Chương XI
Vậy cuộc biến động lớn lao xảy ra trong đời sống thị trấn bên chiếc cầu không làm cho ai đau khổ cả trừ ông Ali Hodja. Sau vài ngày, cuộc sống trở lại thường, đại thể bề ngoài không có gì thay đổi. Chính Ali Hodja cũng bình tĩnh lại mở lại, cửa tiệm ở sát cầu như mọi thương gia khác; chỉ khác là từ đó ông quấn khăn hơi lệch qua bên phải để che cái sẹo ở tai. Còn cái “viên đạn chì” như cắm vào ngực ông khi ông nhìn hồng thập tự đeo trên cánh tay người lính Áo và đọc qua hàng lệ lời “bố cáo của hoàng đế” thì thực ra chưa biến mất hắn, nhưng chỉ còn bằng một hạt chuỗi thôi, có thể sống bình thường, không sao cả. Với lại, chẳng phải một mình ông mang cái “viên đạn” đó trong tim.
Dưới cái ách của Áo, bắt đầu một giai đoạn mới mà mọi người trong thâm tâm không thể không mong rằng chỉ là tạm thời. Có biết bao việc xảy ra trên cầu trong mấy năm đầu bị chiếm đóng đó? Những quân xa màu vàng ầm ầm qua cầu thành từng đoàn dài, chở thực phẩm, quần áo, đồ đạc, dụng cụ và quân nhu mà từ trước chưa ai thấy.
Mới đầu chỉ thấy toàn là quân nhân như nước phun từ dưới đất lên, trong xó xỉnh, bụi rậm nào cũng thấy lính xuất hiện. Chung quanh chợ đầy nhóc những lính, chỗ nào trong thị trấn cũng có lính. Lát lát lại nghe thấy tiếng la hét của một phụ nữ kinh hoảng, thình lình đụng đầu một chú lính ở trong sân hoặc trong vườn mận sau nhà. Rám nắng vì hai tháng hành binh và chiến đấu thoát chết, họ mừng quá, thèm khát được nghỉ ngơi chơi bời cho thỏa thích; họ bận quân phục màu lam đậm, đi dạo khắp thị trấn và miền lân cận. Trên cầu, giờ nào cũng có họ. Họ ngồi hát bằng đủ thứ ngôn ngữ, đùa cợt, mua trái cây, đựng trong nhưng mũ cát két màu lam có lưỡi trai bằng da cắm một cây cờ bằng tôn màu vàng sơn mấy chữ đấu của tên Hoàng đế François Joseph.
Nhưng đầu thu, lính tráng bắt đầu rút lần lần, mỗi ngày một ít đi, mà không ai biết. Chỉ còn lại chi đội hiến binh. Tụi này cắm trại, có vẻ đóng ở đây vĩnh viễn. Đồng thời các công chức bắt đầu tới, lớn có, nhỏ có, người nào cũng dắt theo vợ con và đầy tớ, sau đó, tới các thợ thủ công, các kỹ thuật gia làm những công việc và những nghề thị trấn từ thời nào tới giờ chưa hề biết. Có những người Tiệp Khắp, Ba Lan. Croatie, Hung Gia Lợi, Đức
Mới đầu có vẻ như họ ngẫu nhiên tới, do một ngọn gió nào đưa họ lại đây, sống tạm thời với chúng ta, như chúng ta, để kéo dài thêm sự chiếm đóng trong một thời gian sau khi quân đội rút đi. Nhưng ngày qua tháng lại, số ngoại nhân tăng thêm lên. Điều làm cho dân trong thị trấn ngạc nhiên, hoảng hốt, nghi ngờ nhất, là những kế hoạch vĩ đại, không sao hiểu được của họ, sức hoạt động không biết mệt và sự bền chí thực hiện cho xong công việc của họ. Bọn ngoại nhân đó không lúc nào ở không và không cho phép ai được ở không. Cơ hồ bằng một màng lưới luật pháp, điều lệ mệnh lệnh vô hình, nhưng càng ngày càng thắt chặt, họ quyết tâm ôm nắm lấy hết đời sống, người và vật ở đây thay đổi hết, xáo trộn hết, từ bề ngoài của thị trấn tới những thói quen, phong tục của dân từ hồi mới sanh đến lúc xuống huyệt. Những việc đó họ cứ bình tĩnh làm, không nói nhiều, không tàn bạo, không gây hấn, thành thử không có lý do gì để kháng cự lại họ. Nếu ngẫu nhiên họ gặp phải sự không hiểu biết hoặc sự chống đối của dân chúng thì họ ngừng lại liền, thảo luận với nhau ở một chỗ nào đó không cho ai thấy, rồi chỉ sửa đổi cái hướng hoặc phương pháp làm việc mà vẫn tiếp tục thực hiện cho xong dự định của họ. Tất cả công việc của họ đều có vẻ vô hại, vô lý. Họ đo đạc một khu ruộng bỏ hoang, đánh dấu cây trong rừng, các cầu tiêu, các ống cống, xem xét răng ngựa và bò cái, kiểm soát các đồ đo lường, điều tra xem dân chúng bị những bệnh gì, có bao nhiêu loại và bao nhiêu cây ăn trái, có những giống cừu và gà vịt nào. (Có vẻ nh họ làm trò đùa vậy; những hoạt động đó dân chúng không hiểu được, cho là lăng nhăng vô ích). Rồi bỗng dưng, những việc họ siêng năng, chăm chú thực hiện đó biến đâu mất, chẳng lưu lại một dấu vết gì cả. Nhưng vài tháng sau, nhiều khi là một năm sau, khi mọi người đã quên bẵng đi rồi, người ta mới thấy hiện rõ ý nghĩa của những biện pháp bề ngoài có vẻ vô lý đó. Họ mời các ông quận trưởng lại thị sảnh, cho biết những sắc lệnh mới về sự đốn cây trong rừng, sự ngừa các bệnh dịch, buôn bán bánh trái, hoặc giấy phép đưa gia súc từ miền này qua miền khác. Và như vậy, mỗi ngày lại thêm một qui chế mới, mà mỗi người lại thấy tự do cá nhân của mình bị thu hẹp lại hoặc bổn phận của mình tăng lên một chút, nhưng đời sống của thị trấn, làng xóm, của mọi người dân mở rộng ra.
Tuy nhiên trong các gia đình chẳng những Thổ mà cả Serbie, không có gì thay đổi cả. Người ta sống, làm việc tiêu khiển y như hồi trước: vẫn nhồi bột trong thùng để làm bánh, rang cà phê trong lò sưởi, nấu quần áo trong thùng gỗ, giặt bằng nước xút (soude) nó ăn da ngón tay các phụ nữ, dệt bằng khung cửi, thêu bằng khung trống. Những tục cổ về cưới hỏi, lễ Tết vẫn được duy trì hoàn toàn; còn những tục lệ ngoại nhân mới đem vô thì người ta chỉ thì thầm với nhau, cho là kỳ cục, lạ hoắc.
Trái lại, bề ngoài của thị trấn thay đổi trông thấy và rất mau. Và chính những kẻ ở trong nhà thì vẫn giữ đúng tục cổ, mà cũng thích nghi khá dễ dàng với những thay đổi trong thị trấn, chi tỏ vẻ ngạc nhiên ít nhiều, càu nhàu ít lâu rồi cũng chấp nhận. Dĩ nhiên, trong những hoàn cảnh như vậy, ở bất kỳ nơi nào cũng thế, lối sống mới có nghĩa là nửa cũ nửa mới. Những quan niệm giá trị cũ và mới chống đối nhau, hòa hợp với nhau hoặc cộng tồn với nhau như để chờ xem bên nào sẽ còn lại, bên nào sẽ bị đào thải. Người ta dùng cả tiền mới lẫn tiền cũ, những quả cân và thước mới lẫn cũ, lịch mới lẫn lịch cũ. Theo luật tự nhiên, người ta chống lại mọi sự canh tân, nhưng chống không tới cùng vì đa số đều cho rằng đời sống bao giờ cũng quan trọng khẩn thiết hơn cái hình thức bề ngoài của nó. Chỉ một số người đặc biệt mới thực sự đau khổ về cái bi kịch sâu sắc giữa cũ và mới.Những người đó cho rằng lối sống liên quan mật thiết với đời sống, không thể tách biệt hai cái đó ra được.
Trong hạng người đó, có ông Chemsiberg Brankovitch ở Tsrntcha, một bey vào hàng phong lưu nhất, có danh vọng nhất trong thị trấn. Ông có sáu người con trai mà bốn người đã thành gia thất. Nhà cửa của ông và các con ông qui tụ thành cả một xóm chung quanh là ruộng, vườn mận và rừng nhỏ. Ông ít nói, nghiêm khắc, làm chủ cả cộng đồng đó, ai cũng tuân lệnh ông răm rắp. Cao lớn, lưng khòm vì già, chít một cái khăn trắng lớn thêu kim tuyến, chỉ thứ Sáu ông mới ra thị trấn để cầu nguyện ở giáo đường Hồi giáo. Từ ngày đầu bị chiếm đóng, ông không hề ngừng lại một nơi nào trong thị trấn, không nói với ai, cũng không ngó chung quanh. Trong nhà ông và các con ông, không ai dám bận một kiểu áo mới, đi một kiểu giày mới, dùng một dụng cụ mới hoặc nói một tiếng mới. Con trai ông không ai làm một hoạt động gì có liên quan với chính quyền mới, cháu ông không một đứa nào đi học trường nhà nước. Cả gia đình ông phải chịu tình trạng đó. Các con trai ông bất bình vì tính ương ngạnh của ông, nhưng không ai dám nói một tiếng hoặc để lộ một khóe mắt bất đồng tình. Những người Thổ trong khu thương mại làm việc chung đụng với ngoại nhân, khi gặp ông đi ngang qua chợ thì kính cẩn làm thinh cúi chào ông, vừa sợ, vừa ngưỡng mộ mà lại vừa bứt rứt trong lương tâm. Những người Thổ già nhất, có đức nhất trong thị trấn thường tới Tsrntcha, như đi hành lương, để ngồi đàm đạo với ông. Nơi đó là chỗ họp mặt của những người quyết tâm chống đối tới cùng, không chịu khuất phục sự thực với bất kỳ giá nào. Thực ra trong những buổi họp mặt hằng giờ đó, người ta trao đổi ý kiến rất ít và chẳng đưa ra một kết luận cụ thể nào cả.
Chemsiberg, mùa hè cũng như mùa đông, lúc nào cũng bận áo ấm, khuy cài kín, ngồi hút thuốc trên một tấm thảm nhỏ màu đỏ, chung quanh là khách khứa. Họ thường theo luận rất nghiêm trang về một biện pháp mới: xấu xa, không sao hiểu nổi của nhà cầm quyền Áo, hoặc về những người Thổ càng ngày càng theo mới. Trước con người chua chát và nghiêm đó, ai cũng thấy cần tỏ nỗi xót xa, hoang mang và những lo ngại của mình. Và buổi đàm đạo nào cũng kết thúc đại khái như sau: “Cái đó đưa tụi mình tới đâu, nó sẽ ngừng ở đâu? Tụi ngoại nhân làm việc hùng hục, không biết nghỉ ngơi, không biết gì là điều độ, giới hạn đó, là bọn nào, và chúng muốn gì? Chúng tới đây có mục đích gì? Tại sao mà chúng có nhiều nhu cầu như vậy, nhu cậu này như lôi kéo nhu cầu kia, và chúng sẽ làm gì với tất cả những cái đó? Chúng lo ngại cái gì mà như mắc dịch vậy, cứ phải làm hoài những công việc mới, không biết bao giờ mới hết đó?”
Chemsiberg thường chỉ làm thinh ngó khách khứa thôi (…) Miệng ông rộng, mím chặt lại, không thấy môi nữa, chỉ mấp máy nhẹ nhẹ như ông cân nhắc hoài mỗi một tiếng mà không bao giờ thốt ra được. Vậy mà ở nhà ông ra về, thiên hạ thấy nhẹ lòng, tuy không được an ủi, nhưng cảm động và thêm hăng hái nhờ tấm gương không nhượng bộ, cương quyết một cách tuyệt vọng của ông.
Và thứ Sáu sau khi ông lại khu thương mại thì lại có một sự thay đổi mới chờ đợi ông rồi: người và nhà cửa đã có một cái gì không như thứ Sáu tuần trước nữa. Để khỏi phải thấy cái đó, ông cúi gầm mặt, nhìn xuống đất, nhưng trong lớp bùn đã khô trên mặt đường, ông nhận thấy ở bên cạnh những vết móng ngựa Thổ tròn và đầy đặn, số móng ngựa Đức có đinh sắt nhọn ở hai đầu mỗi ngày mỗi tăng. Vậy ra, cả trong đám bùn, cũng như trên các nét mặt và mọi vật chung quanh, ông vẫn thấy thời gian tàn nhẫn, không ai níu lại được, lần lần sa thải những cái của thời trước.
Biết rằng từ nay không thể nhìn bất kỳ một nơi nào nữa được, ông thôi hẳn, không ra thị trấn nữa, trốn trong xóm Tsrntcha, lắm lì, nghiêm khắc, tàn nhẫn chỉ huy mọi người, nghiêm khắc nhất là với bản thân. Những người Thổ già nhất, có danh vọng nhất vẫn lại thăm ông như thăm một thánh tích còn sống. (Trong số đó, đặc biệt phải kể ông Ali Hodja Moutelevitch). Trong năm chiếm đóng thứ ba, ông không đau ốm gì cả mà mất. Ông quị xuống mà vẫn chưa thất được lời chua chát khiến ông mấp máy môi muốn nói từ bao lâu nay; và cũng không đặt chân lên khu thương mại đương chuyển qua một hướng mới.
Quả thực là thị trấn biến đổi một cách đột ngột, vì ngoại nhân đốn cây cũ, trồng cây mới, sửa đường cũ, cất đường mới, đào kinh, xây dựng các kiến trúc công cộng. Ngay từ mấy năm đầu, họ phá những cửa tiệm cất không ngay hàng mà nói cho ngay, từ trước tới nay có ai thấy vậy là bất tiện đâu. Để thay những cửa tiệm cũ kỹ, cửa bằng gỗ đó, họ dựng những tiệm mới, nền móng vững vàng, nóc lợp ngói hay tôn, cửa có bức sáo bằng sắt (cửa tiệm của ông Ali Hodja, theo luật lệ mới cũng sắp bị phá, nhưng ông cương quyết phản kháng, kiện ở tòa, tìm đủ cách trốn tránh, không thi hành, rốt cuộc tiệm không bị đụng tới). Nền chợ được mở rộng, san phẳng. Người ta dựng một konak[73] mới đồ sộ làm công thự cho tòa án và tòa hành chánh; Còn quân đội thì xây cất cho họ mau hơn và quyết liệt hơn bên dân sự: dựng trại, khai phá, trồng trọt, làm thay đổi hẳn quang cảnh từng ngọn đồi một.
Những người già trong thị trấn không quen được những biến đổi đó, cho nên không ngớt tỏ nỗi ngạc nhiên. Và đúng lúc họ tưởng rằng sự hăng hái xây cất khó hiểu đó sắp chấm dứt thì ngoại nhân lại khởi công một việc mới càng khó hiểu hơn nữa. Và dân chúng đứng lại xem xét những công việc đó không phải như trẻ con nhìn người lớn làm việc mà trái lại, như người lớn nhìn trẻ con nghịch ngợm vậy. Cái nhu cầu bất tuyệt của bọn ngoại nhân đó, dựng rồi phá, đào rồi xây, làm rồi sửa lại lúc nào cũng muốn dự đoán tác động của sức mạnh thiên nhiên để tránh hoặc ngăn cản, cái đó dân chúng ở đây không ai hiểu được mà thẩm định cho đúng. Trái lại mọi người, nhất là các người giàu cho là xấu xa, báo trước một điềm gở. Họ muốn thị trấn vẫn giữ hoài bộ mặt của những thành phố nhỏ phương Đông: cái gì hư thì sửa lại, cái gì sắp sập thì chống đỡ, nhưng chỉ vậy thôi chứ không đặt kế hoạch, dự tính để làm những công việc không cần thiết, nhất là không đụng tới nền móng các lâu đài, dinh thự, làm thay đổi bộ mặt của thị trấn mà Thượng đế đã tạo nên.
Nhưng ngoại nhân lần lượt làm xong các công việc của họ một cách nhanh chóng, có kết quả, theo những kế hoạch đã nghiên cứu kỹ lưỡng khiến dân chúng càng ngày càng ngạc nhiên.
Họ hoàn toàn bất ngờ khi tới phiên lữ quán. Lữ quán đã hoang tàn đổ nát từ lâu rồi: cửa mục, chấn song bằng đá của các cửa sổ đã bể, mái đã sụp xuống bên trong. Một cây keo lớn ló lên, bụi gai và cỏ dại mọc đầy, nhưng tường ở phía ngoài vẫn còn giữ nguyên vẹn hình chữ nhật đều đặn mà cân đối bằng đá trắng. Dân chúng coi lữ quán đó là một bộ phận của thị trấn cũng như nhà cửa quê hương của họ, không bao giờ tưởng tượng rằng người ta có thể đụng tới nó, thay đổi nó, thời gian và nắng mưa đã hủy hoại nó ra sao thì cứ để như vậy.
Nhưng cũng tới phiên nó nữa: Mới đầu các kỹ sư lại đo kỹ chung quanh, rồi bọn lao công bắt đầu dỡ từng phiến đá một, các loài chim và vật nhỏ làm ổ trong đó hoảng hốt, đi nơi khác hết. Chẳng bao lâu khoảng đất phẳng ở phía trên chợ, gần cầu hóa ra trống và lữ quán biến mất, chỉ còn lại một đống đá tốt nhất rất kỹ lưỡng.
Hơn một năm sau, trên nền lữ quán cũ, người ta dựng một trại lính có một từng lầu, cao và đồ sộ, quét vôi xanh lượt, lợp tôn xám và có nhiều lỗ bắn súng. Trên khu đất phẳng đã mở rộng ra, lính tập trận suốt ngày. Và buổi tối, từ phía sau những cửa sổ của trại lính xấu xí đó vang lên các bài hát chiến tranh chẳng ai hiểu gì, hòa với tiếng harmonica. như vậy cho tới khi tiếng kèn thổi lên đinh tai một điệu buồn làm cho chó trong thị trấn tru lên; túc thì các tiếng ồn ào và ánh đèn ở cửa sổ đều tắt hết. Từ đó kiến trúc từ thiện đẹp đẽ của quan tể tướng không còn nữa, và trại lính mà dân chúng quen thói vẫn gọi là lữ quán, bắt đầu hoạt động trên khu đất gần cầu, không hợp điệu chút nào với cảnh vật chung quanh.
Và chiếc cầu bây giờ hóa ra hoàn toàn trơ trọi.
(…) Nhưng đời sống trên cầu vẫn tiếp tục, không thay đổi gì cả. Người ta chỉ nhận thấy rằng lúc này người Serbie và người Do Thái tự do với cái kapia hơn, mỗi ngày mỗi nhiều, giờ nào cũng tới, chứ không như xưa mà còn ngài ngại người Thổ, ngại phong tục, đặc quyền của họ. Suốt ngày, bọn con buôn lại đó ngồi đợi các thôn nữ tới để mua len, gà vịt, trứng; bên cạnh họ là một bọn ở không, đi dạo khắp thị trấn. Chiều tối, những người làm ăn lại đó nói chuyện với nhau một lát hoặc lặng lẽ nhìn con sông có những hàng liễu thấp và những bãi cát trắng ở hai bên bờ. Ban đêm thì kapia thuộc về bọn trẻ và bọn say rượu.
Chính quyền mới đã từng trồng cột đèn trong thị trấn. Ngay từ mấy năm đầu, trên các đường lớn và tại các ngã tư, người ta móc những ngọn đèn dầu lửa vào các cột đèn màu xanh lá cây (công việc chùi đèn, châm dầu, đốt dèn giao cho Ferhat, một gã cao lớn, nhà đầy con nít, trước kia làm đầy tớ sai vặt trong các công sở; không có lương nhất định, chắc chắn). Cầu cũng được mấy ngọn đèn. Cột đèn ở cái kapia đóng chặt vào cây đà bằng gỗ sên của đồn canh cũ. Trong một thời gian lâu, ngọn đèn đó chịu bao cảnh điêu đứng với bọn “bất chấp mọi sự”, bọn thích ca hát trong bóng tối và bọn thanh niên phá phách, sầu tình, say sưa và thích cô liêu. Ánh sáng nhấp nháy của ngọn đèn làm cho họ nổi quạu và nhiều lần bị họ đập bể tan tành. Nhiều kẻ bị phạt vạ, trừng trị. Và tới một ngày nào đó người ta phải cắt một chú cảnh sát đứng canh gác riêng ngọn đèn. Vậy là bọn đi chơi đêm có thêm một chứng nhân khó chịu hơn ngọn đèn nhiều. Nhưng rồi thời gian qua, các thế hệ mới lần lần quen đi, mặc kệ, cứ việc tình tự dưới ánh đèn mù mù, và không đập phá ngọn đèn bằng đá, bằng gậy, bằng bất kỳ vật gì vớ được nữa. Với lại, những đêm trăng tròn, thiên hạ thường tới kapia đông nhất thì cầu không thắp đèn, thành thử người ta càng dễ quen với ngọn đèn.
Mỗi năm chỉ có một lần là cầu được chưng đèn. Ngày 18 tháng Tám là sinh nhật của hoàng đế, hôm trước nhà cầm quyền kết lá và dùng những cây tùng nhỏ để trang hoàng cầu; tối đến, người ta đốt hằng dãy đèn nhỏ: hàng trăm hộp thiếc đựng đồ nguội của nhà binh được đổ đầy mỡ bò và dầu stéarine, sắp thành hàng dài, chiếu sáng hai bên cầu ở khúc giữa thôi, còn hai đầu cầu và các cột cầu thì chìm trong bóng tối, phần giữa cầu do đó có vẻ như lơ lửng ở trên không. Nhưng đèn chỉ cháy một lát là hết dầu, gây cho trẻ con một ấn tượng tuy rực rỡ, đẹp đẽ mà phù du như một giấc mộng. Và hôm sau cầu lại có bộ mặt ngày thường.
Ngoài việc thắp đèn đó ra, nhà cầm quyền còn giữ gìn cái kapia cho được sạch sẽ. Vỏ trái cây, hột da, vỏ hạt dẻ không còn la liệt trên mặt đá lát, đợi cho mưa đánh trôi đi, gió thổi đi nữa. Mỗi buổi sáng, một người phu quét đường lại lùa hết xuống sông.
Còn một cảnh mới mẻ nữa mà ngoại nhân đem lại: từ hồi có cái kapia tới nay, bây giờ người ta mới thấy phụ nữ bắt đầu lại đó. Vợ và các con gái các công chức dắt các chị ở, chị vú ngừng ở đó nói chuyện một lát, hoặc gặp ngày lễ thì nàng với chàng (quân nhân hay công chức) lại đó ngồi chơi. Cảnh đó không thường thấy, nhưng cũng đủ làm cho các ông già gai mắt và bọn trẻ ngạc nhiên, xúc động.
Dĩ nhiên, từ hồi nào tới giờ, vẫn có chút liên quan giữa cái kapia với nữ giới trong thị trấn, nhưng các chàng trai trẻ chỉ lại đó để tán tỉnh các thiếu nữ qua cầu, hoặc thổ lộ những niềm vui, những đau khổ do phụ nữ gây ra cho họ, giải quyết những vụ tranh giành người yêu. Ở đó họ nói chuyện rất nhiều về đàn bà, về ái tình, mơ mộng cũng nhiều. Có nhiều cuộc tình duyên bùng lên hoặc tắt ở đó. Nhưng dù sao, phụ nữ Ki tô giáo nhất là Hồi giáo chưa bao giờ không có công việc gì mà lại ngồi chơi ở đó, hoặc chỉ ngừng lại đó. thôi. Bây giờ mọi sự đã thay đổi.
Chủ nhật và các ngày lễ, người ta thấy trên cái kapia, những chị bếp mặt đỏ gay, bận áo thật eo tới nghẹt thở, phía trên và phía dưới chiếc nịt ngực nói lên tròn vo phúng phính những mỡ là mỡ. Bên cạnh các nàng là những chú đội quân phục chải rất kỹ, nút đồng lấp lánh, nẹp ngang đỏ và chòm lông bộ binh rực rỡ trên ngực. Còn ngày thường thì chiều tối, các công chức và sĩ quan dắt vợ đi hóng mát, ngừng trên kapia, cười nói ồn ào, xí xồ không ai hiểu gì cả.
Hạng đàn bà ở không, nhí nhảnh, vui vẻ đó làm chướng mắt mọi người không nhiều thì ít. Người ta ngạc nhiên, bất bình, nhưng chẳng bao lâu cũng quen đi như quen bao nhiêu cái mới mẻ khác, mặc dầu vẫn không chấp nhận.
Xét chung, chúng ta có thể nói rằng tất cả những sự thay đổi ở trên cầu đó đều không dáng kể, chi có bề ngoài và không bền. Có nhiều sự thay đổi quan trọng hơn trong tinh thần và thói quen của dân chúng, trong cục diện của thị trấn cơ hồ xảy ra ngay bên cạnh cầu mà không đả động gì tới cầu cả. Chiếc cầu cũ kỹ, trắng đó mà dân chúng qua lại suốt ba thế kỷ nay không lưu lại một dấu vết hoặc một suy tổn nào cả, vẫn không thay đổi ngay cả dưới triều tân hoàng đế, nó thắng được lớp sóng phế hưng như trước kia nó đã thắng được các trận lụt lớn, và cứ sau mỗi lần bị dòng nước đục ngầu cuồn cuộn dâng lên tràn ngập, nó lại nổi lên, trắng và không suy suyển, như được hồi sinh lại.
Chú thích:
[73] Công thự.