Chương X
Hôm sau quân đội Áo mới chính thức, long trọng vô thị trấn. Từ xưa tới nay, chưa bao giờ thị trấn im lặng như vậy. Ngay các tiệm buôn cũng không mở cửa, và hôm đó là một ngày nắng, nóng nực cuối tháng Tám, mà nhà nào nhà nấy cửa, cửa sổ đều đóng im ỉm. Các đường hẻm vắng tanh vắng ngắt, cảnh vật như chết, sân và vườn không một tiếng động. Các gia đình Thổ thất vọng, bối rối, còn các gia đinh Ki tô giáo thì thận trọng, đa nghi. Nhưng mọi người đều sợ quân Boche vô thị trấn sợ bị phục kính, người Thổ sợ người Boche, còn người Serbie sợ cả Boche lẫn Thổ. Người Do-thái gặp ai cũng run lên, vì đặc biệt trong thời chiến tranh, bất kỳ giống người nào cũng mạnh hơn họ. Trong tai mọi người còn văng vẳng tiếng súng hôm trước. (…)
Chi đội Áo vô thị trấn hôm trước đã lùng kiếm được viên cảnh sát trưởng và các lính cảnh Bát. Sĩ quan chỉ huy chi đội đó giao thanh gươm của mình cho cảnh sát trưởng, ra lệnh phải tiếp tục làm nhiệm vụ và giữ trật tự trong thị trấn. Người ta báo trước rằng mười một giờ trưa hôm sau, viên đại tá Áo sẽ tới và tất cả thân hào, nghĩa là những vị đại diện cho ba tôn giáo, phải đi rước ông ta khi ông ta vô thị trấn. Chếnh choáng say và đành phải vâng lời, cảnh sát trường cho mời ngay Moula Ibrahim, ông Mouderis[69] Huseigana, giáo trưởng Nicolas và pháp sư Do thái David Lévi, cho mấy vị đó hay rằng “vì là đại diện tôn giáo và là thân hào trong thị trấn”, trưa hôm sau họ phải đi rước viên tư lệnh Áo ở trên cái kapia, thay mặt dân chào đón ông ta và đưa ông ta vô trung tâm thị trấn.
Hôm sau, bốn vị đại diện tôn giáo đó họp nhau rất sớm trước giờ hẹn ở ngôi chợ vắng teo, rồi chậm chậm tiến về phía kapia. Tại đây, Salko Heo phụ tá cho cảnh sát trưởng, với một lính cảnh sát, đã trải một tấm thảm Thổ màu sắc rực rỡ lên trên các bực và phía giữa cái ghế đá chỗ mà viên tư lệnh Áo sẽ ngồi. Họ ngồi đó một hồi lâu nghiêm trang và im lặng, rồi vẫn không thấy bóng dáng viên tư lệnh trên con đường trắng từ Okolichté đổ xuống, họ đưa mắt hỏi ý nhau, và cùng mặc nhiên đồng ý ngồi lên trên ghế đá, chỗ không phủ tế thảm. Giáo trưởng Nicolas lấy cái túi lớn bằng da đựng thuốc lá ra, mời mấy người kia.
Họ ngồi trên bệ như hồi xưa, khi họ còn trẻ và vô tư lại đây giết thì giờ như các thanh niên khác. Bây giờ họ đã lớn tuổi rồi. Giáo trưởng Nicolas và Moula Ibrahim đã già còn ông Mouderis và ông pháp sư Do Thái thì đã đứng tuổi. Ai cũng bận lễ phục và chỉ lo cho mình và gia đình mình (…)
Họ hút thuốc, ngoài miệng nói một chuyện mà trong đầu óc nghĩ đến chuyện khác, và thường ngó về phía Okolichté xem viên tư lệnh Áo sắp tới chưa; cái gì bây giờ cũng tùy thuộc viên đó hết: chính họ, giới của họ và cả thị trấn, gặp phúc hay gặp họa, được yên ổn hay sẽ bị tai nạn mới nào nữa là do viên tư lệnh cả.
Trong số bốn vị đó, giáo trưởng Nicolas là người bình tĩnh nhất, tự chủ nhất, ít nhất là bề ngoài như vậy. Đã ngoài bảy chục tuổi mà vẫn còn trẻ, mạnh. Ông chính là con giáo trưởng Mihailo, người bị người Thổ chặt đầu trên chiếc cầu này. Tuổi trẻ rất long đong, đã nhiều lần phải trốn qua Serbie để khỏi bị vài người Thổ căm hờn trả thù. Nhưng những năm dông tố đó đã qua, ông đã trở về cai quản giáo khu của cha, lập gia đình và tính tình đã dịu xuống, vừa tận tâm vừa trang nghiêm, luôn luôn công bằng với người Thổ, với dân chúng và với thượng cấp.
Trước ông, sau ông, bất kỳ trong giới nào, trong tôn giáo nào, cũng không có ai được mọi người tôn trọng như ông. Thị dân già trẻ; trai gái, theo tôn giáo nào cũng vậy đều gọi ông là “Ông nội.” Ông là hiện thân của giáo hội Serbie và tất cả những đức độ, lễ nghi mà dân chúng coi là Ki tô giáo.
Ông cao lớn, sức mạnh phi thường, học không rộng nhưng tấm lòng rất tốt, dầu óc sáng suốt, tâm hồn bình thản và can đảm. Nụ cười của ông là nụ cười không thể tả được, quí giá vô cùng của một người khoẻ mạnh, đại lượng, sống thỏa mãn với mình và yên ổn với người chung quanh. Thấy ông mỉm cười thì ai đương giận cũng bình tĩnh lại, đương chán nản cũng hăng hái lên. Mỗi khi ông đi qua chợ thì hai bên hàng phố, các thương gia bất kỳ theo tôn giáo nào cũng từ trong cửa tiệm cúi đầu chào ông. Đàn bà cúi đầu, ngừng lại, đứng nép một bên, đợi cho “Ông nội” đi qua. Trẻ con (cả những em bé Do-thái) cũng ngừng chơi không la nữa, và những đứa lớn nhất, vừa sợ sệt vừa nghiêm trang lại gần để được cảm thấy bàn tay to lớn, thô nhám của “Ông nội” đặt trên đầu trọc và trên mặt đỏ bừng vì chơi giỡn của chúng và nghe giọng nói mạnh mẽ vui vẻ của ông ban ơn lành như mưa móc: -Cầu Chúa cho con sống lâu.
Nhưng đời ông có một nỗi buồn: ông bà không có con. Đau khổ lắm đấy, nhưng không ai nghe thấy ông hoặc bà thốt một lời phàn nàn, hoặc để lộ một vẻ chua chát trong khóe mắt. Lúc nào ông bà cũng nuôi ít nhất là hai đứa cháu họ đưa từ nhà quê ra; cưới gả cho chúng rồi, lại nuôi những đứa khác.
Ngồi bên cạnh giáo trưởng Nicolas là ông Moula Ibrahim. Cao gầy, khô đét, râu cằm thưa, râu mép thòng xuống, ông này không trẻ gì hơn giáo trưởng, có đông con, được hưởng một gia tài lớn của cha, nhưng ăn bận rất lôi thôi, tính tình rất nhút nhát, mắt xanh lơ và trong như mắt con nít, nên ông giống một ẩn sĩ hoặc một người hành hương nghèo hơn là một Hodja trong một vọng tộc. Ông có tật nói lắp thảm hại, nhưng nổi tiếng khắp trong miền là tốt bụng, rộng rãi. Ai nghèo khổ đau ốm hoặc bị tai họa gì cũng tới ông. Từ những làng xa xôi nhất người ta lại nhờ ông khuyên bảo. Trước nhà ông luôn luôn có người ngồi chờ đợi. Có khi ông đương đi đường người ta – đàn ông và cả đàn bà – cũng chặn ông lại, hỏi ý kiến hoặc nhờ ông giúp dỡ. Thế là ông kiếm ngay chỗ mát hoặc một bệ đá nào đó, hơi xa đường một chút, ngồi xuống, chăm chú nghe người ta kể lể nỗi lòng, tỏ vẻ thương xót và sau cùng an ủi ít lời, tìm giùm cho một giải pháp tốt nhất, hoặc đút bàn tay mảnh khảnh vào trong túi sâu của chiếc áo cầu, lấy ra vài xu dặt vào tay người đó sau khi ngó chung quanh mà không thấy ai. Chỉ lo giúp đỡ người khác mà không nghĩ tới mình, ông đã sống khỏe mạnh, sung sướng, phong lưu cả thế kỷ đó – ít nhất đó là cảm tưởng của ông.
Husein Efendi, vị Mouderis` của Vichéglad, là một người nhỏ con, bụng bự mặc dầu còn trẻ, ăn mặc bảnh bao. Bộ râu ngắn, đen được cắt rất kỹ thành một hình bầu dục đều đặn, bao khuôn mặt trắng trẻo hồng hào với cặp mắt tròn, đen của ông. Ông là một học giả, biết nhiều, nổi tiếng thông thái, nhưng ông tự cho ông là còn thông thái hơn người ta tưởng kia. Thích diễn thuyết và thấy người ta nghe mình nói, ông khoái lắm. Tin rằng mình có tài ăn nói, cho nên ông nói rất nhiều, lời kiểu cách, thêm những cử động thiếu tự nhiên: cánh tay hơi đưa lên, hai bàn tay trắng trẻo, mềm mại, đưa lên cao ngang nhau, móng tay hồng hồng. Ông vừa nói mà như là vừa tự ngắm mình trong gương. Tủ sách của ông quan trọng nhất thị trấn, đầy những sách mà lâu lắm ông mới lấy ra đọc chút chút thôi, còn thì để dành lúc khác. Nội việc ông có nhiều sách giá trị như vậy, cũng đủ cho ông có uy tín trong đám người không hề biết cuốn sách là cái gì. Người ta biết rằng ông ghi chép những biến cố quan trọng nhất của thị trấn, và ông nổi tiếng là một con người đặc biệt, học thức uyên thâm, nắm trong tay danh dự của thị trấn và của từng người nữa. Sự thực, những ký sự của ông chẳng dài dòng mà cũng chẳng nguy hại gì cho ai cả. Ông viết từ năm sáu năm trước mà tới nay vỏn vẹn được bốn trang vở nhỏ, vì ông cho rằng đa số các biến cố trong thị trấn không quan trọng, không bổ ích, không đáng chép lại.
Vị đại diện thứ tư của tôn giáo là pháp sư Do-thái David Lévi, cháu nội của pháp sư danh tiếng Hadji Liatché.
Còn trẻ, yếu ớt, xanh xao mắt nâu như nhung, vẻ rầu rầu. Ông nhút nhát, ít nói không thể tưởng tượng được. Mới lên chức pháp sư thì cưới vợ. Để có vẻ quan trọng hơn, lực lưỡng hơn, ông bận một chiếc áo rộng, đẹp đẽ bằng nỉ dày; nhưng dưới bộ áo đó, người ta đoán được rằng ông yêu ớt, sợ lạnh. Ông đau khổ vô cùng khi phải ra trước đám đông, phải thảo luận, quyết đinh, vì lúc nào ông cũng tự cảm thấy mình nhỏ xíu, yếu ớt, thấp ké].
Lúc này đây cả bốn vị đó ngồi dưới nắng, toát mồ hôi trong bộ lễ phục, xúc động, lo lắng mà không muốn để lộ ra. Giáo trường Nicolas đã quen tự chủ được từ lâu, nói đùa một câu để nén những ưu tư của mình và của người khác: -Nào chúng mình đất thêm một điếu thuốc nữa nào, còn dư thì giờ mà! Thằng cha đó đâu phải là một con chim mà thình lình đáp xuống cầu như vậy.
Họ đều quay đầu nhùi về phía Okolichté rồi đốt thuốc hút.
Câu chuyện của họ chậm rãi, thận trọng chảy đều đều và luôn luôn quay chung quanh vấn đề tiếp đón viên tư lệnh ra sao. Mọi người đồng ý để giáo trưởng Nicolas đọc lời chúc mừng. Giáo trưởng lặng lẽ, chăm chú nhìn ba người kia một hồi lâu, mát lim dim, lông mày nhíu lại, giao nhau thành thử mắt ông như một sợi chỉ màu nâu chiếu ra những tia vàng, có vẻ như mím cười.
Ông pháp sư trẻ sợ muốn chết, không đủ sức phà khói ra xa nữa, để nó quyện trong bộ râu thành những làn cuồn cuộn.
Ông Mouderis cũng không vững tâm gì hơn. Sáng hôm đó, tài hùng biện cùng vẻ học giả trang nghiêm của ông đã biến đâu mất. Ông không nhận thấy mình nhớn nhác, sợ sệt tới bực nào, vì ông quá tự ái, không tin rằng mình có thể như vậy được (…)
Moula Ibrahim tái mét hơn ngày thường, mặc dầu bình bình tĩnh. Thỉnh thoảng ông và giáo trưởng Nicolas nhìn lẫn nhau như để hiểu lẫn nhau (…) Giáo trưởng biết rằng cái việc đó khổ tâm cho Moula Ibrahim lắm, mà Moula Ibrahim cũng biết rằng giáo trưởng phải đọc lời chúc mừng cũng ngượng lắm. Cũng như bao nhiêu lần trước trong đời họ, họ nhìn nhau, cả hai đều lãnh trách nhiệm về tất cả dân chúng thị trấn, một người lãnh trách nhiệm về những tín đồ làm dấu thánh giá, người kia về những tín đồ quì gối sụp lạy[70].
Đúng lúc đó có tiếng ngựa phi và một người lính gác cỡi một con ngựa xấu xí phóng nước kiệu tới: -Viên tư lệnh tới, cỡi ngựa trắng kìa!
Cảnh sát trưởng tức thì xuất hiện, vẫn bình tĩnh, vui vẻ, lặng lẽ như trước.
Một đám bụi mù từ Okolichté nổi lên, lan xuống.
Những người đi tiếp rước viên tư lệnh, vì đã sinh trưởng trong thời suy vi của Thổ ở thế ki XIX, cho nên chưa được thấy một đạo quân thực sự mạnh mẽ, tổ chức đàng hoàng của một cường quốc. Cho tới bây giờ, họ mới chỉ thấy những đơn vị chiến đấu không đủ số quân của vua Thế, thiếu khí giới, ăn bận tồi tàn, lương trả không đều hoặc tệ hơn nữa, những bachi-bouzouk[71] Bosme, miễn cưỡng phải đăng lính, vô kỷ luật, không hăng hái chiến đấu. Lần này họ mới được thấy một lực lượng chiến thắng, rực rỡ và tự tin của một đế quốc. Đạo quân đó làm chóa mắt họ, nghẹn họng họ. Chỉ nhìn qua yên cương của ngựa, nút áo của lính, họ cũng thấy phía sau đoàn khinh bị binh và lạp binh bận quân phục để biểu diễn đó, là cả một xứ sâu rộng, hùng cường, có trật tự và thịnh vượng. Ấn tượng đó thực mạnh mẽ mà sự ngạc nhiên của họ thật lớn lao.
Đi đầu là hai lính kèn cỡi ngựa đốm mập mạp. Rồi tới một chi đội khinh kị cưỡi ngựa ô. Ngựa lông rất mướt, đi bước một, từ tốn như các thiếu nữ. Khinh kị binh đội mũ đỏ không vành, ngực đính những nẹp ngang vàng; người nào cũng trẻ, nước da hồng hào rám nắng, râu mép uốn cong lên, sung sức, tươi tỉnh như mới ở trong trại ra. Phía sau là một đoàn sáu sĩ quan cỡi ngựa, đi đầu là viên đại tá tư lệnh. Mọi người đều chăm chú nhìn ông ta. Con ngựa đốm của ông lớn hơn các con ngựa khác, cổ dài lạ lùng và cong cong xuống. Cách sau một quãng là một đoàn bộ binh và lạp binh quân phục xanh lá cây, dội mũ lưỡi trai bằng da có một chùm lông trên đỉnh, ngực deo hai cái đai trắng chéo nhau. Họ đi sau cùng và có vẻ một khu rừng đương di động, lấp cả chân trời.
Lính kèn và khinh kị binh diễn qua trước mặt các mục sư và cảnh sát trưởng. Bốn vị thân hào tái mét, xúc động đứng trên cái kapia ở giữa cầu, hướng về các sĩ quan Áo đương tiến tới. Một trong số mấy sĩ quan trẻ thúc ngựa tiến lại gần viên đại tá nói một câu gì đó. Các người cỡi ngựa bèn chậm bước lại. Khi chỉ còn cách các nhà “đại diện tôn giáo” vài bước, viên đại tá bỗng ngừng lại, xuống ngựa, và các sĩ quan khác cũng làm theo ông, như đã ra dấu. Bọn lính bèn chạy lại nắm lấy cương ngựa, dắt ngựa lùi lại vài bước. Khi đặt chân xuống đất rồi, viên đại tá có vẻ như thay đổi hình dạng đi. Ông nhỏ con, không oai vệ mà mệt nhọc, khó chiu, dữ tợn. Người ta có cảm tưởng rằng ông ta đã phải một mình chiến dấu thay cho mọi người. Bây giờ thì người ta thấy chân tướng của ông: ăn bận giản dị, không chải chuốt, có vẻ lôi thôi nữa, khác hắn các sĩ quan của ông nước da trắng trẻo, quân phục chỉnh tề. Đúng là một người hy sinh hết mình đến cái mức tiều tụy hốc hác, mặt rám nắng, râu ria xồm xoàm, cặp mắt đục và ưu tư, nón các-két cao đội hơi lệch, quân phục nhàu nát, lụng thụng vì thân thể gầy ốm, chân đi thứ bốt thấp của kỵ binh, ống mềm,và không đánh bóng. Ông dang chân, vung cây roi da, tiến lại. Một sĩ quan chỉ những người đứng thành hàng trước mặt ông, cho biết họ lại để tiếp đón ông. Ông đưa cặp mắt đen, sắc, bực tức ngó từng người một, cặp mặt của một người lúc nào cũng phải đảm đương những trách nhiệm nặng nề và phải đề phòng những nguy cơ lớn lao. Ai cũng thấy ngay rằng ông không bao giờ biết nhìn thiên hạ bằng một cách khác.
Đúng lúc đó, giáo trưởng Nicolas cất tiếng, giọng bình tĩnh, trầm. Viên đại tá ngửng mặt lên chăm chú nhìn con người uy nghi trong bộ áo thầy tu đen đó. Có thể rằng ông ta chẳng hiểu gì cả hoặc làm bộ không nghe gì cả, nhưng không thể không để ý đến nét mặt của giáo trưởng. Giáo trường Nicolas nói năng trôi chảy, tự nhiên, quay mặt về phía sĩ quan trẻ làm thông ngôn, chứ không nói với viên đại tá. Nhân danh các mục sư các tôn giáo có mặt ở đây, ông quả quyết rằng các mục sư đó cũng như toàn thể dân chúng sẽ phục tòng uy quyền mới và sẽ gắng hết sức giữ trật tự, xin quân đội che chở họ và gia đình họ để họ có thể sống yên ổn và làm ăn lương thiện.
Ông nói vắn tắt ít lời rồi thình lình ngìmg lại. Viên đại tá nóng tính chưa tỏ vẻ bực mình, những cũng không đợi viên sĩ quan thông ngôn xong, vung chiếc roi da lên, ngắt lời viên đó bằng một giọng xẵng, không đều: -Được rồi được rồi! Những kẻ nào không làm bậy sẽ được che chở. Nhưng phải giữ trật tự và yên tĩnh ở khắp nơi. Không thể khác được, dù họ muốn khác cũng không được
Rồi ông lắc đầu, tiếp tục đi, chẳng thèm chào, cũng chẳng ngó ai cả. Các mục sư đứng né ra. Ông ta với đoàn sĩ quan và mã phu đi ngang qua mặt họ. Các “đại diện tôn giáo” đó đứng trơ trên cái kapia, chẳng ai để ý tới họ nữa. Họ đều thất vọng; cả đêm hôm trước họ thao thức, và ngay buổi sáng hôm đó nữa, họ còn tự hỏi cả trăm lần khi ho lại cái kapia này để tiếp đón viên tư lệnh Áo, sự việc sẽ xảy ra sao. Tùy bản tính, trí thông minh của từng người, họ đã tưởng tượng cả ngàn cách, và ai cũng sẵn sàng nhận trước cái tình cảnh tệ nhất. Có vài vị đã thấy mình bị lôi đi hoặc bị đày ở cái nước Đức xa xôi kia không bao giờ được thấy lại nhà cửa, thị trấn nữa. Có vị nhớ lại những điều người ta kể về tên đao phủ Hairoudin đã chặt đầu bao nhiêu kẻ trên cái kapia này. Họ đã tưởng tượng đủ cách, trừ cách thật sự xảy ra với lão sĩ quan nhỏ con đó gắt gao, quả quyết, quạu quọ, coi chiến tranh là lẽ sống, chỉ nghĩ tới mình, chẳng kể gì tới ai cả, coi thiên hạ và các xứ ở chung quanh chỉ như một đồ vật hoặc một phương tiện chiến đấu, cư xử như thể chiến đấu cho chính mình và nhân danh mình thôi.
Họ đứng đó, kẻ nọ ngó người kia, hoang mang, trong khóe mắt như hỏi thầm nhau: “Bọn mình còn sống ư? Cái nguy nhất đã thực qua rồi ư? Hay còn cái gì khác chờ đợi chúng minh nữa? Làm gì bây giờ?”
Cảnh sát trưởng và giáo trưởng bình tĩnh lại trước hết, bảo như vậy nhiệm vụ “đại diện tôn giáo” đã làm trọn, bây giờ ai vế nhà nấy và thuyết phục dân chúng đừng sợ, đừng trốn, mà phải thận trọng trong hành vi. Những vị kia mặt mày nhợt nhạt, đầu óc trống rỗng, chấp nhận đề nghi đó – cũng như chấp nhận bất kỳ đề nghị gì khác – vì họ hoang mang không thể có một sáng kiến gì được.
Cảnh sát trưởng luôn luôn bình tĩnh, đi làm phận sự. Người lính gác cuốn tấm thảm sặc sỡ không được viên tư lệnh bước chân lên, và bên cạnh chú ta là Salko Heo, thản nhiên, lạnh lùng như thần Vận mạng. Các vị “đại diện tôn giáo chia tay nhau, mỗi người một cách, đi về một hướng. Ông pháp sư đi lon ton, muốn về nhà thật mau, để hưởng cái không khí an ủi, đầm ấm bên cạnh vợ và mẹ. Ông bề trên chủng viện mải trầm tư, bước chậm hơn một chút. Mọi sự đã qua rồi, không ngờ lại yên ổn, dễ dàng như vậy, ông cho rằng không có gì phải sợ nữa, và ông tin rằng từ trước tới nay ông chưa hề sợ ai cả. Ông tự hỏi biến cố này đáng coi là quan trọng ra sao, nên cho nó địa vị nào trong tập ký sự của ông: hai chục hàng có thể là vừa, mười lăm hàng cũng nên, mà cũng có thể ít hơn nữa. Càng về gần tới nhà, ông càng rút số hàng xuống. Rút đi được hàng nào ông lại có cảm tưởng rằng cái gì ở chung quanh ông cũng bớt quan trọng đi, còn cái giá trị của chính ông lại tăng lên trong con mắt ông.
Moula Ibrahim và giáo trưởng cùng về một đường với nhau tới chân đồi Meidan. Bộ điệu và thái độ của viên đại tá Áo làm cho họ ngạc nhiên, chán nản, và họ không nói gì với nhau cả. Cả hai đều nóng lòng về nhà thấy lại người thân. Tới chỗ chia tay mỗi người một ngả, họ ngừng lại lặng thinh ngó nhau một lát. Moula Ibrahim mở lớn mắt, mấp máy môi, như mấy lần muốn nói mà không nói được. Giáo trưởng Nicolas, mắt lại cười cười, chiếu ra những tia vàng, đưa ra ý kiến riêng mà cũng là ý kiến của Moula Ibrahim: -Làm đổ bao nhiêu máu, cái đạo quân đó, bác Moula Ibrahim nhỉ!
Moula Ibrahim đưa tay lên, lắp bắp: -Bbác nnói đúng, bbiết bbao máu!
Rồi ông cúi đầu, nhoẻn miệng chào bạn.
Giáo trưởng nặng nhọc lết chân về ngôi nhà ở trước mặt giáo đường. Bà vợ ra đón mà chẳng hỏi gì chồng cả. Ông vội vàng cởi giày, cởi áo, gỡ cái mũ nhọn cắm trên mớ tóc hung hung hoa râm cửa ông, mồ hôi chảy từng giọt xuống. Ông ngồi trên chiếc đi-văng nhỏ, thấp. Trên thành gỗ đã đặt sẵn một ly nước và một cục đường nhỏ. Giải khát xong, ông đốt một điếu xì gà, và thấy mệt nhọc ông nhắm mắt lại, nhưng bóng dáng viên đại tá quạu quọ chói lọi như tia chớp; làm lóa tất cả, chiếm trọn thị trường[72], thành thử ông chỉ thấy mỗi hình ảnh của hắn thôi, mà thấy không rõ. Giáo trưởng thở dài, phì khói ra xa, ôn tồn tự nhủ: -A, thằng tướng gì kỳ cục! … A, đồ chó đẻ!
Từ thị trấn tiếng trống và kèn của đội lạp binh văng vẳng đưa lại theo một khúc điệu lạ tai, mới mẻ.