← Quay lại trang sách

Chương XV

Người khách gây gổ bi trục xuất một cách tài tình đó, nếu không bị cảnh sát bắt dẫn thẳng vô khám thì có nhiều cách để định trí, bình tĩnh trở lại: hoặc lảo đảo tiến về phía cái kapia, ngồi hóng mát dưới ngọn gió lạnh từ sông đưa lên, từ những đồi chung quanh thổi tới; hoặc tại quán rượu của Zaria, cách lữ quán không xa, trước tòa thị sảnh, và ở đó tha hồ nghiến răng, dọa dẫm, chửi rủa kẻ đã trục xuất mình mà mình không kịp đề phòng, không chống cự lại được. Ở quán Zarié này, khi trời vừa mới tối, những ông chủ gia đình, và những người làm ăn siêng năng, sau cử rượu, đã về cả rồi, thì không có mà cũng không thể có cái vụ lộn xộn tai tiếng được, vì ai muốn uống bao nhiêu thì uống, miễn là có đủ tiền và ai muốn hành động nói năng bậy bạ gì túy ý. Ở đây người ta không buộc những khách hàng vung tiền uống tới say mà vẫn có thái độ đàng hoàng như khi chưa uống. Và nếu có kẻ nào quá trớn thì đã có Zarié, một người mập mạp, nặng nề, im lặng mà chỉ nội cái vẻ mặt cau có, cáu kỉnh cũng đủ làm cho bọn nghiện rượu và bọn hăng gây lộn nhất phải xỏ rồi. Ông ta chậm chạp da cánh tay ra dấu, nói nho nhỏ: -Thôi đi? Đừng giỡn với lửa? Dẹp cái vụ vô lý đó đi.

(…) Từ khi dân chúng nhiễm những tục mới – đời sống vô kỷ luật, lăng nhăng, buôn bán náo nhiệt hơn, kiếm được nhiều tiền hơn – ngoài lão Tsigane tên là Soumba từ ba chục năm nay vẫn thổi ống sáo cổ lỗ để đưa vui trong mọi cuộc chè chén say sa của thị trấn, còn có thêm Frantz Fourlane cũng thường xách chiếc accordéon tới quán rượu của Zarié nữa. Gã gầy ốm, tóc hung hung, đeo một chiếc khuyên vàng ở tai bên phải, vốn làm nghề thợ mộc, nhưng rất thích đờn và rượu. Bọn lính và thợ ngoại quốc thích nghe gã kéo accordéon lắm.

Đôi khi cũng có một người hát dạo xách cây guzla tới quán. Thưởng là một người Monténégro, gầy như một nhà tu hành khổ hạnh, ăn bận tồi tàn, nhưng đi đứng chững chạc, mắt sáng, tuy đói phải làm cái nghề hành khất đó mà vẫn tự ái, dè dặt. Anh ta ngồi trong một góc, xa những người khác, ngó phía trước, làm bộ thản nhiên không biết gì cả, kiên nhẫn đợi xem có người bảo hát rồi mới do dự, lấy chiếc guzla trong túi ra, thổi vào cái cung kéo đàn xem nó có bị ẩm thấp mà chùng không, lên dây, sau cùng mím miệng cất tiếng hát bằng mũi, giọng ai oán mà đều đều.

Khi nào bọn chủ nhân trẻ và bọn công tử con các nhà trọc phú mà la cà, ngồi uống một hồi lâu, thì quán mới thực náo nhiệt. Những lúc đó Sumba, Franz Fourlane, thằng Chột và Chokha, mụ Tsigane mới có công việc.

Chakha lé mắt, trơ tráo, có tướng đàn ông, ai đãi rượu cũng uống, mà không bao giờ say. Không thể tưởng tượng một cuộc chè chén nào mà không có mụ và những lời pha trò táo bạo của mụ.

Tụi chơi bời thì thay đổi, hết bọn này tới bọn khác, những thằng Chột, Sumba và Chakha thì bao giờ cũng có mặt. Họ sống bằng đàn ca, đùa cợt, rượu rakia, bằng tiền vung phí của kẻ khác, lấy dêm làm ngày (…) Hạng người tàn bạo có thể chế giễu họ, đánh đập họ, hạng phá của mua quà cho họ; hạng khoe khoang mua chuộc lời nịnh bợ của họ; hạng rầu rĩ nghe họ pha trò, hạng trụy lạc nhờ họ kiếm mối. Họ thành một nhu cầu bất tuyệt mà lại không được chấp nhận của dân trong thị trấn. Bọn đàn ông đàn bà đờn ca, pha trò đó, thị trấn không lúc nào thiếu. Người nào kiệt sức mà chết thì có người khác thay liền. Nhưng phải lâu lắm mới có được một người như thằng Chột Salko.

Sau khi bị chiếm đóng, một gánh xiếc đầu tiên tới thị trấn, thằng Chột mê một thiếu nữ múa trên dây và vì ả mà nó làm biết bao nhiêu chuyện bậy bại kỳ cục, tới nỗi bị đánh đập, bắt giam, và bọn trọc phú xúi bậy nó hành động như vậy, phải nộp những số tiền phạt nặng.

Việc đó xảy ra đã mấy năm rồi, nhưng người ta vẫn nhắc mối tình si của nó với ả nọ.

Đã từ bao lâu nay, nó tận tụy để mọi người sai bảo, ban ngày thì làm bất cứ công việc gì, ban đêm thì uống rượu làm những trò nhố nhăng để bọn nhà giàu và các bậy mua vui. Hết thế hệ này tới thế hệ khác, hễ lớp trước chơi bời chán rồi, đổi tính, lập gia đình, hóa ra ngăn nắp, đứng đắn thì một lớp trẻ hơn lại theo vết xe của họ. Và ngày nay thằng Chột đã tiều tụy, già trước tuổi bớt làm lụng kiếm tiền mà la cà quán rượu nhiều hơn, xin tiền và rượu, ăn những đồ thừa thãi của bọn phú gia.

Những đêm thu mưa rỉ rả, bọn khách tụ hợp trong quán của Zarié uống rượu để tiêu sầu. Vài nhà trọc phú ngồi trước một cái bàn, vẻ mặt lạnh lùng lơ đãng, nghi ky. Tới rượu rakia cũng không làm cho họ vui được.

Thằng Chột ngủ gà ngủ gật trên một cái ghế dài trong một xó, vì mệt mỏi, vì không khí nóng mà ẩm thấp, và vì đã uống vài ly rakia, hôm nay nó đã đem hộ với món đồ gì đó tới tận Okolichté, bị mưa, ướt như chuột lột.

Bỗng, một ông khách ngồi ở bàn các phú gia, như vô tình nhắc tới mối tình tuyệt vọng của thằng Chột đối với ả múa trên dây trong gánh xiếc hồi trước. Mọi người đều ngó về phía thằng Chột, nhưng nó ngồi im, làm bộ vẫn ngủ. Sáng hôm đó nó quyết định rồi, từ rày họ muốn nói gì thì nói, muốn nhạo báng nó cay độc tới đâu cũng mặc, nó không để cho họ chơi nó những vố tàn nhẫn như vố nó đã bị tối hôm trước, cũng trong quán rượu này nữa.

Một người nói: -Hình như chúng nó vẫn tiếp tức thư từ với nhau.

Một người khác nói thêm: -Coi kìa, thằng điếm này đã có một mụ ở bên cạnh nó rồi mà còn gởi thư tình cho một người dàn bà khác nữa.

Thằng Chột ráng ngồi im, nhưng câu chuyện người ta nói về nó đó làm cho nó xúc động, nhột nhạt như ánh nắng chiếu vào mặt nó vậy. Nó ráng sức mở mắt ra, mặt nó tươi lên mỉm cười sung sướng. Nó không muốn ngồi yên, làm thinh nữa. Mới dầu nó hoa tay ra vẻ thản nhiên, rồi sau nó nói: -Truyện đó qua rồi.

- A, qua thật rồi sao? Bà con nè, thằng Chột kỳ cục này đáng tội thật chứ. Một mụ ở xa tít nơi nào đó ủ dột vì nó, còn ở đây một mụ khác hóa điên vì yêu nó. Nó bỏ mụ kia rồi, mụ này nó cũng sẽ bỏ rồi tới phiên một mụ thứ ba. Này thằng khốn nạn kia, mày làm cho hết mụ này mụ khác hóa điên vì mày như vậy, không sợ phải xuống địa ngục à?

Thằng Chột đã đứng dậy, lại gần bàn của họ. Nó đã quên giấc ngủ, quên mệt, quên cả quyết định sáng hôm đó là mặc thiên hạ nói gì thì nói, nó không đáp nữa. Nó đặt tay lên trái tim, cam đoan với bọn phú gia rằng nó không mê gái, không dụ dỗ đàn bà như người ta nói.

Quần áo nó còn ướt, mặt nó nhễ nhãi và dơ dáy nhưng nụ cười của nó hớn hở, cảm động. Nó ngồi xuống bên cạnh bàn các phú gia.

Santo Papo, một người Do Thái mập mạp, lanh lẹn mà cha là Mento và ông nội là Mordo Papo đều làm giàu về nghề bán đồ đồng, đồ sắt, lớn tiếng gọi bồi: -Một ly rhum cho thằng Chột.

Vì ít lâu nay, thằng Chột thích rượu rhum hơn rượu rakia, nó mạnh hơn, mau say hơn, ngon hơn rượu rakia. Rượu cho vào những chai nhỏ hai phần mười lít, ngoài dán nhãn in hình một thiếu nữ da đen lai trắng môi dày mắt long lanh, đầu đội một chiếc nón rơm lớn, tai đeo những chiếc khuyên vàng lớn, và ở dưới có chữ jamaique bằng mực đỏ. Mới nhìn hình thiếu nữ, nó đã cảm thấy cái hương và cái vị cháy cổ của rượu rồi, và nó nghĩ ngay rằng giá trời bắt nó chết một năm trước thôi thì nó không sao được hưởng cái thú trần tục đó. (A, trên thế giới này, có biết bao cái thú?). Nghĩ vậy, nó cảm động, cho nên mỗi khi khui một chai rượu thum thì bao giờ nó cũng ngừng tay một lát mà trầm tư, thích thú, rồi sau mới hưởng cái khoái cảm của rượu.

Lúc này cũng vậy nó giơ cái chai nhỏ ra trước mặt nh thì thầm những lời ngọt ngào gì với chai. Và ông phú gia đã gợi chuyện được nó, cất tiếng nghiêm khắc hỏi: -Rồi mày tính đối xử với thiếu nữ đó ra sao, hở? Có tính cưới người ta làm vợ không, hay là chơi bời lăng nhăng rồi bỏ người ta như mấy người trước?

Ông tả ám chỉ một thiếu nữ tên là Pacha ở Douchtché, hoa khôi của thị trấn, mồ côi cha, làm thợ thêu như mẹ.

Mùa hè trước, bọn trai trẻ Vichégrad thường nói tới Pacha và làm nhiều bài hát ca tụng nhan sắc của thiếu nữ mà không chàng nào ve vãn được đó. Lần lần, chẳng hiểu vì đâu và do cách nào, thằng Chột cũng đâm mê cô nàng như họ. Thế là thiên hạ bắt đầu chế giễu nó.

Một ngày thứ Sáu, để nghịch ngợm, bọn trẻ dắt nó ra khu ngoại ô, tới một ngôi nhà, đứng ở ngoài cửa và hàng rào sắt, họ nghe thấy tiếng cười và tiếng thì thầm của nhiều thiếu nữ mà họ không thấy mặt. Từ trong một cái sân có Pacha với vài cô bạn, có ai liệng một bó cúc vào chân thằng Chột. Nó xúc động, ngừng lại, để khỏi dẫm lên bó hoa, mà cũng không dám cúi xuống lượm. Bọn trẻ bèn vỗ lên vai nó, khen nó có số đào hoa: biết bao người ngấp nghé Pacha, nàng chẳng lựa ai mà lựa nó, chỉ mình nó được lọt vào mắt xanh của nàng.

Đêm đó, họ nhậu nhẹt ở quán Mezalin, bên bờ sông, dưới tàn những cây dẻ cho tới sáng. Thằng Chột ngồi bên bếp lửa, ngay ngắn, nghiêm trang, lúc thì vui và như xuất thần, lúc thì ưu tư, nghĩ ngợi. Người ta không bắt nó hầu bàn, dọn thức ăn và bưng cà phê như mọi đêm.

Một người bảo nó: -Này, thằng ngốc kia, mày có biết một bó cúc do bàn tay một thiếu nữ liệng ra, có ý nghĩa gì không? Nàng Pacha muốn bảo mày: em ủ rũ vì anh như đóa hoa rời khỏi cành này, mà anh không hỏi cưới em, cũng chẳng cho em lấy người khách Đó ý nghĩa như vậy đó.

Và mọi người nói với nó về nàng Pacha, thiếu nữ con một đó, trinh khiết, trắng trẻo, dáng đi uyển chuyển, như một chùm nho chín đong đưa trên đầu bức tường hàng rào, đợi người hái, mà người nàng đợi, chính là nó, thằng Chột.

Bọn trọc phú làm bộ nổi quạu, rên rỉ ầm ĩ: Làm sao mà nàng lại để mắt tới nó được kia chứ! Nhưng cũng có kẻ bênh vực nó. Còn nó thì nốc rượu, hoang mang, lúc thì tin ở phép màu đó, lúc lại gạt ra, cho là vô lý. Bọn trọc phú chế giễu nó, nó chối, ráng làm cho họ hiểu rằng Pacha yêu người khác chứ cái thứ nó nghèo khổ, già trước tuổi, xấu xí thì nước non gì, nhưng những lúc nó làm thinh thì nó lại mơ tưởng đến Pacha, đến vẻ đẹp của nàng, đến hạnh phúc nàng có thể ban cho nó, chẳng tự hỏi nó có vòi được tới nàng hay không. Mà trong cái đêm hè tuyệt đẹp đó, rượu, tiếng ca và ngọn lửa trên cỏ làm cho trời đất thêm mênh mông bát ngát, thì cái gì cũng có thể xảy ra được, cái gì cũng hư hư, thực thực, mà không có cái gì là huyễn hoặc, là hoàn toàn vô lý cả!

Bọn trọc phú chế giễu nó, nó biết lắm, các ông ấy không thể sống mà không cười giỡn được, phải trêu chọc người nọ người kia, làm cho người ta thành một thằng hề cho các ông ấy cười, từ xa tới giờ vẫn vậy mà … Các ông ấy, cái gì cũng đem ra làm trò đùa, cả cái vụ này nữa, nhưng nó thì nó tin là thực, là một cái gì thiêng liêng, ấp ủ từ lâu trong lòng.

Thế là ba năm sau lần nó si tình cô ả Boche múa trên dây, khiến cho cả thị trấn bàn tán xôn xao, bây giờ nó lại say đắm như bị bỏ bùa mê một lần nữa, và bọn giàu có ăn không ngồi rồi kia lại đem nó ra làm một trò chơi khá tàn nhẫn, kích thích, để cười giỡn hằng tháng hằng năm.

Lúc đó vào giữa mùa hè. Rồi thu qua, đông tới, tối nào dân chúng trung tâm thị trấn cũng đem truyện thằng Chột thầm yêu trộm nhớ nàng Pacha diễm lệ ra mà đùa cợt cho ngày bớt dài. Người ta không gọi nó là thằng Chột nữa, mà gọi là “anh chàng kiếm vợ” và “gã si tình.”

Ban ngày nó làm các việc sai vặt trong các cửa tiệm, và chở đồ nghe ai gọi nó như vậy thì ngạc nhiên, bực mình lắm, và chỉ nhún vai thôi. Nhưng khi đêm tới, quán rượu của Zarié lên đèn, có khách nào la: -Một ly rhum cho thằng Chột.

Thì một người khác bắt đầu như ngẫu nhiên, hát nho nhỏ.

Tới giờ tụng niệm buổi chiều, mặt trời lặn rồi.

Không còn chiếu lên mặt em nữa

Và tức thì, mọi sự bỗng nhiên thay đổi. Không còn gánh nặng, không còn thị trấn, không còn quán rượu, không còn cả thằng Chột râu ria lởm chởm, lạnh run trong bộ quần áo tả tơi của thiên hạ cho nữa. Chỉ còn có một mái hiên cao dưới ánh tà dương, với một giàn nho và một thiếu nữ ngong ngóng người đàn ông sắp qua để liệng cho người đó một bó cúc. Dĩ nhiên, chung quanh cũng có tiếng cười nói ồn ào, lời nhận xét này nọ, lời chế giễu thô tục, nhưng những cái đó văng vẳng ở đâu xa, như trong sương mù, còn tiếng hát kia thì ở sát bên tai nó:

Nếu anh có thể sưởi ấm

Dưới ánh mặt trời nho nhỏ bên cạnh em

Và mặt trời đã lặn kia đương sởi ấm nó hơn cả những lần nó ngồi dưới ánh nắng thật.

- Một ly rhum cho thằng Chột!

Thế là qua được những đêm đông. Khoảng cuối đông Pacha về nhà chồng. Cô thợ thêu nghèo ở Douchtché, hoa khôi chưa đầy mười chín cái xuân xanh mà làm vợ bé một ông già năm mươi lăm tuổi, giàu có, danh vọng ở sau pháo đài, ông Khadji Omer.

Ông đã có vợ từ ba chục năm trước. Bà vợ dòng dõi vọng tộc, nổi tiếng là khéo léo và thông minh. Đất đai của họ ở sau pháo đài là cả một xóm thịnh vượng, đủ các phú nguyên; các cửa tiệm ở thị trấn đều xây cất bằng gạch đá, lợi tức chắc chắn và lớn lao. Mà cả sự nghiệp đó do công lao của bà vợ lanh lẹn, thông minh, lúc nào cũng tươi cười hơn là của ông chồng thuần hòa chậm chạp mỗi ngày chỉ có việc cỡi ngựa đi đi về về hai lần từ pháo đài tới chợ. Các phụ nữ Thổ trong thị trấn và miền chung quanh đều cho ý kiến của bà vợ trong nhiều vấn đề là chìm mực, thích hợp hơn cả, không còn bàn gì thêm nữa.

Về mọi phương diện, gia đình đó danh giá nhất, được trọng vọng nhất, nhưng hai ông bà già rồi mà không có con, vẫn ước ao, hy vọng từ lâu sẽ có người nối dõi, Khadji Omer đã hành hương cả ở La Mecque. Bà vợ thì làm phúc cho người nghèo và cúng tiền vào các tu viện Hồi giáo. Ngày tháng trôi qua, của cải tăng lên, làm ăn thịnh lên, mà nỗi ước ao chính kia thì vẫn không được trời cho toại nguyện. Hai ông bà ráng sáng suốt kiên nhẫn chịu số phận muộn màn. Nhưng bây giờ thì hết hy vọng có con nối dõi rồi. Bà vợ đã bốn mươi lăm tuổi. Di sản lớn lao kia sẽ để lại cho ai đây Chẳng những họ hàng bên ông, họ hàng bên bà, mà hầu hết cả thị trấn đều thắc mắc về điều đó. Kẻ thì ước ao ông bà tới chết cũng không có con; kẻ lại cho là gia tài đó sau phải phân tán, chia cho họ hàng thì uổng quá, nên họ thuyết phục ông kiếm một người vợ trẻ, trong khi tuổi ông cha quá cao, như vậy còn có hy vọng. Các người Thổ trong thỉ trấn chia làm hai phe như vậy.

Và chính bà Khadji Omer giải quyết vấn đề. Trong việc này cũng như trong mọi việc khác, bà tỏ ra cương quyết thành thực, và bà nói với chồng: -Nhờ trời, chúng ta có đủ hạnh phúc: Vợ chồng hòa hợp, khỏe mạnh, lại giàu có, Trời chỉ không cho chúng ta một mụn con như mọi gia đình nghèo; khi chúng mình trăm tuổi rồi thì cả Bản nghiệp về ai đây? Trời đã bắt tôi không sinh nở được thì tôi phải chịu, nhưng còn ông thì không nên. Tôi thấy cả thị trấn lo lắng vì chúng mình và muốn ông có vợ bé. Họ đã muốn vậy thì thà để tôi cưới cho ông, ai mà thân với ông bằng tôi.

Rồi bà trình bày kế hoạch: ông sẽ cưới một người vợ trẻ hơn, luật pháp cho phép vậy; dĩ nhiên bà vẫn ở với ông, như người nội tướng già, coi sóc cho mọi sự được đâu vào đấy. Ông không chịu, bảo không sao tìm được người vợ hiền như bà, mà ông không muốn có một người vợ trẻ hơn, nhưng bà cứ nói riết, rồi lại cho ông biết đã lựa được cho ông người nào nữa. Muốn có con thì cần lựa một thiếu nữ khỏe mạnh, đẹp, nghèo: Về nhà mình họ sung sướng thì mới mang ơn mình suốt đời. Và bà đã lựa nàng Pacha diễm lệ, con một người thợ thêu ở Douchtché.

Và việc xảy ra như vậy. Theo lời vợ, ông Khadji Omer cưới nàng Pacha. Mười một tháng sau, nàng sanh một em trai kháu khỉnh. Thế là giải quyết xong vấn đề người kế thừa, hy vọng của nhiều bà con thân thích tiêu tán; mà miệng đời không nói ra nói vô được nữa. Pacha sung sướng, bà Khadji Omer mãn nguyện và hai người hòa thuận với nhau như mẹ và con.

Giải pháp mỹ mãn đó gây nỗi đau khổ lớn lao cho thằng Chột và mùa đông đó, bọn ăn không ngồi rồi ở quán rượu Zarié đem chuyện thất tình của nó ra làm trò đùa. Người ta cho nó uống rượu, tức là bỏ tiền ra để mua một trận cười chảy nước mắt. Để giễu nó, họ bịa chuyện ra rằng nàng Pacha nhắn họ cho nó hay nàng khóc suốt ngày suốt đêm, ủ dột vì nó mà không dám tỏ rõ nguyên nhân cho ai hay. Và thằng Chột hóa điên, ca hát, khóc lóc nghiêm trang trả lời tỉ mỉ từng câu hỏi, than thân trách phận, rằng sao trời sinh ra nó xấu xí và nghèo khổ như vậy.

Một gã trọc phú mở đầu câu chuyện, hỏi nó: -Này, Chột, mày trẻ hơn ông Khadji Omer bao nhiêu tuổi nhỉ?

- Tôi đâu biết được. Mà trẻ hơn để làm gì chứ?

Nó chua chát đáp như vậy.

Một người ngồi bên nói xen vào: -Nếu xét theo tấm lòng và tình yêu thì ông Khadji Omer đâu được hưởng cái đó và thằng Chột của chúng ta đâu phải ngồi đây.

Mà thằng Chột dễ xúc động mủi lòng lắm. Người ta rót hoài rượu rhum cho nó, cạn ly này tới ly khác, bảo nó chẳng những trẻ hơn, bảnh trai hơn mà lại được nàng Pacha quí mến hơn, và xét cho cùng nó có nghèo khổ như người ta tưởng, như cái bề ngoài đó đâu. Trong những đêm dài đó, ngồi trước ly ra kia, bọn ăn không ngồi rồi kia bịa ra cả một truyện. Cha thằng Chột là một sĩ quan Thổ vô danh nó chưa bao giờ thấy mặt. Ông ta để lại những đất đai mênh mông ở Anatolie cho người con hoang ở Vichégrad là nó, người kế thừa duy nhất của ông, nhưng bà con họ hàng ở Anatolie đã ngăn cản, không cho thi hành di chúc. Nó chỉ cần đích thân tới thị trấn Brousse xa xôi và phong phú, phá các âm mưu của bọn kế thừa giả ngụy đó đi mà lấy lại di sản của cha nó để lại. Lúc đó nó chỉ bỏ ra một phần nhỏ gia tài cũng đủ mua cả ông Khadji Omer lẫn sản nghiệp người ta cứ đồn là lớn lao của ông ta nữa.

Thằng Chột nghe họ nói, nốc rượu rồi thở dài. Cái đó làm cho nó đau lòng thật, nhưng đồng thời nó cũng thích thích mà cảm thấy và tỏ ra rằng nó bị người ta lừa gạt, cướp giật ở đây cũng như cái xứ đẹp đẽ, xa xôi kia quê hương của cha nó. Thế là bọn họ làm bộ chuẩn bị cho nó đi Brousse. Họ chế giễu nó thật dai, thật tàn nhẫn, sửa soạn, tính toán từng chi tiết một.

Một đêm, họ đem lại một tờ giấy bảo là tờ thông hành, lôi nó ra đứng giữa quán rượu, bắt nó quay qua quay lại, ngắm nghía nó, ghi trên tờ thông hành những đặc biệt về tướng mạo của nó đùa cợt thô tục, cười hô hố. Lần khác họ tính xem đi Brousse phải mang theo bao nhiêu tiến nó sẽ đi cách nào, ngủ đêm lại ở đâu. Thế là qua được già nửa đêm.

Hễ chưa uống rượu vào thì nó chống cự lại: Nó tin mà không tin hết những điều họ nói. Nó ngờ nhiều hơn là tin. Đúng ra, khi chưa có men rượu thì nó không tin. Nhưng khi đã say rồi thì nó có vẻ như tin. Nó không tự hỏi lời nào đúng, lời nào là đùa cợt, nói láo. Sự thực là ngay từ chai rhum thứ nhì, nó đã ngửi thấy một ngọn gió thơm tho từ thị trấn Brousse xa xôi kia thổi lại, và nó thấy, thấy rõ rệt những vườn xanh với dinh thự trắng của nó. Đúng vậy, nó đã bị lừa gạt, khốn khổ từ hồi mới sanh, khốn khổ về mọi mặt, từ gia đình tới của cải và tình yêu, người ta làm hại nó, hại nó quá lắm tới nỗi cả Trời và người đều mắc nợ nó. Chắc chắn rồi, nó không phải như vầy đâu. Càng uống vào nó càng thấy phải nói ra vậy cho mọi người chung quanh hiểu, nếu không thì đau lòng lắm, chịu không nổi. Và nó giảng giải suốt đêm bằng những lời nghẹn ngào, những cử chỉ lố bịch, mà nước mắt ròng ròng, nước mắt của một tràng say rượu. Nó càng giảng giải thì những người chung quanh càng cười và chế nhạo nó. Họ thích chí cười tới nỗi sườn họ phồng lên, hàm răng họ kêu rắc rắc, một người cười thì cả bọn cùng cười, không nhịn được, thú hơn là ăn các món ngon nhất, uống những thứ rượu quí nhất. Họ cười mà quên được cái buồn đêm đông và cùng với thằng Chột, họ uống không chừng đỗi gì nữa.

Mékhaga Saratch có một vẻ lạnh lùng làm bộ nghiêm trang có tài chọc tức, khiêu khích thằng Chột nhất: -Tự tử đi mày! Không giật được con Pacha khỏi tay lão già tàn tật Khadji Omer đó thì mày không đáng sống nữa. Tao khuyên nên tự tử đi, Chột.

Thằng Chột than thở: -Tự tử đi, tự tử đi. Bộ anh tưởng lôi không nghĩ tới điều đó sao? Cả trăm lần rồi, tôi lại cái kapia, muốn đâm đầu xuống sông Drina, mà lần nào cũng có cái gì làm cho tôi quay trở về.

- Cái gì làm cho mày quay về? SỢ chứ gì? Mày sợ cùng mình rồi, Chột ơi?

Không, có trời chứng giám, không phải sợ, không phải sợ!

Trong cảnh cười nói ồn ào của khán giả, nó nhảy lên tự đấm vào ngực, bẻ một miếng bánh ở trước mặt nó, dí vào mặt lạnh lùng, không khúc khích của Mékhaga: -Anh thấy cái này không? Tôi thề rằng tôi không sợ nếu tôi nói sai thì tôi không có bánh ăn nữa, tôi sẽ lụn bại …

Lúc đó, bỗng có người hát nho nhỏ: Mặt trời không còn chiếu lên mặt em nữa

Và mọi người đồng thanh hát lại câu đó, át cả tiếng quát tháo của Mékhaga: -Tự tử đi mày, Chột

Hát lên như vậy, chính họ cũng bị khích động không kém thằng Chột và rốt cuộc thành một bọn điên.

Một đêm tháng Hai, họ cũng hóa điên như nạn nhân của họ, rồi thành nạn nhân của trò điên của chính họ, họ thức cho tới sáng, rồi dắt nhau ra khỏi quán rượu. Rượu làm cho họ nóng bừng lên, mạch máu căng lên, họ lảo đảo như bọn lên đồng, tiến về phía cầu, giờ đó gần nh vắng ngắt và phủ đầy một lớp giá mỏng.

Họ cười nói huyên thuyên, chẳng quan tâm tới lời dị nghị của vài người sáng sớm qua cầu, mà thách đố nhau: Ai dám di trên cái thành bao lơn hẹp bằng đá long lanh một lớp giá mỏng, từ đầu tới cuối cầu?

Một người say rượu bảo: -Thằng Chột dám đấy.

- Thằng Chột mà dám? Không đời nào

Thằng Chột vỗ ngực đồm độp, hét lên: -Bảo ai không dám? Tôi chăng? Này, anh coi này, cái thằng tôi này có dám làm cái việc mà không ai dám làm đó không này.

- Mày đâu có đủ can đảm? Nếu dám thì làm đi coi?

- Dám chứ, sao không?

- Phải, thằng Chột dám làm mà!

- Không. Nó nói láo đấy!

Bọn người say rượu đua nhau hò hét, khoác lác như vậy mặc dầu cầu rộng thênh thang mà họ bước không vững, lảo đảo, sẩy chân và phải níu chặt lấy nhau.

Họ không biết thằng Chột leo lên thành bao lơn lúc nào. Bỗng nhiên họ thấy nó đong đưa ở trên cao, say bí tỉ quần áo xộc xệch, ráng giữ thăng bằng mà bước trên những phiến đá lát của thành cầu.

Thành cầu rộng hai gang tay. Nó tiến tới, lúc nghiêng qua bên trái, lúc nghiêng qua bên phải. Bên trái là lòng cầu và tại đó ở dưới chân nó, một đám người say rượu đi theo nó từng bước một, la lớn với nó những gì mà nó không nghe ra, chỉ thấy om sòm thôi.

Còn bên phải là khoảng trống, ở dưới sâu hút kia, dòng sông chảy ào ào, mà nó không thấy, chỉ thấy một đám hơi nước như khói trắng, bốc lên trong buổi bình minh lạnh lẽo.

Vài người qua cầu kinh hoảng ngừng lại, trố mắt ngó con người say rượu đó không đi trên cầu mà đi trên thành cầu vừa hẹp vừa trơn, hai cánh tay đập đập một cách tuyệt vọng để giữ thăng bằng. Và trong đám người say rượu đó, kẻ nào còn tỉnh táo một chút thì đứng trân trân như vừa mới thoát khỏi một cơn ác mộng mặt mày tái mét vì sợ, ngó trò chơi nguy hiểm đó. Bọn kia không thấy nguy hiểm, đi theo thằng Chột, vừa đi vừa la ó. ở trong tình thế nguy hiểm đó, thằng Chột bỗng cảm thấy cách biệt bọn kia. Nó như một quái vật khổng lồ ở trên dầu họ. Mới đầu nó thận trọng bước chậm chạp. Đôi giày nặng của nó trợt trên những phiến đá phủ một lớp giá. Nó có cảm tưởng chân nó chạy ở dưới thân thể nó, khoảng trống thăm thẳm kia thu hút mãnh liệt không chống lại được, này nó sắp té, nó té rồi này.

Nhưng sự nguy hiểm- làm cho nó có những mãnh lực mới, một năng lực mà từ trước nó không ngờ. Phải gắng sức giữ thăng bằng, nó nhảy nhảy mỗi lúc mỗi nhanh hơn, và khòm lưng xuống hơn, đầu cúi rạp xuống ngang đầu gối. Chính nó cũng không hiểu bằng cách nào mà bây giờ nó không đi nữa, mà nhảy nhót từng bước ngắn một không lo ngại gì cả, như thể đi trong một khu rừng thưa thênh thang chứ không phải trên một thành cầu hẹp đầy giá. Bỗng dưng nó hóa ra nhẹ nhàng, uyển chuyển, như đôi khi người ta thấy trong mộng. Thân thể nặng nề và kiệt lực của nó bây giờ như thoát khỏi trọng lực. Thằng Chột say rượu nhảy múa, chơi vơi, phất phơ trên vực thẳm như có cánh. Nó cảm thấy có một sức mạnh gì vui vẻ phát từ thân thể ra đồng thời với một điệu nhạc nào đó khiến nó an toàn, giữ được thăng bằng mà bước theo âm thanh của điệu nhạc. Nhờ nhảy múa mà nó tiến được chứ nếu đi thì đã té rồi. Và không nghĩ tới nguy hiểm, không sợ té nữa nó nhảy chân này rồi chân kia, miệng ca hát, tay dang ra như chính nó gõ một cái trống nhỏ để đánh nhịp cho khúc hát của nó vậy:

Tiriđam, tiriđam, tiriđiriđiriđiriđam, tiriđam, tiriđam …

Nó hát, tự tạo một nhịp điệu riêng để vừa nhảy múa vừa tiến trên con đường nguy hiểm. Nó nhún chân, nghiêng đầu qua bên phải, bên trái.

Tiriđam, tiriđam … a, a!

Trong tình thế đặc biệt, nguy hiểm đó, đứng trên cao hơn mọi người, nó không còn là thằng Chột pha trò cho thị trấn và cho quán rượu nữa. Nó không đi trên thành cầu bằng đá, hẹp và trơn này nữa … Không, đây là cuộc hành trình xa xôi và không thực hiện được mà người ta nói với nó mỗi tối trong quán nước. Đây là con đường sáng sủa đưa nó tới thị trấn Brousse phong phú, nơi có di sản cha nó chính thức để lại cho nó, có mặt trời đã lặn kia, có nàng Pacha với đứa con của nàng, có vợ nó và con nó.

Nhảy múa trong trạng thái xuất thần, nó đi hết cái đoạn bao lơn gie ra ngoài, chung quanh cái bệ, rồi qua hết được cầu. Tới cuối cầu, nó nhảy xuống lòng cầu, rất xúc động ngó chung quanh, kinh dị rằng cuộc mạo hiểm thế mà xong, và ngạc nhiên rằng nó đương ở trên con đường đa tới Vichégrad chứ không phải tới Brousse. Bọn người reo hò đi theo nó, khuyến khích nó khôi hài, chế nhạo nó, tức thì bu lại tiếp đón nó. Cả người kinh hoảng đã ngừng lại đứng trân trân lúc nãy, cũng chạy lại. Họ ôm nó, vỗ vai và vỗ lên chiếc mũ fez đã phai màu của nó, đồng thanh hoan hô: -Thằng Chột giỏi quá?

- Hoan hô người đã thắng cuộc!

Santo Papo tưởng mình còn ở trong quán rượu, dang tay ra như bị treo lên thánh giá la lớn bằng một giọng ồ ồ lơ lớ giọng Y Pha Nho: -Một ly rhum cho thằng Chột nào!

Có người đễ nghị đừng ai ra về cả mà tiếp tục một chầu rượu nữa để mừng kỳ công của thằng Chột.

Mấy em học lớp tám hay lớp chín sáng đó bước vội qua cầu phủ đầy giá để tới trường ở xa, ngừng lại nhìn cảnh tượng dị thường đó. Chúng kinh ngạc há hốc miệng, hơi thở từ trong miệng bay ra, trăng trắng; chúng co ro trong bộ áo ấm bảng đá và sách vở cắp nách.

Chúng không hiểu được trò chơi của người lớn đó, nhưng suốt đời không quên được đường nét của chiếc cầu, hình ảnh của thằng Chột mà chúng đáu có lạ mặt, nhưng sao hôm đó đã biến hóa như có ma thuật, nhẹ nhàng, bạo dạn, vui vẻ nhảy nhót trên thành cầu, chỗ mà người ta cấm không cho đi và bình thường cũng không có ai đi.

Chú thích:

[83] Bệnh đau nhói ở tim, nguy hiểm.