết cả nỗi thịnh nộ lên Ali Hodja. Ông ta dọa dẫm, la hét, thề rằng trước khi rời thị trấn sẽ đóng đinh tên Hodja bướng bỉnh đó ở trên cái kapia, như một con chồn, để nó quì đó đợi quân Boche tới.

Khi quân Áo xuất hiện trên đồi Lieska, người ta không tranh biện nhau nữa. Ai cũng thấy rằng không thể bảo vệ thị trấn được. Osman rút lui sau cùng, để lại trên bình nguyên trước lữ quán, hai khẩu dại bác bằng sắt mà ông ta đã kéo lại được tới đó. Nhưng trước khi rút lui, ông thực hiện lời dọa của ông, ra lệnh cho một tên lính hầu vốn làm thợ rèn, cao lớn như khổng lồ mà đầu nhỏ như đầu chim, bảo trói Ali Hodja lại, dùng đinh đóng vành tai bên phải vào một cái đà bằng gỗ sên của đồn canh hồi xa, và nêm chặt giữa hai bực đá trên cái kapia mà khỏi bị cháy rụi.

Trong cảnh nhốn nháo, xúc động ở chợ và chung quanh cầu, ai cũng nghe thấy lệnh đó vang lên, nhưng không ai nghĩ rằng sẽ thực hiện dúng như vậy (…) Có vẻ không thể tin được. Chỉ nên coi là một lời dọa mắng chửi thôi, Ali Hodja không tin là thực. Chính tên thợ rèn nhận được lệnh, khi đương chèn họng đại bác[66], cũng do dự, suy nghĩ (…) Nhưng rồi thi hành thực; Hai người nắm giữ ông Hodja, ông cũng không chống cự gì nhiều. Họ trói ké ông. Vẫn chưa ai tin rằng sự thực sẽ ghê gớm và điên rồ quá mức. Nhưng rồi sự việc tiến triển thêm lần lần tới mức đó. Người thợ rèn như bỗng xấu hổ rằng mình nhu nhược, do dự, không biết rút từ đâu ra chiếc búa mà anh ta mới dùng để chèn đinh vào họng súng đại bác. Nghĩ rằng tụi Boche đã tới sát rồi, chi nửa giờ nữa sẽ vô thị trấn, anh ta cương quyết làm cho xong việc. Mà ông Hodja cũng đau lòng vì kẻ thù sắp tới nên gan lì, thản nhiên với mọi sự, thản nhiên cả với hình phạt điên khùng, nhục nhã, oan uổng cho ông này.

Và như vậy chỉ trong một lát, xảy ra cái việc mà mấy phút trước còn có vẻ vô lý, không thể có được. Không ai nghĩ rằng việc đó là tốt, vậy mà mỗi người đều trợ lực một phần nào khiến cho vành tai bên phải của ông Hodja bị đóng đinh vào cây đà bằng gỗ sên trên cái kapia. Họ đều chịu ít nhiều trách nhiệm. Và khi mọi người giải tán vì quân Boche tiến vô thành, thì ông Hodja ở trong một tình thế kỳ cục, đau đớn, lố bịch, bắt buộc phải quì mà không dám nhúc nhích sợ đau và rách tai mất: tai ông lúc đó sao mà lớn và nặng như một trái núi. Ông la hét, nhưng có ai ở chung quanh để nghe và cứu ông khỏi tình thế thống khổ đó đâu, vì mọi người đã trốn vào trong nhà hoặc tản mát vào trong làng, sợ cả tụi Boche đương tiến tới; lẫn bọn nghĩa quân đương rút lui. Thị trấn như chết, và chiếc cầu vắng tanh. Không có ai để che chở mình, Ali Hodja co quắp lại, bất động, cô độc trên cái kapia, đầu dính vào cây đà rên rỉ, và cả trong cảnh đó mà ông vẫn tìm thêm những chứng cứ tỏ rằng Osman đã tính lầm.

Tụi Áo chậm chậm tiến lại. Bọn đi tiên phong khi mới tới bờ bên kia đã thấy hai khẩu đại bác ở trước lữ quán gần cầu, nên ngừng ngay lại, đợi đại bác của họ tới. Khoảng giữa tra, từ một bụi cây họ tung ra vài trái lựu đạn làm hư hại lữ quán vốn đã lung lay, và làm gãy những chấn song cửa sổ, đục đẽo rất đẹp trong đá mềm nguyên khối. Khi đã lật đổ hai đại bác Thổ bị hủy bỏ mà thấy không cồ một tiếng súng Thổ nào băn lại, tụi áo mới thôi không bắn nữa và thận trọng lại gần cầu. Bọn honved[67] Hung, súng lên cò sẵn, tiến chậm tới cái kapia.

Họ đứng sững lại trước ông Hodja đương co quắp vì sợ tiếng lựu đạn vụt qua đầu mà quên đau ở tai. Khi thấy quân thù chĩa súng vào mình ông rên rỉ, nghĩ rằng tiếng rên là một ngôn ngữ dân tộc nào cũng hiểu. Nhờ vậy, bọn lính Áo không nổ súng. Trong khi vài đứa tiếp tục tiến từng bước một trên cầu, những đứa khác dừng lại, coi xét ông kĩ lưỡng, không hiểu tình cảnh của ông. Rồi một y tá tới, người ta kiếm được kìm, nhẹ nhàng rút cây đinh ra – thứ đinh đóng móng ngựa – và giải thoát cho Ali Hodja. Ông ta đau khắp mình mẩy, mệt lả, ngã lăn xuống bực đá, vẫn tiếp tục rên rỉ. Y tá bôi một thứ nước bỏng rát lên tai ông. Qua hàng lệ, ông nhìn thấy, như trong một giấc mộng kỳ dị, cánh tay trái của y tá đeo một cái băng rộng bằng vải trắng có gắn một hình chữ thập bằng vải dỏ. Chỉ trong cơn sốt mê man người ta mới thấy những ác mộng ghê tởm, kinh khủng đó. Hình chữ thập đó trôi qua trôi lại, lấp lánh trong hàng lệ của ông. Sau đó người lính băng bó vết thương cho ông, rồi chụp cái akhmédia[68] lên phía trên miếng băng. Đầu băng bó xong, lưng đau như muốn gãy ông Hodja ráng đứng dậy, dựa vào bao lơn cầu một lát. Khó khăn lắm, ông mới trấn tĩnh lại được.

Trước mặt ông, phía bên kia cái kapia, ngay dưới mấy hàng chữ Thổ khắc trên đá, một người lính dán một tờ giấy trắng lớn: Mặc dầu còn đau, đầu óc còn lùng bùng, ông cũng tò mò nhìn tờ bố cáo trắng đấy. Đó là tờ tuyên ngôn của tướng Filipovitch, viết bằng tiếng Serbie và tiếng Thổ, kêu gọi dân chúng Bosnie và Herzégovine.

Mắt bên phải bị băng che kín, Ali Hodja đọc chậm chậm những hàng chữ Thổ và chỉ đọc được những câu viết bằng chữ lớn thôi:

“Hỡi dân chúng Bosnie và Herzégovine!

Quân đội Hoàng đế Áo – Hung, đã vượt biên giới của các người, không phải để dùng sức mạnh xâm chiếm đất đai các người đâu, mà để chấm dứt những vụ lộn xộn đã bao năm nay làm rối loạn chẳng riêng xứ Bosnie và xứ Herzégovine, mà cả những miền biên giới áo – Hung nữa.

Hoàng đế không thể để cho sự bạo động, rối loạn và cảnh cùng khổ kéo dài thêm nữa ở gần biên giới các quốc gia của ngài.

Ngài đã lưu ý các ngoại quốc tới tình cảnh của các người và một hội đồng các quốc gia dã nhất trí quyết định rằng Áo – Hung sẽ lập lại trật tự và sự thịnh vượng mà các người đã không được hưởng từ bao lâu nay.

Hoàng đế Thổ vốn rất quan tâm tới hạnh phúc của các người, cảm thấy cần phải giao việc bảo hộ các người cho bạn thân và hùng cường của ngài là Hoàng đế Áo – Hung.

Hoàng đế ban lệnh rằng tất cả các con dân xứ này sẽ được hưởng quyền hạn đồng đều như nhau theo luật pháp; đời sống, tín ngưỡng và của cải được bảo vệ.

Hỡi dân chúng Bosnie và Herzégovine! Các người cứ vững tâm tự đặt mình dưới sự bảo hộ của lá quốc kỳ vinh quang Áo – Hung. Các người cứ tiếp quân lính của ta như tiếp bạn, tuân lệnh nhà cầm quyền, trở về làm ăn như cũ và công lao khó nhọc của các người sẽ được che chở.”

Ông Hodja đọc từng câu từng câu một, giọng hổn hển, không đều, không hiểu hết mọi tiếng, nhưng tiếng nào cũng làm cho ông đau nhói, đau một cách đặc biệt, không phải như đau ở tai, ở đầu và ở ngang dây lưng. Mãi tới lúc đó, do những lời của Hoàng đế Áo, ông mới nhận định rõ ràng rằng thôi thế là tiêu, tiêu cho ông, cho gia đình ông, cho sản nghiệp của ông, tiêu một cách vĩnh viễn, kỳ cục: mắt còn nhìn, miệng còn nói, con người vẫn tiếp tục sống, nhưng đời sống thực sự không còn nữa. Một hoàng đế nước ngoài đã làm chủ cả, một tôn giáo ngoại lai đã xâm chiếm tất cả (…) Mà mấy ngàn thằng ngu như thằng Osman Karamanlia không thể cứu vớt được chút gì hoặc thay đổi được chút gì, trong tình cảnh này. “Chúng ta sẽ chết hết! Thôi thì chết hết ngay đi”. Còn la hét làm quái gì nữa khi mà đã tới lúc sụp đổ như vậy, sụp đổ tới nỗi mình chết không được, chỉ mục nát lần lần như một cây cột cắm xuống đất mà thân mình thuộc về mọi người, chỉ trừ về mình. Thật là một đại họa mà bọn Osman không thấy, không hiểu nổi, chính vì không hiểu mà làm cho tình thế khốn khổ hơn, tủi nhục hơn.

Vừa mãi suy tư như vậy, Ali Hodja vừa chậm chạp xuống cầu, không nhận thấy rằng người lính làm y tá kia đi theo mình. Tai ông không làm cho ông đau đớn bằng nỗi chua chát nó như một viên đạn bằng chì thình lình dâng lên làm nghẹn giữa ngực ông, sau khi ông đọc những lời của hoàng đế. Ông bước chầm chậm, có cảm tưởng rằng không bao giờ còn qua bờ sông bên kia nữa, rằng chiếc cầu làm vẻ vang thị trấn này, từ khi nó dựng lên đến nay, vẫn liên quan mật thiết với dòng họ ông, chiếc cầu ông sinh trưởng ở bên cạnh đó, đã thình lình bị phá hủy ở giữa, gần cái kapia kia, rằng tấm bố cáo bằng giấy trắng lớn của quân đội Áo kia đã cắt cái cầu ngay ở giữa như một tiếng nổ âm thầm, và tại đó có một vực thẳm, cột cầu vẫn còn đứng vững, cách biệt, ở bên phải và bên trái đường cắt đó, nhưng không qua cầu được nữa vì cầu không còn nối hai bên bờ với nhau nữa, kẻ nào đương ở bên nào thì phải vĩnh viễn ở bên đó.

Ali Hodja bước chậm chạp, mải nghĩ tới ảo ảnh làm ông nóng bừng lên đó, ông lảo đảo như người bị thương nặng, và nước mắt không ngớt trào ra. Ông rụt rè bước, như một hành khất đau ốm lần đầu tiên qua cầu để vô một thị trấn lạ.

Có tiếng động làm ông giật mình. Bọn lính đi bên cạnh ông. Trong đám đó ông lại thấy nét mặt to lớn hiền lành và nhạo báng của tên lính đeo một hồng thập tự ở cánh tay, và đã rút cây đinh ở tai cho ông. Vẫn mỉm cười như lúc nãy, hắn trỏ chỗ băng bó của ông và hỏi ông câu gì đó bằng một ngôn ngữ ông không hiểu. Ông ta tưởng hắn muốn giúp ông một việc gì nữa, lức thì co rụt đứng sửng lại, rầu rĩ:

- Tôi làm lấy được, làm lấy được. Không cần ai giúp tôi hết.

Và ông bước nhanh hơn, mạnh bạo hơn để về nhà.

Chú thích:

[61] Một giáo phẩm trong đạo Hồi.

[62] Trỏ người áo, và có ý nghĩa khinh miệt.

[63] Sự thực thì Ali Hodja theo Hồi giáo.

[64] Tộc trưởng hoặc tù trưởng.

[65] Áo dài của đàn ông dài.

[66] Vì không dùng nữa, và không muốn cho địch dùng.

[67] Tiếng Hung Gia Lợi, có nghĩa là vệ quốc quân

[68] Mũ fez bằng vải trắng của các Hodja.