Chương XXIII
Vì bị bắn phá liên tiếp, ban ngày trên cầu rất thưa thớt người qua lại: Người thường qua cầu thong thả, quân nhân vừa qua vừa chạy, từng người một và hễ có một bọn hơi đông đông là tạc đạn từ núi Panos nã xuống liền. Sau vài ngày mới hơi điều hòa trở lại. Người ta đã đế ý nhận ra giờ nào lạc đạn trút xuống nhiều, giờ nào thưa thớt hơn và giờ nào thì ngừng hẳn, và người ta theo đó mà qua cầu làm những công việc gấp nhất khi nào không bị bọn lính tuần áo ngăn cấm.
Giàn súng trên núi Panos chỉ bắn ban ngày, nhưng những súng bắn trái phá khai hỏa cả ban đêm để ráng ngăn Áo chuyển quân, ngăn các đoàn quân xa qua lại hai đầu cầu.
Những người có nhà ở trung tâm thị trấn, gần cầu hoặc gần đường cái, đã dời gia đình lại khu Meidan hoặc những khu khác yên ổn hơn, ở nhờ các bà con hay bạn bè để tránh đạn. Cuộc chạy trốn với bầy trẻ và những vật cần thiết nhất đó làm cho ta nhớ lại những đêm mệt nhọc hồi bị cơn lụt lớn.[123] Nhưng lần này những người tôn giáo khác nhau không sống lẫn lộn với nhau, không có tình đoàn kết trong tai nạn chung nữa, không họp nhau lại dể tìm cách nâng đỡ, an ủi nhau trong câu chuyện như trước nữa. Người Thổ tản cư lại các nhà Thổ, người Serbie bị hất hủi như mắc bệnh dịch hạch, tìm vô ở nhờ những gia đình Serbie. Mặc dầu chia rẽ nhau như vậy, họ sống đại khái cũng như nhau: chen chúc trong các nhà lạ, họ không biết làm gì cho hết ngày, lúc nào cũng ưu tư, rầu rĩ. Ở không, hai cánh tay lủng lẳng như bọn bị nạn, họ lo ngại cho đời sống, không biết của cải còn không, đau khổ vì những ý muốn trái ngược nhau, mà dĩ nhiên ai cũng giấu giếm, không dám thổ lộ cho nhau (…)
Ban đêm mọi người đều làm bộ ngủ mặc dầu chẳng ai nhắm mắt được cả. Người ta thì thầm nói với nhau tuy không cần phải thận trọng như vậy. Đại bác Serbie hoặc Áo nổ ầm ầm liên tiếp. Niềm sợ “ra dấu cho địch” xâm nhập mọi tâm hồn mà chẳng ai biết ra dấu cách nào và thế nào là ra dấu. Người ta sợ đến nỗi không dám đốt một cây quẹt. Khi muốn hút thuốc thì bọn đàn ông phải vô những phòng nhỏ xíu không có cửa sổ, rồi khép kín cửa lại hoặc lấy chiếc mền trùm đầu rồi mới hút. Trời nóng và hầm. Mồ hôi như tắm, mà cửa lớn, cửa sổ đều khép, rồi lại che kín nữa, Thị trấn như một kẻ khốn nạn, không tránh được các cú đấm, đành đưa tay lên che mắt rồi chịu trận, mà đợi … Ai muốn sống thì phải giả đò chết, mà ngay cách đó không phải lúc nào cũng công hiệu.
Trong các gia đình Hồi giáo, không khí sinh động hơn, người ta thấy dễ chịu hơn … Nhưng người ta cũng có nhiều nỗi lo ngại lớn lao, giấu kín, và cũng gặp những điều bất hạnh không sao gỡ thoát được.
Trong nhà ông Ali Hodja ở phía dưới đồi, có cả một trường học. Đám con của ông đã đông rồi, lại thêm chín đứa của Mouiaga Moutapdjitch mà chi có ba đứa là lớn, tất cả những đứa khác còn nhỏ cả, sanh cách nhau đều đều cứ đứa sau đứng ngang tai đứa trước. Để khỏi phải coi chừng chúng và mỗi lúc lại gọi chúng ở trong sân, người ta nhốt chúng với những đứa con của Ali Hodja trong một căn phòng rộng mát mẻ, tại đó mẹ chúng, chị chúng gần như phải vật lộn với chúng trong tiếng la hét om sòm.
Ông Mouiaga Moutapdjitch ở Oujitsé, đó là một người cố cựu trong thị trấn. Ông cao lớn, ngoài năm chục tuổi, tóc đã hoa râm hết, mặt nhăn nheo, có vẻ già hơn Ali Hodja mặc dầu còn kém mười tuổi. Ông ngồi nhà với Ali Hodja, hút hết điếu này tới điếu khác, nói rất ít lúc nào cũng có vẻ suy tư. Không ngồi yên một chỗ. Đứng dậy, ra phía trước nhà hoặc ra sân nhìn những ngọn đồi chung quanh thị trấn, ở bờ bên kia và bên đây con sông. Ông ngửng đầu lên nhìn chân trời như xem trời có sắp mưa không. Ali Hodja không bao giờ để ông ta một mình, luôn luôn tìm cách an ủi ông, cũng ra sân với ông.
Trong khu vườn đẹp, rộng nhưng dốc hơi đứng đó, là cảnh yên tỉnh giữa mùa hè. Người ta đã cắt những cây tỏi tây và trải trên đất; các cây hướng dương đương thời phát, ong vo ve chung quanh vành cánh hoa nặng và đen. Đứng ở chỗ cao đó nhìn xuống thấy thị trấn trải ra ở ngã ba hai con sông Drina và Rzav như một cái chàng nạng, chung quanh là một vòng đồi chỗ cao chỗ thấp, hình dáng khác nhau: Trong lòng chảo chung quanh thị trấn, những đám lúa mạch chín vàng xen với những ruộng bắp xanh tươi. Những nhà sơn trắng lấp lánh dưới ánh nắng, còn rừng thì thành từng đám sẫm ở trên ngọn đồi. Tiếng súng hai bên đã thưa và ở đây nghe chỉ như tiếng súng vô hại trong một ngày hội.
Mouiaga mặc dầu đăm chiêu, mà lúc này cũng đáp lại những lời an ủi của Ali Hođja và kể lể số phận của mình. Ali Hodja đã biết cả rồi, nhưng dưới ánh nắng này, Mouiaga phải trút nỗi lòng nó làm nghẹn ở cổ ông muốn nghẹt thở, với lại số phận. đó quyết định ở tại đây do mỗi tiếng súng hai bên nổ trong ngày hè này. Ông ta chưa đầy năm tuổi thì các người Thổ phải rời những thị trấn ở Serbie. Những người khác đi qua Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng thân phụ ông, Souliaga Moutapdjitch, hồi đó còn trẻ mà đã có danh vọng vào bậc nhất trong số những người Thổ ở Oujitsé, quyết định ở lại Bosnie, nơi mà tổ tiên đã lập nghiệp từ lâu. Ông cụ bán hết nhà cửa, ruộng đất ở Oujitsé chất mấy đứa con nhỏ vào trong cái gùi, rồi cùng với vài trăm người khác trốn ra khỏi châu thành qua Bosnie vẫn còn thuộc chính quyền Thổ, định cư ở Vichégrad, nơi có một chi họ Moutapdjítch ở Oujitsé. Cụ làm ăn khoảng mười năm, địa vị bắt đầu vững trong khu thương mại thì xảy ra vụ Áo chiếm đóng. Một năm sau cụ lại dắt cả vợ con, cùng với vài gia đình khác, rời xứ Bosnie – vì không muốn sống trong một xứ có “tiếng chuông nhà thờ” – lại ở Nova Varoch trong miền Sandjak (Lúc này Mouiaga đã trên mười lăm tuổi). Ở đây Souliaga Moutapdjitch lại buôn bán, sanh được mấy người con nữa, nhưng lúc nào cũng buồn rầu vì tiếc sản nghiệp ở Oujitsé và vì không quen được lối sống cùng những người lạ ở Sandjak. Vì vậy mà cụ mất sớm. Mấy người con gái của cụ đều có nhan sắc, lại nết na, nên cưới được chồng danh giá. Mấy người con trai khuếch trương sản nghiệp của cha, kẻ trước người sau, lập gia đình cả rồi. Đúng lúc họ đâm rễ sâu trong đất mới đó, thì chiến tranh Balkan năm 1912 xảy ra. Mouiaga gia nhập bộ đội Thổ ở gần Nova Varoch, kháng chiến với Serbie và Monténégro. Cuộc kháng chiến tuy không lâu, cũng gọi là mạnh mẽ được nhưng rồi thời cuộc do đâu đâu quyết định, đội quân Thổ phải rút ra khỏi Sandjak. Không thể sống với kẻ thù mình vừa mới kháng cự mà không thắng lợi lại không thể trốn qua một xứ nào khác, Mouiaga đành trở về Bosnie sống dưới chính quyền mà thân phụ mình trước kia đã trốn lánh. Thế là chạy loạn lần này là lần thứ ba, ông cùng với vợ con trở lại thị trấn này nơi ông đã sống thời nhỏ.
Nhờ có ít tiền mặt và được một số người Thổ bà con ở Vichégrad giúp, trong hai năm gần đây, ông ráng gây dựng cơ sở làm ăn. Nhưng gặp phải thời buổi khó khăn, bấp bênh, ngay những kẻ bề thế đã vững vàng mà kiếm được đồng tiền còn khó khăn thay. Ông sống cực khổ nhờ số tiền mặt, đợi một thời khá hơn, yên ổn hơn, thì bây giờ xảy ra cơn giông tố này, không biết làm gì khác là lo lắng theo dõi sự diễn biến của nó và sợ sệt đợi xem nó kết thúc ra sao.
Hai người kể lể tâm sự với nhau nho nhỏ và nhát gừng ở khu vườn đó … Ali Hodja rất quí mến Mouiaga, một người Hối giáo chân chính, tìm lời để an ủi. Mouiaga ngồi hút thuốc: Đúng là hình ảnh một người phiền muộn về số phận. Mồ hôi đóng giọt trên trán và thái dương ông, đọng lại, mỗi lúc một lớn, một nặng, lấp lánh dưới ánh nắng rồi chảy trên má nhăn nheo của ông, nhưng ông không cảm thấy mà cũng không chùi. Mắt ông lờ đờ nhìn đám cỏ trước mặt, ông đăm chiêu lắng nghe những suy tư trong lòng ông nó còn mạnh mẽ, ồn ào hơn cả tiếng súng lớn nhất nữa. Thỉnh thoảng ông mới đưa tay khoát khoát, nói vài lời như để nói với lòng mình hơn là trả lời bạn: -Bác Ali Hodja ạ, đã tới cái nông nỗi không còn biết chui rúc vào dâu nữa rồi. Chỉ có Thượng Đế biết cho, tiên nghiêm tôi và tôi đã tận lực giữ tôn giáo và phong tục Hồi của chúng mình. Ông nội tôi mất ở Oujitsé; có lẽ ngày nay không còn nấm mồ nữa. Tôi đã chôn cha tôi ở Nova Varoch và bây giờ tôi không biết mồ mả của người có bị bọn trâu ngựa Ki tô giáo đó giày xéo không. Trước kia tôi nghĩ ít nhất cũng có thể chết ở đây, nơi còn được nghe tiếng gọi cầu nguyện[124], nhưng hình như số phận đã định rồi, dòng dõi chúng tôi sẽ tuyệt tự và không còn ai biết mồ mả tổ tiên ở đâu nữa. Mà chính Thượng Đế muốn vậy, phải không bác? Tôi thấy không còn biết đi nơi nào khác, nữa … Vì tôi biết làm gì bây giờ? Đi theo Nail Bey và đoàn Schutzkorps để chết với một cây súng Boche trong tay, tôi thấy như vậy nhục nhã cái kiếp này và cả cái kiếp sau quá; hay là cứ ngồi bó tay như vầy, đợi tụi Serbie tới rồi nhận cái thân phận mà trong năm chục năm nay gia dình tôi đã trốn tránh từ nơi này tới nơi khác?
Ali Hodja định nói vài lời an ủi, thì giàn đại bác ở trên núi đá Boutko nổ vang tức thì đại bác ở núi Panos cũng đáp lại, cả đại bác ở Golech nữa. Đạn đủ cỡ bay ngang trên đầu họ, khá thấp, như những đường cạnh của một tấm vải, tiếng veo véo nghe thê thảm, thót ruột lại, mạch máu bị ép lại, đau nhói. Ali Hodja đứng dậy, rủ bạn vào núp tạm dưới mái hiên, và Mouiaga theo ông như một người thụy du.
Trong những ngôi nhà Serbie chen chúc chung quanh giáo đường trên khu Meidan, trái lại, không ai phàn nàn về dĩ vãng, lo ngại cho tương lai mà chỉ sợ sệt và chịu đựng nỗi khổ hiện tại. Có cái tâm trạng kinh ngạc đặc biệt, âm thầm, luôn luôn còn xâm chiếm lòng người sau khi mới qua một cơn khủng bố dữ dội bị bắt giam, bị thủ tiêu chẳng có lệnh trên cũng chẳng đem xử gì cả.
Nhưng trong cảnh kinh tâm táng đởm đó luôn luôn người ta bí mật thám thính cũng như trên trăm năm trước, khi nghĩa quân nổi lửa trên núi Panos; người ta cũng hy vọng, thận trọng như hồi đó, cũng cương quyết chịu đựng hết thảy nếu không có cách gì khác, cũng tin tưởng rồi rốt cuộc sẽ có một lối thoát may mắn.
Bọn cháu chắt của những người trước kia cũng bị nhốt trong nhà trên ngọn núi này, lo lắng, ngạc nhiên mà xúc động lắng nghe tiếng súng của Karageorges từ ngọn núi Veletovo vẳng xuống, bây giờ nghe trong đêm tối nóng hầm, tiếng tạc đạn gầm trên đầu mình như tiếng sấm mà đoán được tiếng nào là tạc đạn Serbie, tiếng nào là tạc đạn Đức, rồi đặt tên riêng cho chúng, thốt những lời âu yếm nếu là phía mình hoặc nguyền rủa, nếu là phía Đức. Tạc đạn bay cao và rớt xuống những miền chung quanh thì họ mới có những cử chỉ, ngôn ngữ như vậy; nếu tạc đạn rớt xuống cầu hay thị trấn thì họ bỗng im bặt, đương nói cũng ngừng lại, vì có cảm tưởng rằng … cả hai phía đều chỉ nhắm vào họ thôi, vào căn nhà họ đương núp …
Đa số những người Serbie chúng ta ở khu thương mại lúc này tản cư trong ngôi nhà ông Ristitch, ở ngay phía trên nhà ông mục sư, rộng hơn, đẹp hơn nhà ông mục sư mà có những vườn mận thoai thoải che cho khỏi bị đại bác của cả hai bên. Có ít đàn ông mà rất nhiều đàn bà; chồng đã bị bắt giam hoặc dẫn đi làm con tin, bọn đàn bà đó dắt con lại đây lánh nạn.
Nhà rất rộng mà chỉ có hai ông bà Mihailo Ristitch với người con dâu góa chồng, không muốn về nhà mình, ở lại đây nuôi con với cha mẹ chồng già đó. Người con trai lớn của thím đã trốn qua Serbie hai năm trước, vô đoàn quân tình nguyện và chết trên sông Bréganitsa hồi mới mười tám tuổi.
Hai ông bà Mihailo và người con dâu tiếp đón các người tản cư đó long trọng y như trong ngày lễ thánh hộ mạng cho họ vậy. Nhất là ông lão thì thật không biết mệt. Hôm nay ông để đầu trần, khác thường đấy, vì mọi ngày ít khi ông rời cái mũ fez ra mớ tóc dày hoa râm lòa xòa trên trán và chung quanh tai, râu mép rậm trắng phau ám khói thuốc lá mà hóa vàng vàng, bao chung quanh miệng ông lúc nào cũng như mỉm cười. Hễ thấy ai rụt rè, hoặc rầu rĩ hơn những người khác là ông lại gần, an ủi, mời uống một ly rượu rakia, một ly cà phê, hoặc hút một điếu thuốc.
Một thiếu phụ đưa tay lên cần cổ trắng và thon thon, thưa: -Cám ơn bác Mihailo, cháu quí bác như ba cháu nhưng cháu uống không được, nó nghẹn ở đây, bác ạ.
Thiếu phụ đó là vợ của Pierre Gatal ở Okolichté. Pierre hôm trước đi Sarajevo vì công việc làm ăn, rồi chiến tranh nổ ra, chàng về không được, từ đó bặt luôn tin tức. Quân đội trục xuất nàng và mấy đức con ra khỏi nhà và nàng với chúng tị nạn ở nhà ông Mihailo Ristitch, chỗ thân tình với gia đình chồng nàng[125]. Nàng lo lắng về chồng, rầu rĩ về ngôi nhà bỏ trống, vặn tay, hết khóc lóc thì lại thở dài.
Ông Mihailo coi chừng nàng và luôn luôn ở gần nàng. Sáng hôm đó có tin rằng ở Sarajevo về, Pierre bị bắt trên xe lửa làm con tin, đưa tới Vardichté, và do một tin cấp báo sai, người ta đây lầm lỡ bắn chàng. Tin đó còn giấu không cho nàng hay vì ông Mihailo muốn thận trọng chuẩn bị nàng trước đã. Thiếu phụ lát lát lại đứng dậy muốn ra sân nhìn về phía Okolichté, nhưng ông Mihailo giữ nàng lại, tìm mọi cách giảng giải cho nàng yên tâm, vì ông biết rằng những ngôi nhà của họ Gatolovitch đã cháy rồi và ông muốn tránh cho thiếu phụ tội nghiệp đó thấy cảnh đó. Ông nói đùa, mỉm cười luôn luôn mời nàng ăn uống một thức gì: -Uống cái này đi cháu Stanoika. Một ly nhỏ thôi mà. Nó thơm, ngọt mà giải được phiền muộn. Không phải rượu rakia đâu, cháu.
Thiếu phụ ngoan ngoãn uống, ông Mihailo mời mọi người khắp một lượt, luôn luôn nhã nhặn, ân cần, không biết mệt, bắt mỗi người phải bồi bổ sức khỏe. Rồi ông lại trở về với thiếu phụ. Bây giờ nàng bình tĩnh hơn và chỉ mông lung ngó phía trước, vẻ trầm tư. Ông vẫn không rời nàng, nói chắc với nàng như với một em bé rằng rồi cái gì cũng qua khỏi, chồng nàng sẽ từ Sarajevo trở về bình an vô sự và vợ chồng con cái lại dắt nhau về nhà ởkhu Okolichté.
- Bác biết cháu Pierre mà, bác đã dự lễ rửa tội cho anh ấy mà. Người ta nhắc hoài tới cuộc lễ đó. Bác còn nhớ như mới xảy ra hôm qua. Lúc đó bác còn là một thanh niên đang kiếm vợ, bác cùng với tiên nghiêm của bác – người đỡ đầu cho các con bác Ianko Gatal – lại Okolichté để dự lễ rửa tội cho anh Pierre của cháu.
Rồi ông kể lại câu chuyện đỡ đầu đó mà mọi người biết cả rồi nhưng đêm đó, trong những giờ đặc biệt đó, vẫn chăm chú nghe như một chuyện mới.
Đàn ông, đàn bà xích lại nghe ông kể mà quên nỗi nguy, không chú ý tới tiếng đại bác nữa.
Thời sung sướng mà giáo trưởng Nicolas còn làm mục sư Vỉchégrad, Ianko Gatal, lập gia đình đã lâu năm rồi, có cả bầy con gái rồi mới sanh được một đứa con trai. Tuần lễ sau người ta bồng nó lại giáo đường để làm lễ rửa tội. Vài người bà con và láng giềng đi theo người cha vui vẻ đó và người cha đỡ đầu. Ở trên đồi Okolichté xuống, họ đã nghỉ mấy lần, đã uống rượu rakia cay và nóng trong cái bầu lớn đẹp của người cha đỡ đầu. Và khi qua cầu tới cái kapia, họ lại ngồi nghỉ một chút, uống nữa. Hôm đó là một ngày thu muộn lạnh lẽo, quán không có một người khách nào mà cũng không có người hầu bàn nữa. Thế là bọn người ở Okolichté vô quán, tự do như ở nhà mình vậy, mở túi vải đựng thức ăn ra, khui một chai rượu rakia nữa, chén chú chén anh, vui vẻ và hùng hồn chúc thọ nhau, quên bẵng đứa nhỏ, ông giáo trưởng và lễ rửa tội sau buổi lễ cho các tín đồ. Vì hồi đó – thập niên 70 thế kỷ XIX – giáo đường chưa được phép đổ chuông[126]. Bọn người vui vẻ nhậu nhẹt đó quên rằng thời gian trôi qua mà buổi lễ cho tín đồ đã chấm dứt từ lâu. Họ chuyện trò huyên thiên, bạo miệng bàn về tương lai đứa nhỏ, nhắc lại dĩ vãng của cha mẹ nó; lúc đó thời gian có quan trọng quái gì đâu, mà có gì để đo nó đâu. Mấy lần, người cha đỡ đầu cũng áy náy trong lòng, bảo thôi nên tiếp tục lên đường đi, nhưng mấy người kia phản đối ông ta phải làm thinh.
Ông ta lắp bắp: -Này các bác, thôi đi làm cho xong cái lễ đó đi chứ.
Các người khác đáp: -Đừng phá đám tụi tôi mà. Có ai trong cái giáo khu này mà không làm lễ rửa tội đâu?
Và mỗi người mời ông ta uống rượu trong cái bầu của mình.
Người cha nữa, có một lúc cũng nóng lòng muốn đi, nhưng rượu rakia rốt cuộc làm cho họ làm thinh hết và vui vẻ lại với nhau. Người mẹ cho tới lúc đó vẫn bồng đứa nhỏ trong hai bàn tay tím ngắt vì lạnh, phải đặt nó trên cái ghế đá, quấn nó bằng một chiếc mền sặc sỡ. Đứa nhỏ nằm yên như ở trong nôi, lúc thì ngủ, lúc thì ngơ ngác ngó chung quanh như dự vào cuộc vui chung vậy. Người cha đỡ đầu bảo: “Thấy không, chú bé này đúng là dân thị trấn chúng ta, thích đông người và ham vui”
Một người ngồi bên la lớn: -Nào uống mừng bác một ly nào, bác Ianko. Cầu trời cho cháu trai được giàu sang sung sướng và thọ, làm vẻ vang cho bác, được mọi người Serbie tôn trọng. Cầu trời cho…
Người cha ngắt lời: -Chúng mình đi làm lễ rửa tội cho cháu thì vừa chứ?
Mọi người đều phản đối:
-An tâm làm quái gì tới việc đó.
Rồi họ lại chuyền tay nhau bầu rượu ra kia.
Một người ngồi cạnh bảo: -Raguib Efendi ở Borovats đâu có rửa tội mà mạnh mẽ như vậy đấy, bác thấy không? Leo lên lưng ngựa mà ngựa phải quị xuống.
Mọi người cười rộ.
Ở trên kapia bọn họ quên thời gian trôi qua, nhưng giáo trưởng Nicolas thì không: ông đứng đợi một lúc ở trước giáo đường, rồi nổi giận khoác chiếc áo cầu bằng da chồn, từ khu Meidan xuống thị trấn. Ở đây có người cho ông hay rằng bọn họ với đứa nhỏ còn ngồi trên kapia. Ông tiến lại phía đó, tính mắng cho họ một trận nên thân, nhưng họ âu yếm và thực tình vui vẻ tiếp ông long trọng xin lỗi, ngọt ngào niềm nở chúc phúc ông tới nỗi ông, tuy cộc cằn và nghiêm khắc chứ tính tình vẫn là tính tình người Vichégrad, cũng bỏ qua cho họ bằng lòng uống một hớp rượu, ăn một miếng bánh. Ông cúi xuống nhìn đứa bé, nói nựng nó vài câu trong khi nó bình tĩnh ngó khuôn mặt lớn, mắt to màu lơ, và chòm râu rậm hung hung của ông.
Sau này người ta kể lại rằng đứa nhỏ được rửa tội trên kapia, điều đó sai, nhưng quả thực là họ chuyện trò với nhau một hồi lâu và uống rượu đã đời. Mãi xế chiều bọn người vui vẻ đó mới tiến về phía Meidan, mở cửa giáo đường và người cha đỡ đầu đứa bé còn say bí tỉ lắp bắp mấy lời cầu Chúa ban phúc cho chú bé, thị dân mới của Vichégrad.
Ông Mihailo kết thúc câu chuyện: -Chúng tôi làm lễ rửa tội cho anh Pierre như vậy – chúc cho ảnh được bình an vô sự – mới ngày nào mà bây giờ ảnh đã ngoài bốn chục tuổi rồi, được hưởng đủ cả, chẳng thiếu gì.
Mọi người lại uống ra kia và cà phê nữa, quên thực tại đi để có thể chịu đựng nó được …
Thế là họ qua được đêm đó. Do những bản năng di truyền từ bao nhiêu đời nay, họ chia đời sống thành những cảm giác nhất thời, những nhu cầu thiết thực ngay trước mất, rồi sống mỗi lúc đó riêng biệt ra, không ngó tới lúc trước, nhìn về lúc sau, nhờ vậy mới chịu nổi cuộc đời như vậy bảo toàn cuộc sống để đợi những ngày tốt đẹp hơn.
Rồi mặt trời mọc. Như vậy chỉ có nghĩa là súng nổ sẽ dữ hơn, cái trò chiến tranh khó hiểu và bất tuyệt đó sẽ tiếp tục dưới ánh sáng mặt trời, vì đối với họ, ngày tháng không còn có tên, có ý nghĩa, giá trị gì nữa. Họ chỉ biết run sợ mà đợi thôi … Họ suy nghĩ, làm việc nói năng, đi đứng như người máy.
Đó, dân chúng trong những khu trên cao dưới cái đồn cũ và trên miền Meidan đại khái sống như vậy.
Ở dưới thấp, tại trung tâm thị trấn, chỉ còn thưa thớt ít người. Ngay từ ngay đầu chiến tranh, chính quyền đã ra lệnh cho các tiệm phải mở cửa để lính tráng đi qua mua những đồ vật cần thiết, nhất là để dân chúng thấy rằng quân địch còn ở xa, chưa có gì nguy cho thị trấn.
Không hiểu tại sao bây giờ dưới cơn bom đạn mà lệnh đó chưa bãi bỏ nhưng ai nấy đều viện một cớ chấp nhận được, để khép cửa tiệm già nửa ngày. Những tiệm ở sát cầu và lữ quán bằng đá, như tiệm của Pavlé Rankovitch và của Ali Hodja thì đóng cửa suốt ngày vì dễ bị trúng trái phá. Lữ quán của Lotika cũng vậy; Nóc đã bị một trái phá làm cho hư hại, còn tường thì đầy nhưng vết đạn ria.
Ông Ali Hodja mỗi ngày chi xuống tiệm một hay hai lần coi xem có sao không rồi trở về nhà.
Lotika đã cùng với gia đình rời lữ quán ngay từ ngày đầu tiên cầu bị bắn phá, qua bên tả ngạn sông Drina, tị nạn trong một ngôi nhà Thổ mới cất và rộng rãi. Ngôi nhà này ở cách đường cái hơi xa, núp trong một lòng chảo, dưới tàn lá rậm rạp của một khu vườn hoa quả, chỉ có cái nóc bằng ngói đỏ là ló lên thôi. Chủ nhà đã về quê với vợ con.
Gia đình Lotika rời lữ quán vào chập tối, lúc thường thường thị trấn hoàn toàn yên tĩnh. Trong số gia nhân chỉ còn lại chú Milan trung thành, không thay đổi gì cả, đã già mà không có vợ, và ăn bận lúc nào cũng tề chỉnh. Đã từ lâu, chú không phải trục xuất ai ra khỏi lữ quán nữa. Những gia nhân khác đã trốn đi – đó là chuyện thường xảy ra trong những hoàn cảnh như vậy – ngay từ khi trái phá đầu tiên bắn vào thị trấn. Lotika một mình chỉ huy công việc di chuyển đồ đạc, và ai cũng tuân lệnh nàng như từ hồi nào tới giờ. Nàng chi những vật nào cần thiết nhất và quí nhất còn phải mang theo, những đồ nào có thể để lại được, mỗi người nên ăn mặc ra sao, ai phải cõng đứa con trai nhỏ ngu ngốc và thọt của bà Debora, ai phải dắt bà Debora bệnh tật và rầu rĩ, khóc lóc ai phải dắt Mina, cô con gái mập mạp, sợ quá muốn phát điên. Nhờ bóng tối trong đêm hè nóng nực đó, họ qua cầu với một chiếc xe do người kéo chở vài món đồ và đứa bé tật nguyền, còn bốn người kia: Lotika, Tsaler, Debora và Mina thì đi bộ, xách va li và các gói đồ. Từ ba chục năm nay, lần đó là lần đầu lữ quán hoàn toàn đóng cửa không có một bóng người ở trong. Bị mấy trái tạc đạn đầu tiên, nó có vẻ thê thảm, như đổ nát đã từ lâu rồi. Ngay từ khi mới bước chân lên cầu, bọn họ, già cũng như trẻ, kẻ thì khập khiễng, kẻ thì lết không nổi, kẻ thì quẹo chân, không quen đi xa, hết thấy đều bỗng có vẻ y hệt một bọn Do Thái bang thang, khốn khổ, đi trốn trên mọi con đường, khắp thế giới, từ bao nhiêu thế kỷ nay.
Họ qua bờ sông bên kia, vô ở trong ngôi nhà rộng. Tại đây Lotika cũng sắp đặt mọi việc, chỉ cho mỗi người nằm chỗ nào, đồ đạc để đâu. Nhưng khi nàng lên giường nghỉ, trong ngôi nhà không phải của nàng, một nửa bỏ trống đó, không có những công việc cùng giấy tờ mà suốt đời nàng chưa bỏ một ngày nào, thì nàng thấy đứt ruột, và lần đó là lần đầu tiên thình lình nàng thấy kiệt lực. Tiếng kêu đau đớn của nàng vang lên trong ngôi nhà trống trải. Cha ai trông thấy, nghe thấy mà cũng không ai ngờ được rằng nàng lại khóc, khóc nức nở, nghẹn ngào như một người đàn ông, khóc mà không muốn nín, không thể nín được. Thế là cả nhà đều ngạc nhiên, hoảng hốt, im lặng lột cách sợ sệt thiêng liêng, rồi cũng khóc òa lên, rên rĩ. Đối với họ, sự kiệt lực của Lotika là một tai nạn lớn hơn chiến tranh, hơn cuộc tản c này, hơn cả sự tiêu tan sản nghiệp, vì còn nàng thì còn có thể thu xếp mọi việc, vượt được mọi gian nan, không có nàng thì không ai có thể làm gì, tính toán, suy nghĩ gì được cả.
Sáng hôm sau là một ngày hè rực rỡ, có mây hồng và nhiều giọt sương lấp lánh, nhiều tiếng chim ríu rít không còn nàng Lotika đã đảm đang điều khiển vận mạng tất cả gia đình mãi cho tới buổi tối hôm trước nữa, mà chỉ còn một bà lão Do Thái bất lực, nằm bẹp trên sàn, khóc lóc như một đứa con nít, không thể tự săn sóc cho mình được nữa, không biết tỏ bày cho người khác rằng mình sợ cái gì, đau ở đâu nữa.
Và lúc đó xảy ra một phép màu khác. Ông già Tsaler chậm chạp, nặng nề, lúc nào cũng như nửa thức nửa ngủ, ngay từ hồi trẻ cũng đã không có một chút nghị lực nào, một ý nghĩ riêng của mình, hoàn toàn để cho Lotika điều khiển như mọi người khác trong nhà, ông Tsaler đó nói cho đúng ra, tuổi nào cũng như một người già nua, bỗng tỏ ra có đủ tư cách một gia trường, rất khôn khéo cương quyết biết quyết định và đủ nghị lực để thực hiện quyết định của mình. Ông ta an ủi, săn sóc người em vợ, như săn sóc một đứa nhỏ bệnh tật, và thay Lotika, chăm nom cho cả gia đình. Trong những lúc tiếng súng tạm yên, ông ra thị trấn, lấy thức ăn, đồ đạc và những quần áo cần thiết ở trong lữ quán đem về. Ông ta tìm đâu được một y sĩ mới về nhà coi mạch cho Lotika. Y sĩ thấy bà lão kiệt lực đó thần kinh hoàn toàn suy nhược, khuyên dời ngay bệnh nhân đi một nơi khác không có bom đạn, không có tác chiến và cho uống một thứ thuốc giọt. Ông Tsaler vận động với nhà cầm quyền, xin được một chiếc xe chở tất cả gia đình mới đầu tới Rogatitsa, rồi sau tới Sarajevo. Nhưng phải đợi một hai ngày sau cho sức khỏe Lotika khá khá một chút mới đi xa được. Mà Lotika cứ nằm dài như người bi bệnh bại, khóc lóc, kể lể lảm nhảm, có vẻ cực kỳ tuyệt vọng sợ hãi, ghê tởm. Đứa con trai tội nghiệp của Debora lê lết trên sàn chung quanh, tò mò ngó mặt dì nó, kêu gọi bằng những tiếng ngọng nghịu ở trong cuống họng mà chỉ riêng dì nó hiểu, nhưng bây giờ dì nó không đáp nữa, không muốn ăn gì cả, không muốn thấy mặt ai nữa. Lotika đau khổ ghê gớm vì những ý tưởng kỳ cục: Lúc thì thấy hai lấm ván sàn mở ra như một cái bẫy sập âm hiểm và mình rớt xuống một vực thẳm, chỉ biết la hét chứ không biết tự vệ cách nào, bám víu vào đâu được; lúc thì thấy mình cao lớn nhẹ nhàng khỏe mạnh, chân dài như chân khổng lồ, lại có cặp cánh mạnh mẽ, chạy mau như đà điểu bước nhưng bước dài hơn từ đây tới Sarajevo, sông biển bập bềnh như trong đầm cạn, thị trấn làng mạc sạo sạo như đá sỏi và thủy tinh ở dưới chân. Những lúc đô tim đập mạnh, nâng hổn hển. Nàng không biết chạy như bay như vậy sẽ tới đâu, nhưng biết rằng thoát khỏi những tấm ván ghép một cách âm hiểm nó mở ra như cái bẫy, nhanh như chớp đó, để lại đằng sau nàng những thị trấn, làng mạc, cái xứ không nên ở này mà dân chúng chỉ gạt gẫm nhau, nói dối nhau thôi, bằng lời nói và bằng những con số. Khi họ diễn xong cái hài kịch bằng lời nói, và những con số đã rối loạn cả rồi, thì thình lình họ đổi trò, như bọn ảo thuật, và thật là bất ngờ, trái với điều họ nói, thấy hiện ra đại bác, súng ống và các khí cụ giết người khác, hiện ra một đám người khác mắt đỏ ngầu, không có thể giảng giải, thương lượng, nói chuyện gì với bọn này được. Trước cuộc xâm lăng đó, nàng không còn là con chim khổng lồ chạy như bay nữa mà là một người già nua tội nghiệp, nằm bất lực trên sàn gỗ. Mà tụi đó có cả ngàn, cả triệu, lũ lượt kéo tới, nổ súng, thảm sát hết thảy một cách có phương pháp, tàn nhẫn hủy diệt hết thảy chẳng có lý do gì cả. Một đứa trong bọn cúi xuống nhìn nàng, nàng không thấy nét mặt nó, nhưng cảm thấy nó gí đầu lưỡi lê đúng vào chỗ xương sườn rời nhau ra, chỗ da thịt mềm nhất.
Lotika tỉnh dậy, tung chiếc khăn san người ta đã phủ trên người nàng, hét lên: -Không, không? Làng xóm ơi, người ta giết tôi nè! Đứa bé ngu ngốc ngồi xổm, tựa lưng vào tường, mở cặp mắt đen và lớn nhìn dì nó mà tò mò hơn là sợ hãi, hoặc thương hại. Minh từ một phòng bên, chạy ùa vô, vỗ về Lotika, lau mồ hôi lạnh trên mặt và cho nàng uống một ly nước pha thuốc Valériane đếm từng giọt một.
Ngày hè đó trên cánh đồng xanh mướt sao mà dài thế, như bất tận, mãi không thấy tối. Ở đây cũng nóng nực nhưng không thấy ánh nắng gay gắt của mặt trời. Có tiếng chân vang trong nhà. Mấy người khác tới, trong số đó tình cờ có một người lính hoặc một sĩ quan. Có nhiều thức ăn, nhiều trái cây. Milan pha cà phê không nghỉ tay. Có vẻ như một cuộc nghỉ mát lâu dài ở thôn quê nếu thỉnh thoảng không có tiếng la hét tuyệt vọng của Lotika, và tiếng ầm ầm vang dội tới cả hẻm núi này bảo rằng tai họa chung lớn lắm và gần lắm, không như người ta tường trong cảnh bình tĩnh của ngày hè này đâu.
Đó, chiến tranh đã gây tai hại ra sao cho lữ quán của Lotika và những người trong lữ quán.
Tiệm của Pavlé Rankovitch cũng đóng cửa. Chiến tranh phát hôm trước thì ngay hôm sau Pavlé và vài thân hào Serbie khác bị bắt làm con tin. Một số người ở nhà ga, phải đem tính mệnh ra bảo đảm sự trật tự, yên ổn ở đó, mà xe lửa chạy được đều đều; một số người khác ở gần cầu, cuối sân chợ, trong một cái lều quán bằng gỗ, tại đó những ngày phiên chợ, có đặt một chiếc cân công cộng, và thâu thuế qua cầu. Những người này cũng vậy phải đem tính mệnh ra bảo đảm rằng không ai phá hủy hoặc làm hư hại chiếc cầu.
Ông Pavlé ngồi đó, trên một cái ghế dựa của quán cà phê. Hai bàn tay đặt trên đầu gối, đầu cúi xuống, ông như một người kiệt lực vì gắng sức quá, ngồi phịch xuống để nghỉ ngơi một chút không nhúc nhích, suốt mấy giờ không thay đổi tư thế. Gần cửa, hai người lính hậu bị ngồi trên một đóng bao không. Cửa khép, trong quán nửa tối nửa sáng mà không khí rất hầm. Khi một tạc đạn bắn từ trên núi Panos hoặc Golech veo véo bay tới, Pavlé nuốt nước bọt và nghe xem nó rớt xuống đâu. Ông biết rằng cầu đã đặt mìn từ lâu và ông nghĩ hoài tới điều đó tự hỏi nếu một tạc đạn rớt đúng vào chỗ đặt mìn thì mìn có nổ không. Cứ mỗi lần thay phiên gác, ông lại nghe hạ sĩ quan dặn hai người lính gác: “Hễ thấy có kẻ nào định phá cầu hoặc thấy một dấu hiệu gì khả nghi rằng chúng chuẩn bị phá cầu thì phải bắn chết người này tức khắc.” Pavlé quen nghe câu đó quá rồi, coi nó như không liên quan gì tới mình. Ông lo về nhưng trái phá và tạc đạn nổ ở gần lều quán hơn, có khi gần tới nỗi sỏi và mảnh đạn bắn đôm đốp vào vách ván của lều. Nhưng ông khổ nhất vì thời gian trôi chậm quá và vì những ý nghĩ chua xót của ông.
Ông nghĩ tới tai họa đã xảy ra cho ông, nhà cửa, của cải của ông. Càng nghĩ tới lại càng thấy y hệt một ác mộng. Hai cậu con trai của ông, đương học đại học, bị hiến binh lôi đi ngay từ ngày đầu. Ở nhà chỉ còn bà vợ với mấy cô con gái. Xưởng lớn ở Osoinitsa chế tạo thùng đựng rượu, đã cháy ra tro dưới mắt ông. Bọn nông nô của ông ở các làng chung quanh chắc đã chết hoặc tản mát đi nơi khác. Bao nhiêu tiền ông cho vay trong quận thế là tiêu. Tiệm của ông, đẹp nhất thị trấn ở đằng kia, cách chỗ ông ngồi dây có vài bước, đã đóng cửa và chắc chắn sẽ bị cướp phá hoặc bị cháy rụi vì một trái tạc đạn. Mà ông thì ngồi đây trong cái lều tối tăm này, làm con tin, đem tính mệnh ra bảo đảm một cái chẳng tùy thuộc ông mảy may nào cả: Số phận chiếc cầu.
Các ý nghĩ tuôn ra trong đầu óc ông như một làn sóng cuồn cuộn, hỗn độn hơn bao giờ hết, chúng giao nhau rồi biến mất. Suốt đời ông chỉ lo làm ăn, lo cho nhà cửa, thì có liên quan gì tới cái cầu kia chứ? Ông đâu có đặt mìn trong cầu, đâu có bắn trái phá vào cầu. Tuyệt nhiên, ngay cả hồi ông làm thầy ký và cha vợ, ông cũng không khi nào lại ngồi trên cái kapia, không bao giờ ca hát hay đùa cợt, như bọn thanh niên ăn không ngồi rồi ở Vichégrad. Tất cả cuộc đời của ông hiện qua trước mắt ông với những chi tiết mà ông đã quên từ lâu.
Ông nhớ lại hồi mới mời bốn tuổi, ở miền Sandjak lại đây bụng đói, mà đôi dép thô opanci thì vẹt gót. Ông xin vào làm trong một nhà trọc phú, tên là Pierre, để được cơm ăn, áo mặc và hai đôi opanci một năm. Ông bồng trẻ, giúp việc ở tiệm, xách nước giếng, băng bó ngựa. Ngủ ở dưới cầu thang, trong một xó chật hẹp, tối tăm, không có cửa sổ, duỗi chân cũng không được. Ông chịu đựng cuộc đời cực khổ đó, và hồi mười tám tuổi mới được hoàn toàn giúp việc ở cửa tiệm, mà phải “đóng tiền” cho chủ; người ta mướn một đứa bé nhà quê khác ở Sandjak thay chân cho ông. Lúc đó ông mới biết và hiểu ý nghĩa của sự dành dụm, mới cảm thấy cái khoái lạc say mê lạ lùng, cái sức mạnh vĩ đại của sự dành dụm.
Ông đã ngủ năm năm trong một phòng nhỏ phía sau cửa hàng. Trong năm năm đó, không bao giờ ông đốt lửa sưởi luôn luôn ngủ trong bóng tối, không đốt một cây nến. Ông được hai mươi ba tuổi thì chính ông trọc phú Peirre đó cưới cho ông một thiếu nữ ngoan, gia đình phong lưu ở miền Tchainitch. Nàng cũng là con một thương gia. Từ đó cả hai vợ chồng đều ki cóp. Rồi xảy ra vụ Áo chiếm đóng, công việc làm ăn phát triển hơn, kiếm lời dễ hơn mà phí tổn ít hơn. Kiếm được bao nhiêu ông không tiêu pha gì cả mà đặt vốn lấy lời.
Nhờ vậy ông mua được một cửa tiệm và bắt đầu hốt bạc. Thời đó kiếm tiền không khó. Nhiều kẻ kiếm được nhiều mà tiêu còn nhiều hơn nữa. Khó dành dụm được lắm. Ông thì mỗi ngày góp nhặt thêm. Mấy năm gần đây lòng người dao động và ham “chính trị”, mặc dầu đã lớn tuổi, ông cũng ráng tìm hiểu thời đại mới để chống lại với nó, thích nghi với nó, vượt qua được mà không bị tổn hại, ô nhục. Ông làm phó thị trưởng, chủ tịch cộng đồng tôn giáo, chủ tịch hội nhạc Serbie “Hòa hợp”, có cổ phần lớn nhất trong Ngân hàng Serbie, hội viên trong Hội đồng quản lý Ngân hàng địa phương. Giữ đúng những qui tắc trong khu thương mại, ông ráng đi vát ở giữa những cực đoan, những đảng phái chống đối nhau mỗi ngày mỗi lớn mạnh, mà lèo lái trong cảnh khó khăn đó sao cho quyền lợi không bị thương tổn, và ông ráng không làm mất lòng nhà cầm quyền mà cũng không để cho chúng khinh bỉ mình. Mọi người đều cho ông là gương mẫu về tài năng, thận trọng, khéo xử sự không ai bằng.
Vậy là già nửa đời người, ông đã làm việc dành dụm chịu cực khổ, không làm hại tới một con ruồi, gặp ai cũng chào hỏi, cứ theo con đường của mình mà lặng lẽ đi chi lo cóp nhặt thôi. Và con đường đó đã đưa ông tới chỗ này đây: ngồi giữa hai người lính như một tên ăn cướp mạt hạng, đợi cho một tạc đạn hoặc một cái máy quái quỉ nào đó làm hư hại chiếc cầu để rồi bị chọc tiết hoặc bỉ bắn. Ông đâm ra nghĩ rằng (điều này làm ông đau khổ nhất) bao lâu nay cực khổ, sống cái kiếp con chó mà không được hưởng gì cả; xét chung thì ông đã lầm đường, bọn con trai ông và các “thanh niên” khác mới đi đúng đường, thời đại này quả là một thời không đo lường, tính toán gì được hết, hoặc phải đo lường tính toán theo những cách khác. Dù sao thì cách tính toán của ông đã sai mà thước đo của ông ngắn quá.
Ông nghĩ bụng: - Đúng vậy, thật đúng vậy từ giáo hội tới nhà cầm quyền và cả lý trí của mình nữa, đều khuyên mình, siêng năng, tiết kiệm. Và mình tuân theo, thận trọng tiến từng bước, sống một đời chính đáng, đúng hơn là chẳng được sống mà chỉ nai lưng ra làm việc, dành dụm, lo lắng suốt đời. Rồi thì thình lình xảy ra một thời đại mà mọi người bất chấp lý trí, giáo hội khép cửa lại, làm thinh, còn nhà cầm quyền bị thay bằng võ lực, kẻ nào làm ăn vất vả, lương thiện thì bị tiêu tan sự nghiệp, mà những kẻ tàn bạo lại đắc thời. Không ai nhìn nhận sự gắng sức của mình, không ai giúp đỡ mình, khuyên bảo mình phải làm sao để bảo vệ của cải mình đã kiếm được, dành dụm được. Có thể như vậy được ư? Sự thể xảy ra như vậy thật ư?
Pavlé tự hỏi hoài câu đó mà không tìm được lời giải đáp vả lại suy tư trở lại từ khởi điểm, về sự mất mát hết thảy của ông.
Ông ráng nghĩ về điều khác mà không được. Ý nghĩ đó cứ trở lại hoài. Mà thời gian trôi qua sao chậm chết người như vậy kìa! Ông có cảm tưởng rằng cây cầu ông đã qua mấy ngàn lần nhưng không lần nào nhìn kỹ kia, bây giờ đè nặng lên hai vai ông như một bí mật không tránh được, không hiểu nổi, như trong một giấc ngủ nào đó một giấc ngủ vĩnh viễn.
Vì vậy mà ông ngồi đó, khổ não, đầu cúi xuống, vai khòm xuống. Ông thấy mồ hôi toát ra từ mỗi lỗ chân lông, dưới chiếc áo sơ-mi, dưới cổ áo, dưới cổ tay áo hồ cứng. Nó chảy ròng ròng dưới cái mũ fez của ông, ông không buồn chùi, mặc cho rớt từng giọt lớn từ mặt ông xuống sàn và ông có cảm tưởng rằng đời sống đương chết lần, đương từ bỏ ông đấy.
Hai người lính nọ là những nông dân Hung đã có tuổi ăn bánh với những lát mỡ rắc ớt. Họ ăn chậm chậm, dùng một con dao nhỏ cắt bánh và mở như khi họ ăn ở ngoài đồng. Rồi mỗi người ực một hớp rượu vang đựng trong một cái bình bằng thiếc mồi một ống điếu ngắn. Một người vừa hút vừa nói nho nhỏ: -Chưa thấy ai đổ mồ hôi nhiều như ông này.
Rồi họ tiếp tục hút, hoàn toàn im lặng.
Nhưng chẳng riêng gì Pavlé vã mồ hôi như vậy. Trong những ngày hè đó, trên mảnh đất hẹp từ sông Drina tới biên giới khô cằn kia, trong thị trấn và các làng mạc, trên đường cái và trong rừng, đâu đâu cũng có những người dàn ông mặt nhễ nhãi mồ hôi tìm cái chết của họ và của người khác, mà đồng thời trốn cái chết đó, tận lực chống cự lại nó bằng mọi cách. Cái trò kỳ cục của nhân loại mà người ta gọi là chiến tranh đó, mỗi ngày mỗi lan rộng, xâm phạm tới mọi sinh vật, cả nhưng vật vô tri nữa.
Buổi sáng đó, gần lều quán của thị trấn, có một chi đội lạ lạ bận quân phục trắng, đội mũ “cát thuộc địa”[127] trắng. Đó là đội quân Đức mà người ta gọi là chi đội Scutari. Trước chiến tranh, họ đã được phái tới Scutari, với tư cách là đạo quân quốc tế[128] để duy trì hòa bình và trật tự cùng với chi đội các quốc gia khác. Khi chiến tranh phát, họ được lệnh rời Scutari và tự dặt dưới sự chỉ huy của bộ tham mưu Áo ở gần biên giới Serbie nhất. Họ tới đêm hôm trước và lúc này đương nghỉ ngơi trên khoảng đất phẳng từ trước chợ tới khu thương mại. Ở đó trong một tử giác[129], họ đợi lệnh tấn công. Họ gồm khoảng một trăm hai chục người. Viên đại úy, tóc hoe hoe, mập, không chịu được trời nóng, đương chửi mắng thầy đội hiến binh Danilo Repats. Chỉ một thượng cấp trong quân đội Đức mới sỉ vả hạ cấp thậm tệ như ông ta quát tháo làm bộ ta đây, chằng coi người ta ra cái gì cả. ông ta phàn nàn rằng ông và lính của ông chết khát, thiếu thốn cả những thứ cần thiết nhất, trong khi chung quanh, tiệm nào chắc cũng đảy hàng hóa thì lại đóng cửa, mặc dầu có lệnh phải mở cửa.
- Tụi bây làm cái gì ở đây hả? Là hiến binh hay là những thằng múa rối? Tụi tao phải chết khát chết đói ở đây sao? Hay là tao phải phá cửa tiệm là vô như một tên ăn cướp? Đi gọi ngay bọn chủ tiệm lại đây cung cấp binh lương cần thiết và những đồ giải khát lành sạch cho chúng tao. Đi tức thì. Có hiểu “tức thì” là gì không?
Càng nói thì máu lại càng dồn lên mặt ông ta. Bận quân phục trắng, đầu cạo trọc, đỏ như hoa anh túc ông ta nổi giận đùng đùng, bừng bừng như một cây đuốc.
Thầy đội Repats kinh hoàng, chớp chớp mắt, chỉ biết lặp lại: -Thưa đại úy, tôi hiểu ạ. Tôi sẽ làm ngay tức thì. Tôi hiểu ạ. Tức thì.
Rồi đương cứng đơ, trân trân thầy bỗng lăng xăng như điên, quay gót, xông vào khu thương mại, như bị ngọn lửa giận của viên đại úy bén vào mình, chàng chạy một mạch, dọa dẫm, đánh đập túi bụi ở chung quanh.
Người đầu tiên bị thầy đâm bổ vào là ông Ali Hodja. Ông này mới từ nhà xuống thăm chừng cửa hàng. Thấy thầy “Vakmaister”[130] perats mà ông biết rõ lắm, hôm nay coi bộ khác hắn ngày thường, đâm bổ vào mình, ông ngạc nhiên tự hỏi có đúng là thầy “Vakmaister” bao lâu nay vẫn đi qua cửa tiệm của ông, vẻ bình tĩnh, đàng hoàng, hòa nhã không. Sao mà lúc này ủ rũ, hoảng sợ như vậy, ngó chòng chọc vào mặt ông như không nhận ra ai cả, không thấy gì cả. Thầy đội chửi mắng om sòm như lặp lại cử chỉ, ngôn ngữ của viên đại úy Đức lúc nãy.
- Phải treo cổ hết tụi bay? Người ta đã ra lệnh cho tụi bay mở cửa tiệm, phải vậy không? Nếu vì tụi bay mà tao …
Ông Ali Hodja ngạc nhiên chưa kịp thốt ra một lời là đã bị tát một cái mạnh vào má bên phải, khiến cho chiếc khăn của ông bật từ tai bên phải qua tai bên trái. Rồi thầy đội vẫn tráo trưng, chạy xa hơn nữa, bắt các tiệm khác phải mở cửa. Ông Hodja đội lại chiếc khăn cho ngay ngắn hạ cánh cửa mặt hàng xuống, ngồi lên vẫn chưa hết ngạc nhiên. Bọn lính vẻ kỳ dị, bận quân phục trắng, mà ông chưa từng thấy lần nào, bu lại chung quanh chỗ bày hàng của ông. Có vẻ như sống trong giấc mộng. Nhưng ông hết ngạc nhiên rồi: thời này là thời những cái bạt tai rớt từ lên trời xuống mà.
Trọn một tháng trôi qua như vậy trong sự bắn phá từng hồi chiếc cầu, giữa những tiếng đại bác làm rung động cả những đồi chung quanh, trong những nỗi đau khổ và tàn bạo đủ thứ, trong sự chờ đợi những tai họa ghê gớm nhất. Ngay từ mấy ngay đầu, đa số dân chúng đã rời thị trấn bị kẹt giữa hai làn đạn. Cuối tháng Chín, mọi người bắt đầu rút ra khỏi thị trấn. Những công chức ở lại cuối cùng rút đi trong ban đêm, qua cầu, theo đường cái, vì đường xe lửa đã bị cắt đứt. Rồi lần lần, quân đội cũng rút ra khỏi hữu ngạn ông Drina. Chi còn lại một số ít lính bảo vệ thị trấn, vài chi đội công binh, và những đội tuần binh lẻ loi. Cũng sẽ tới phiên họ nữa. Chiếc cầu vẫn còn đó, như bị bỏ, không dùng tới nữa, nhưng vẫn y nguyên, trọn vẹn, giữa hai bên lâm chiến.
Chú thích:
[124] Tín đồ hồi giáo mỗi ngày cầu nguyện năm lần. Tới mỗi giờ cầu nguyện, từ tháp các giáo đường, giáo sĩ Muzzin kêu gọi họ ngưng mọi việc để cầu nguyện.
[125] Nguyên văn là hai gia đình đỡ đầu con cho nhau.
[126] Chính quyền Thổ cấm (Thổ theo Hồi giáo).
[127] Casque colonial: Thứ mũ trắng có vành, bọn thực dân Pháp ở nước ta hồi 1920 – 1930 còn đội.
[128] Quốc tế đây chỉ có nghĩa là một số quốc gia châu Âu.
[129] Nghĩa là một chỗ không bị súng của địch nã vào.
[130] Đọc sai tiếng Đức Wachtmeister (có nghĩa là chuẩn úy hoặc thầy đội ky binh).
[131] Mũ trùm đầu không có vành.
[132] Đồng cỏ thả súc vật.