Chương XIV
Đời sống thị trấn ở gần cầu càng ngày càng náo nhiệt hơn, chỉnh tề hơn, phong phú hơn, có một vẻ điều hòa và quân binh trước kia chưa thấy; sự quân bình đó người thời nào và nơi nào cũng mong mỏi mà ít khi đạt được lắm, có được thì chỉ tạm thời về một phương diện nào thôi.
Hồi đó, trong hai mươi lăm năm cuối thế kỷ XIX, những thị trấn xa xôi, chỗ ngự trị của những kẻ đô hộ chúng ta, được hưởng cảnh thanh bình hiếm thấy và ngắn ngủi: Con người hòa hảo với nhau, không có những biến cố xã hội … Nhiều người Âu tưởng đã thực hiện được cái mộng hằng mấy thế kỷ là làm cho cá nhân được phát triển đầy đủ và sống sung sướng trong sự tiến bộ và sự tự do cho mọi giới. Thế kỷ XIX tạo được cái ảo ảnh tiện nghi, an toàn, hạnh phúc vì hàng hóa giá đã rẻ lại bán chịu, ai mua cũng được.
Sau mấy năm đầu nghi ky, do dự, không tiến, cảm thấy cái gì cũng tạm thời, dân chúng Vichégrad bắt đầu sống trong trật tự, hưởng sự phong phú, an toàn.
Chính quyền mới gây cho dân chúng cái cảm tưởng rõ rệt là cương quyết, vững vàng, dễ chịu hơn chế độ Thổ Nhĩ Kỳ vì người Áo chi cai trị một cách gián tiếp. Nhà cầm quyền quân sự và dân sự đa số là người ngoại quốc, không biết dân bản xứ. Họ tuy tầm thường mang những chức tước ở đây người ta cho là quan trọng có thái độ thản nhiên và lối sông Âu châu, nên được dân chúng tin và sợ, mặc dầu không quí mến.
Còn chính các ngoại nhân thì sau một thời gian, cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng của cảnh vực phương Đông kỳ dị trong đó họ phải sống. Con cái họ truyền cho trẻ em Vichégrad những danh từ ngoại quốc, những trò chơi, đồ chơi mới, mà cũng học được rất mau những bài hát, cách nói, lời chửi thề, các trò chơi cũ của ta như trò “chảy cừu”[81]. Mà người lớn cũng vậy. Dân chúng của ta, nhất là các người Ki tô giáo và Do Thái bắt đầu giống ngoại nhân về cách ăn mặc, xử sự; mà nhiều công chức ngoại nhân cũng bắt đầu lại ngồi hằng giờ trên kapia hút những ống điếu xì gà dày nặng, làm bằng hổ phách, và cũng như chúng ta nhìn khói thuốc tan trong không khí im lặng lúc hoàng hôn, dưới nền trời xanh; hoặc họ cùng với vài thân hào, vài bey của chúng ta, lên một bình nguyên xanh, ngồi trước một bụi hoắc hương, đợi cảnh chiều xuống, ung dung nói dăm ba câu chuyện phiếm, thỉnh thoảng nhấp nháp chút rượu, gắp vài món ăn, y như dân Vichégrad chính cống vậy. Trong số ngoại nhân, có vài công chức và thợ thủ công cưới vợ ở đây, nhất định lập nghiệp ở đây.
Chính quyền mới, có bộ máy hành chánh tốt, khéo làm cho dân dốc túi ra đóng thuế mà không thấy xót ruột dân không bị hành hạ, cưỡng ép bằng những phương pháp thô bạo, vô lý kể cả phương pháp cướp bóc nữa, như dưới thời lệ thuộc Thổ; nhờ vậy thu được nhiều thuế hơn, mau hơn và chắc chắn hơn.
Mới đầu quân đội tới, theo sau là hiến binh kế đó, tới bọn công chức, bây giờ cũng vậy, sau bọn công chức tới phiên bọn con buôn xuất hiện. Lữ quán đầu tiên được xây cất (lát nữa, chúng tôi sẽ kể chuyện về nó). Những tửu quán, tiệm buôn mới lạ mọc lên. Ngoài những con buôn Do Thái, Y Pha Nho, tức bọn Sefardim – họ sống ở đây đã mấy thế kỷ rồi gần như từ cái thời xây cầu trên sông Drina – bây giờ có thêm những con buôn Do Thái, Galicie, tức bọn Askenazi.
Tiền bạc, như một dòng máu tươi bắt đầu lưu thông nhiều hơn trước, và điểm quan trọng nhất là nó lưu thông một cách mạnh bạo, công khai.
Trước kia cũng có tiền, có những người giàu đấy, nhưng hiếm, và họ giấu tiền kỹ lắm, ngày nay cái mà người ta gọi là sự giàu có được phô trương trong cách ăn chơi.
Những thú vui trước khi người ta lén lút hưởng thì bây giờ có thể mua được, khoe với đời được, thành thử sức quyến rũ tăng lên mà số người mua vui cũng tăng lên. Cái gì ngày xưa xa vời, không vói được, đắt tiền, bị luật lệ và tục lệ gay gắt cấm đoán, thì bây giờ, trong nhiều trường hợp, hễ có tiền hoặc khôn lanh là làm được tuốt. Thực ra, trong khu vực đó cũng có nhiều kỷ luật, trật tự, nhiều luật lệ ngăn cản hơn; sự phóng dật bị trừng trị mà thú vui phải trả một cách khó khăn hơn, đắt hơn, nhưng luật lệ và phương pháp khác xưa và thiên hạ có ảo tưởng rằng, trong khu vực đó cũng như trong mọi khu vực khác, đời sống bỗng hóa ra rộng rãi hơn, xa hoa hơn, tự do hơn.
Cũng chẳng có nhiều thú vui thực sự, nhiều hạnh phúc hơn hồi xa đâu, nhưng chắc chắn là dễ kiếm vui, hơn xa, và có vẻ như mỗi người được nhiều hạnh phúc hơn. Khuynh hướng bẩm sinh cố hữu của dân Vichégrad là sống một đời vô tư, hưởng lạc, bây giờ được kích thích; những lề lối mới, cách thức buôn bán kiếm lợi mới mẻ do ngoại nhân đem vô khiến cho sự thực hiện cuộc sống đó hóa ra dễ dàng. Bọn Do Thái, Ba Lan dắt cả bầu đoàn thê tử tới thị trấn lập nghiệp, chuyên hoạt động trong khu vực đó. Schreiber mở một quán tạp hóa hoặc một quán thực phẩm, Gutenplan mở một quán ăn cho lính, Tsaler làm chủ một khách sạn, còn gia đình Sperling thì mở một xưởng nấu xút (soude) và một tiệm chụp hình, Tsveher bán đồng hồ và nữ trang.
Dựng xong trại lính ở trên nền lữ quán cũ rồi người ta dùng một số đá còn lại cất một công thự cho ty hành chánh và tòa án. Sau những kiến trúc đó, ngôi nhà lớn nhất trong thị trấn là lữ quán Tsaler ở trên hữu ngạn sông Drina, gần sát cầu chỗ người ta xây một bức tường cho bờ sông khỏi lở. Thành thử bên phải và bên trái cầu có hai khu đất phẳng như hai cái sân ở bên bờ nước. Trên những khu đất trống đó, mà dân chúng gọi là trường đua, trẻ con lại chơi, hết thế hệ này tới thế hệ khác. Bây giờ nhà cầm quyền đã chiếm khu bên trái, rào lại, trồng cây ăn trái và bụi nhỏ, gần thành như sở ương cây của quận.
Còn trên khu bên phải thì cất lữ quán. Trước kia ngôi nhà thứ nhất người ta thấy khi vô khu thương mại là quán trọ của Zaria mà vị trí rất tốt vì khách lữ hành nào mệt và khát, vừa mới qua khỏi cầu để vô thị trấn cũng phải ghé quán đó. Bây giờ thì nó hoàn toàn bị lữ quán mới đồ sộ lấn át rồi, càng ngày càng có vẻ thấp hơn, khúm núm hơn, như bị lún xuống đất.
Chính thức ra thì lữ quán mới mang tên Hotel fur Brucke (Lữ quán bên cầu), nhưng hàng chữ mang tên đó, do một người lính sơn lên tấm bảng treo trên cao, nét chữ cứng, thẳng, phai màu rất mau; còn dân chúng theo một cách lý luận riêng, đặt tên cho mỗi vật đúng với ý nghĩa thực sự của nó, gọi lữ quán đó là lữ quán Lotika, và tên này thành ra vĩnh viễn. Vì tuy người quản lý lữ quán là một người Do Thái mập, trầm tĩnh, tên là Tsaler có một người vợ bệnh hoạn và hai người con gái Mina và Irène, nhưng sự thực thì người làm chủ, linh hồn của lữ quán, là một thiếu phụ tên là Lotika em dâu của Tsaler, góa chồng, cực đẹp, trực ngôn cương quyết như đàn ông.
Tầng trên của lữ quán có sáu phòng sạch sẽ, ngăn nắp cho khách ngủ, tầng dưới có hai phòng, một rộng, một hẹp: Phòng rộng dành cho hạng người tầm thường, hạ sĩ quan, thợ thuyền; phòng hẹp ngăn cách với phòng rộng bằng một cửa mà hai cánh lắp kính đục, một cánh ghi chữ Extra (ngoại hạng), cánh kia ghi chữ Zimmer (phòng): Đây là trung tâm đời sống xã hội của hạng công chức, sĩ quan và phú gia trong thị trấn. Tại lữ quán Lotika, người ta nhậu nhẹt, đánh bài, ca hát, khiêu vũ đàm đạo nghiêm trang, quyết định công việc làm ăn; món ăn thì ngon mà giường nệm thì sạch. Nhiều khi cái xã hội gồm các tay thương gia và công chức đó nhậu nhẹt suốt ngày thâu đêm tới nỗi gục xuống vì say và buồn ngủ và đánh bài mệt quá tới nỗi mắt mờ đi. (Bây giờ người ta không phải đánh bài lén trong căn phòng tối om om, nghẹt thở tại quán rượu Oustamouich nữa).
Và Lotika lễ phép mời những vị đã quá chén hoặc cạn túi ra về cho, để tiếp những khách mời tới còn tỉnh táo, nóng nảy muốn uống rượu và đánh bài. Không ai biết mà cũng chẳng ai tự hỏi thiếu phụ đó nghi ngơi, ăn, ngủ vào lúc nào, có thì giờ đâu mà trang điểm. Vì luôn luôn có mặt nàng ở đó để tiếp khách, ân cần nhã nhặn với mọi người, coi ai cũng như ai, mà đối với ai cũng bạo dạn, lanh lợi.
Đẫy đà nước da ngà, tóc đen, cặp mắt nồng nàn, nàng có một lối xử sự rất hữu hiệu đối với hạng khách kẻng, tiêu pha rộng rãi, nhưng hễ quá chén thì hay gây gổ vô lễ. Nói với mọi người, nàng có giọng ngọt ngào, bạo dạn, dí dỏm, châm chọc, vuốt ve, dịu dàng. Và người khách nào cũng thích ngắm nàng, trò chuyện, ve vãn nàng, thật là đáng tiền và bỏ công. Bọn phá của, bọn trọc phú hoặc bey, già và trẻ, đều coi Lotika là một ảo ảnh trên sa mạc, một ngôi sao lấp lánh trên nền trời, tốn tiền và lãnh đạm chỉ đùa cợt với giác quan của họ thôi. Người ta kháo nhau có vài kẻ rất hiếm được nàng ban ân huệ, nhưng chính những kẻ đó cũng không biết mình đã được hưởng những ân huệ nào, tới mức nào.
Không dễ gì chiến đấu với bọn đàn ông giàu có, say rượu thường nổi những thú tính tàn nhẫn, bất ngờ đó.Vậy mà nàng Lotika khéo léo, bình tĩnh, kiên nhẫn, sáng suốt quyết định mau, can đảm, bạo dạn, dung thân thể tuyệt mỹ cùng mưu mô sâu sắc của mình, thắng được mọi cơn điên, mọi thèm khát của họ, luôn luôn họ phải giữ một khoảng cách cần thiết giữa nàng và họ, khiến dục vọng của họ càng bừng bừng lên mà giá ngọc của nàng càng tăng. Nàng vờn những con người say sưa, nổi điên thô lỗ và nguy hiểm đó như một người đấu bò vờn con bò mộng vậy. Nàng biết tất cả những nhược điểm của bọn người đa cảm, tàn bạo và đa dục đó. Nàng hứa nhiều mà ban rất ít, đúng ra, không ban gì cả, vì những dục vọng của họ vốn không thể thỏa mãn được, và rất cuộc họ đành phải nhận ít vậy.
Tóm lại, có thể bảo rằng mặc dầu làm cái nghề dĩ nhiên là không đẹp và không lương thiện gì lắm đó, nàng là một thiếu phụ có lương tri, tốt bụng, biết an ủi giúp đỡ những kẻ quá chén hoặc thua cay. Nàng làm cho họ hóa điên lên đấy, vì chính họ đã điên sẵn rồi, nàng lừa gạt họ đấy vì họ muốn được lừa gạt, nhưng nàng chỉ vét của họ số tiền họ sẵn sàng phung phí thôi. Quả thực, nàng đã kiếm được bộn tiền và giữ tiền kỹ lưỡng từng đồng một, cho nên mới mấy năm đầu, nàng đã gom được một số vốn lớn, nhưng nàng cũng biết xóa một món nợ hoặc rộng lượng quên một sự thiệt thòi mà làm thinh, không khoe khoang. Nàng cho tiền bọn hành khất và đau ốm một cách rất tế nhị, thận trọng. Nàng giúp đỡ các gia đình giàu có mà sa sút, cưu mang các cô nhi quả phụ trong các gia đình nền nếp nhất, những kẻ nghèo mà xấu hổ, không dám xin và ngượng ngùng chìa tay ra nhận tiền của nàng.
Những người từng trải và biết chuyện nàng thường tiếc rằng số phận đã cho nàng một khu vực hoạt động hẹp hòi và thấp hèn như vậy. Nếu nàng không quản lý một lữ quán và vét túi những tay ăn chơi ở cái tỉnh nhỏ này thì biết đâu, người đàn bà thông minh, nhân từ, không nghĩ tới mình, vừa ham tiền vừa bất vụ lợi, diễm lệ duyên dáng mà trinh bạch, lãnh đạm đó đã chẳng thành một nữ kiệt trong lịch sử, điều khiển những gia đình quyền quí, một triều đại, một quốc gia một cách tuyệt hảo.
Thời đó vào khoảng 1885, Lotika đương còn sung sức và bọn con trai các nhà trọc phú lăn lóc ngày đêm trong cái phòng thượng hạng (Extrazimmer) có cánh cửa kính đục như sữa đó. Lúc hừng đông họ ngồi ở gần lò sưởi còn ngái ngủ, mơ mơ màng màng, chưa tinh rượu, mệt mỏi, không biết mình ở đâu và muốn gì. Nhân lúc được tạm rảnh đó, Lotika rút lên lầu, vô một phòng nhỏ, vốn là.phòng cho nữ gia nhân, nhưng nàng dùng làm phòng giấy và không cho ai vào. Phòng đầy đồ đạc đủ thứ, đồ vàng, đồ bạc, đồ thủy tinh và hình ảnh. Sau một tấm màn kê một tủ sắt sơn xanh và một chiếc bàn giấy nhỏ, tràn ngập giấy tờ: giấy gọi, giấy mời, giấy biên nhận, giấy tính tiền, nhật báo Đức, và những mảnh cắt trên báo cho biết giá chứng khoán, các lô trúng xổ số.
Phòng chật hẹp, bề bộn, ngột ngạt, chỉ có mỗi một cửa sổ nhỏ hơn nhưng cửa sổ khác, nhìn thẳng ra nhịp thứ nhất của cầu. Những lúc được rảnh rang một chút, nàng vô đó sống phần bí mật của đởi nàng, thuộc riêng về nàng.
Ở đó nàng đọc tin tức trên thị trường chứng khoán, nghiên cứu, các tờ cáo bạch, giữ sổ sách, trả lời các ngân hàng, quyết định, ra lệnh, (đặt tiền vào các công việc làm ăn. Không ai biết được, thấy được những công việc đó và cuộc đời thực sự đó của nàng. Lúc đó, nàng bỏ cái vẻ mặt tươi cười giả dối bề ngoài đi, và có cái nét nghiêm khắc cặp mắt sắc và tối. Nàng viết th cho những bà con rất đông trong họ Apfelmayer ở Taenowo: anh em, chị em đã có gia đình, cô dì, chú bác, hết thảy đểu là những người Do Thái rất nghèo gốc gác ở Đông Galicie, tản mác, lưu lạc ở Galicie, Áo và Hung. Nàng hướng dẫn cuộc đời cho trên dưới mười hai gia đình Do Thái, chỉ bảo tỉ mỉ từng chi tiết gả bán kẻ này kẻ khác, gởi trẻ tới trường học chữ hoặc học nghề, mách thuốc cho người đau, mắng bọn làm biếng, phá của, khen những người cần kiệm tháo vát. Nàng xử các vụ gây lộn trong họ, hòa giải hai bên, khuyên họ nên sống một cách hợp lý hơn, hiền lương hơn, đàng hoàng hơn. Và đồng thời giúp họ phương tiện để họ sống như vậy được. Vì bức thư nào của nàng cũng kèm theo một bu phiếu thành thử người ta chịu nghe theo lời nàng khuyên thỏa mãn được một nhu cầu vật chất hoặc tinh thần, tránh được một tai nạn.
Trong công việc giúp đỡ nâng cao đời sống và tinh thần bà con họ hàng đó nàng tìm thấy niềm vui duy nhất và thực sự của nàng, phần thưởng cho tất cả những gánh nặng cùng hy sinh của nàng. Cứ mỗi người, đàn ông hay đàn bà trong họ Apfelmayer mà leo lên một nấc thang xã hội thôi, là nàng cũng cảm thấy mình cao quí thêm lên. Và có thêm sinh lực mới để gắng sức.
Đôi khi nàng ở phòng thượng hạng (Extrazimmer) bước lên lầu, mệt mỏi, chán nản quá, không đủ sức viết thư đọc thư hoặc coi sổ sách nữa; những lúc đó nàng ra đứng trước cửa sổ nhỏ, hít đầy phổi không khí mát mẻ dưới sông đưa lên, khác hẳn không khí ở tầng dưới. Và nàng nhìn nhịp cầu bằng đá mảnh mai và vững chãi chắn ngang chân trời và nhìn dòng nước chảy mạnh ở dưới. Riết rồi nhịp cầu đó thành chân trời duy nhất quen thuộc, như một chứng nhân im lặng của thiếu phụ Do Thái có hai bộ mặt đó, trong những khi nàng nghỉ ngơi hóng gió, hoặc những khi nàng không giải quyết được công việc làm ăn và những nỗi lo lắng của họ hàng, những việc mà luôn luôn nàng suy tính một mình, không bàn với ai cả.
Nhưng những lúc nghỉ ngơi đó không bao giờ được lâu lần nào cũng bị gián đoạn vì tiếng la hét ồn ào ở bàn cà phê tầng dưới: có một bọn khách mới đòi gặp mặt nàng, hoặc một gã vừa mới thức dậy, tỉnh rượu, đòi một thứ rượu mới, đòi đốt đèn lên, kêu bọn nhạc công lại và gọi tên nàng. Thế là nàng rời căn phòng nhỏ khóa kỹ cửa lại bằng một chìa khóa riêng, xuống để tiếp khách, hoặc mỉm cười, vỗ về gã say rượu như dỗ dành một em bé mới ngủ dậy dắt hắn lại bàn, bảo hắn ngồi xuống để lại nhậu nhẹt nữa, chuyện trò, ca hát và dốc túi tiền.
Vì trong khi vắng mặt nàng, tầng dưới đã hóa ra loạn. Khách khứa gây gổ với nhau. Một bey ở Tsrntcha, còn trẻ, mặt tái mét, cặp mắt hung dữ, đem thứ rượu nào lại cho hắn, hắn cũng đổ xuống đất, cái gì cũng chê, gây chuyện với người hầu và cả với khách. Hắn là khách hàng quen đã từ lâu, mê Lotika, uống rượu quá đỗi, rõ ràng là vì một nỗi đau khổ sâu xa, lớn lao hơn cái nông nỗi yêu mà không được Lotika yêu lại rồi ghen bâng quơ
Lotlka nhẹ nhàng, tự nhiên lại gần hắn, không chút sợ sệt: -Cái gì đó, Eioub? Sao lại la lối như vậy, hở anh?
Gã say rượu nhấp nháy mắt, ngó nàng như ngó ma quỉ hiện hình, dịu giọng xuống, ấp a ấp úng: -Em ở đâu? Anh muốn biết lúc nãy em ở đâu? Chúng nó cho anh uống thuốc độc; chúng đầu độc anh, nhưng chúng không biết rằng nếu anh …
Lolika đưa hai bàn tay trắng thơm tho ra dấu ngay sát mặt của hắn, bảo: -Cứ ngồi, cứ yên ổn ngồi, anh thì em hết sức chịu lòng; em đi kiếm một thứ rượu ngon cho.
Rồi nàng gọi một người bồi, nói tiếng Đức, bảo đi lấy một thứ gì đó.
- Trước mặt anh thì đừng xí xa xí xồ Firtzen – Fuftzen… mà anh không hiểu được, vì anh … em biết anh mà.
- Biết chứ, biết chứ. Eioub, em không biết những người tốt bụng hơn anh, nhưng anh thì em biết chứ …
- Hừm? Lúc nãy em ngồi với ai ở đâu? Nói đi!
Và gã nghiện rượu với thiếu phụ không biết uống rượu đó tiếp tục nói chuyện với nhau không ngớt, những chuyện lăng nhăng chẳng đưa tới đâu cả, bên cạnh chai rượu đắt tiền với hai cái ly: ly của Lotika lúc nào cũng còn đầy, còn ly kia hễ mới róc đầy là đã cạn ngay rồi.
Trong khi gã ăn hại đó lưỡi ríu lại vì rượu, ấp a ấp úng, lắp bắp nói những chuyện lẩn thẩn về ái tình, than thở không có thuốc chữa bệnh tương tư, những muốn chết đi cho rảnh, những chuyện lăng nhăng như vậy mà Lotika đã thuộc lòng rồi vì kẻ say rượu nào cũng có ngôn ngữ đó, thì nàng đứng dậy, lại gần các bàn khác tiếp những khách quen khác, những người không tối nào là vắng mặt ở lữ quán: gồm hạng trọc phú còn trẻ; hạng quê mùa đua đòi theo mốt, tới đây còn rụt rè, bỡ ngỡ; một bọn công chức, ngoại nhân; một sĩ quan muốn vay nàng một số tiền gấp, bọn kỹ sư, một điền chủ vào hạng giàu nhất, và một nhà thầu khoán áo làm con đường xe lửa, hai người sau này đương tính toán công việc làm ăn, người nào cũng tìm cánh thuyết phục và lừa gạt người kia!
Đối với người nào, nàng cũng kiếm được một tiếng thích hợp, một nụ cười tươi tỉnh hoặc một vẻ nhìn lặng lẽ rất cảm thông. Rồi nàng trở về bàn anh chàng bey lúc đó đã hung hăng trở lại.
Ban đêm khi họ nhậu nhẹt, nàng thế nào cũng kiếm được một lúc tạm thời yên ổn để trở về phòng riêng mà nghỉ ngơi dưới ánh đục đục của ngọn đèn bằng sứ, hoặc viết nốt thư từ, cho tới khi lại có chuyện gì lộn xộn xảy ra ở từng dưới.
Và hôm sau, cũng như vậy nữa …
Khó mà hiểu được làm sao Lotika có thể xoay xở làm suốt đêm ngày biết bao công việc khác nhau đó, những công việc cần nhiều mưu lược, tính toán mà đàn bà không có nổi, và cần nhiều nghị lực, vượt cả sức đàn ông. Vậy mà nàng giải quyết được hết, không bao giờ phàn nàn, không nói cho một ai hay mình vừa mới thương lượng xong một việc gì, kết quả sẽ ra sao. Bề bộn công việc như vậy mà nàng mỗi ngày vẫn kiếm được ít nhất là một giờ để tiếp Ali-bey Pachitch, mới là lạ chứ.
Trong thị trấn người ta đồn rằng ông là người đàn ông duy nhất được Lotika quí mến thực tình, không có chút tính toán gì cả. Mà ông cũng là con người kín đáo nhất ít nói nhất trong thị trấn. Ông có ba người em trai, sống độc thân (người ta cho rằng tại Lotika), không làm ăn buôn bán, mà cũng không dự vào việc thị trấn. Không uống rượu, không chơi bời bê tha với bạn cùng tuổi. Lúc nào cũng bình tĩnh, nhã nhặn từ tốn đối với mọi người, bất kỳ là ai. Tuy nhiên, không phải là ông trốn xã hội, không chuyện trò với ai; nhưng không ai nhớ được ông đã phát biểu những ý kiến gì, nói những gì ông thỏa mãn về bản thân ông, không cần người khác kính trọng ông hơn hoặc qúy mến ông hơn. Ông vào hạng qúy phái bẩm sinh, cao cả, đáng kính, ai cũng phải nhận vậy mà không ai bắt chước được.
Đối với hạng khách trong phòng lớn, Lotika không phải bận tâm tới nhiều, giao phó cho chị hầu bàn Maltchika và anh bồi Gustave. Trong thị trấn ai cũng biết Maltchika là một phụ nữ Hung Gia Lợi khôn lanh, vào hạng vợ những người dạy mãnh thú, còn Gustave là một người Đức gốc gác ở Bohême, tóc hung hung, nhỏ con, dễ quạu, mắt đầy những tia máu, chân giạng ra, bàn chân phẳng. Họ biết mặt tất cả các khách hàng và gần hết dân chúng trong thị trấn; họ biết kẻ nào trả tiền sòng phẳng biết người nào say rượu trù tính tình ra sao, người nào nên tiếp đãi một cách lạnh lùng, người nào thì phải niềm nỡ, thân mật, kẻ nào không nên cho vô vì không “xứng với lữ quán này.” Họ tiếp đãi sao cho mọi người uống nhiều mà trả sòng phẳng, nhưng cũng coi chừng cho mọi sự kết thúc đàng hoàng vì nguyên tắc của Lotika là: Nur kein Skandal.[82] Nhưng nếu họa hoằn bất ngờ có kẻ say sưa bậy bạ, hoặc đã uống say ở một quán rượu hạng tối nào đó rồi mới lại đây, hoặc đã ngăn không cho vô mà cứ vô đại, thì lúc đó một gia nhân khác mới ra mặt, anh Milan, một gã cao lớn, vai rộng, to xương. Gốc gác ở Lika, anh ta mạnh phi thường, ít nói, làm đủ mọi việc, ăn bận lúc nào cũng ra vẻ một anh bồi đàng hoàng (vì Lotika để mắt tới mọi sự): một chiếc gi-lê màu nâu ngoài không có Veston trong có một chiếc sơ mi bằng nỉ trắng, lưng quấn một tấm “tạp dề” dài bằng nỉ màu xanh lá cây, mùa đông cũng như mùa hè, tay áo xắn lên tới khuỷu, để hở những bắp thịt đầy lông đen cứng như hai cái bàn chải vĩ đại. Râu mép uốn nhọn, tóc đen và cứng xức thứ sáp thơm mà bọn quân nhân thường dùng. Milan có nhiệm vụ dẹp liền mọi sự lộn xộn, không để cho xảy ra tai tiếng.
Có một chiến thuật đã nghiên cứu kỹ và áp dụng từ lâu cho công việc bất đắc dĩ đó. Gustave vờ vĩnh làm vui người khách say sưa và thô bạo, để đợi Milan ra. Anh này lén tới sau lưng Gustave, rồi thình lình Gustave né ra và Milan một tay chộp dây lưng, một tay chộp cổ áo của gã say rượu, một cách thật mau và thật tài, không ai thấy được “thuật” của anh ta ra sao. Thế là kẻ say rượu kia dù vào hạng lực lưỡng nhất thị trấn cũng chỉ như một con búp bế bằng rơm, bị tung ra phía cửa mà chị Maltchika vừa mở kịp, rồi bay thẳng ra ngoài đường.
Đồng thời Gustave liệng theo ra ngoài những đồ vật của hắn như cái nón, chiếc ba toong … còn Milan thì phóng tới cửa, vận toàn lực ra kéo sập cánh cửa rút bằng sắt xuống. Tất cả những việc đó xảy ra chỉ trong một nháy mắt, rất ăn khớp với nhau, và khách hàng chưa kịp quay lại ngó, thì kẻ say rượu kia đã ở ngoài đường rồi, chỉ còn có cách, nếu hắn điên, lấy con dao hay một cục đá đập vào cánh cửa sắt mà người ta còn thấy vài vết trên đó.
Thế là vụ lộn xộn, ồn ào từ trong lữ quán chuyển ra ngoài đường; thuộc về phận sự của mấy chú cảnh binh lúc nào cũng túc trực bên cạnh lữ quán.
Nhờ vậy không khi nào xảy ra cái cảnh khách hàng bị lôi ra ngoài, làm đổ bàn đổ ghế, hoặc bíu chặt cả tay lẫn chân vào cánh cửa, tới nỗi một cặp bò cũng không giật ra nổi, như tại các lữ quán khác. Milan cứ bình tĩnh không hung hăng, gây gổ, tự đắc, làm công việc đó và chỉ một phút sau lại trở vô bếp như lẳng có gì xảy ra cả.
Chỉ có Gustave là như ngẫu nhiên đi qua phòng thượng hạng (Extrazimmer) nhìn Lotika đương ngồi ở một bàn với những khách sang, thình lình nhắm mắt lại, ra dấu rằng đã có một vụ lộn xộn, nhưng êm rồi. Lotika vẫn chuyện trò, tươi cười, bèn chớp mắt thật mau, mà không ai thấy, để đáp rằng: “Hiểu rồi, cảm ơn anh, ráng coi chừng cho tới cùng nhé.”
Chỉ còn lại vấn đề khách hàng bị trục xuất kia đã uống gì hoặc đánh bể cái gì không. Số tiền đó, đợi tới khuya khuya, hai người sẽ tính sổ, sau một tấm bình phong đỏ: Lotika không bắt Gustave chịu.
Chú thích:
[81] Saute mouton: Trò này, do người Pháp, cũng tuyền qua nước ta: một em khom lưng, cúi đầu, chống tay vào đầu gối, các em khác từ xa chạy lại, chống hai bàn tay lên lưng em đó mà chảy qua.
[82] Tiếng Đức: Nhất là đừng gây tai tiếng.