← Quay lại trang sách

Chương XXII

Năm nào cũng vậy, nhân ngày lễ thánh Guy, các đoàn thể ở serbie tổ chức một hội giữa trời ở Mezalin. Tại đó, ở ngã ba hai con sông Drina và Kzav, dưới bóng những cây dẻ sum sê trên bờ sông cao cây cỏ xanh tốt, người ta đã dựng những căn lều để bán đồ giải khát và thui những con cừu non trên ngọn lửa riu riu. Gia đình nào đem theo thức ăn thì ngồi dưới bóng cây. Âm nhạc đã ồn ào nổi lên dưới bóng mát của cành lá.

Trên khoảng đất trống đã nện kỹ, người ta múa khúc kolo từ buổi sáng. Chỉ những bọn trẻ nhất, vô công rồi nghề nhất là múa thôi; tan buổi lễ ở giáo đường, họ đi thẳng ngay lại Mezalin. Chính buổi hội chỉ bắt đầu vào lúc xế trưa. Nhưng buổi sáng vũ khúc kolo đã tưng bừng linh động, đẹp hơn buổi chiều nhiễu, khi đám đông kéo nhau tới, mà những bà có chồng, những quả phụ bất mãn và bọn trẻ cũng chen vào nhảy; lúc đó tuy thành một cái đuôi dài, vui nhộn thật đấy, những cắt làm nhiều khúc, mà mất sự hòa hợp rồi. Vũ khúc kolo gồm ít người lúc này có nhiều thanh nam hơn là thanh nữ, quay cuồng như điên, không khác sợi dây lasso – thứ dây thòng lọng, thổ dân Mỹ châu tung ra để bắt thú rừng, đương quay tít. Vạn vật chuyển động ở chung quanh họ, dập dờn như sóng, từ không khí cuộn theo điệu nhạc, tới những chòm lá dày, những đám mây trắng trời hè và dòng nước trong veo của hai con sông. Đất di động dưới chân họ và chung quanh họ; họ chỉ ráng làm cho cử động của họ hòa nhịp với sự vận chuyển chung của ngoại vật thôi. Có những thanh nam từ đường cái chạy tới để nhập vào vòng vũ, bọn thiếu nữ ghìm nhau lại, đứng ngoài ngó một hồi như gõ nhịp, đôi khi có một cái gì thầm kín thúc đẩy mới đột nhiên nhảy vào vòng kolo, đầu gối nhún nhún đầu cúi xuống như thể đâm nhào xuống dòng nước lạnh vậy. Một luồng sinh lực mạnh mẽ truyền từ mặt đất nóng vào bàn chân nhảy nhót của họ rồi lan lên những bàn tay nóng hổi nắm chặt nhau thành một dây chuyền dài. Sợi dây đó rưng động theo điệu kolo như hết thảy chỉ là một sinh vật, cùng một dòng máu, cùng theo một nhịp điệu. Bọn con trai ngửa cổ ra múa, mặt mày tái mét, cánh mũi phập phồng; còn bọn con gái má đỏ ửng, e lệ nhìn xuống như muốn giấu niềm khoái lạc trong khi vũ.

Buổi hội vừa mới bắt đầu thì ở ven bình nguyên Mezalin xuất hiện một đám hiến binh đồng phục bằng da đen, khí giới lấp lánh dưới ánh nắng xế trưa. Mỗi khi có phiên chợ và những cuộc vui chơi ở đồng quê thì họ vẫn thường đi tuần ở chung quanh, nhưng lần này họ đông hơn nhiều, đi thẳng tới rặng cây có bọn nhạc công. Kẻ trước người sau, bọn này ngừng tiếng nhạc. Bọn nhảy kolo do dự một chút rồi cũng ngừng lại, không vũ nữa. Có vài tiếng bất bình của tụi thanh niên. Họ vẫn còn nắm tay nhau. Vài người bị nhịp điệu kolo lôi cuốn, còn giậm chân một chỗ nhưng nhảy chậm chậm đợi các nhạc công tấu trở lại. Nhưng các nhạc công vội vàng đứng dậy đút kèn và đàn vĩ cầm vào những cái bao bằng vải sơn. Rồi bọn hiến binh tiến lại phía các lều và chỗ các gia đình ngồi rải rác trên bãi cỏ. Tới đâu, viên đội cũng nói nho nhỏ một lời dọa dẫm, và tức thì, như có ma thuật, niềm vui vẻ, cuộc vũ và chuyện trò tắt liền, khi thầy ta lại gần người nào thì người ấy thay đổi điệu bộ, đương làm gì cũng ngưng lại, thu thập đồ đạc thật mau rồi dông. Đám thanh niên vũ kolo giải tán sau cùng còn tiếc cuộc vũ dưới bóng cây và không hề ngờ rằng cuộc vui chơi của họ thế là chấm dứt hẳn. Nhưng thấy vẻ mặt tai tái và cặp mắt đỏ ngầu của thầy đội, những kẻ hăng hái nhất cũng lùi.

Thất vọng và hoang mang, họ từ Mezalin theo con đường cái rộng, trắng mà trở về thị trấn, càng vô thị trấn càng nghe thấy thiên hạ sợ sệt thì thào, kể cho nhau nghe một cách mập mờ về vụ ám sát thân vương François Ferdinand và phu nhân ở Sarajevo sáng hôm đó và đương có cuộc lùng bắt các người Serbie từ mọi phía tới. Trước tổng hành dinh, họ thấy những người đầu tiên bị trói trong số đó có vị giáo trưởng trẻ Milan bị hiến binh dẫn vô khám.

Thế là buổi chiều hè đáng lẽ là một ngày hội vui vẻ thì không khí hóa ra hỗn loạn, chua chát, sợ sệt chờ đợi.

Trên kapia, cảnh im lặng như chết. Đã có một bót gác ở đó. Một người lính quân phục và vũ khí mới tinh chậm chậm đi đi lại lại từ cái bệ tới cái nắp sắt che lỗ đặt mìn. Chú ta cứ bước năm, sáu bước rồi quay lại, như vậy hoài, lưỡi lê lấp lánh dưới ánh nắng như một dấu hiệu.

Ngay sáng hôm sau, một tấm bố cáo trắng, in chữ lớn đóng khung đen cũng lớn, được đán lên tường, phía trên tấm bia khắc chữ Thổ giọng phẫn nộ báo cho dân chúng hay tin tự quân bị ám sát ở Sarajevo. Nhưng không một ai qua cầu ngừng lại để đọc cả: mọi người đều cúi đầu bước thật nhanh qua tờ bố cáo và người lính gác.

Từ hôm đó, cầu lại bị canh gác. Toàn thể đời sống ở thị trấn thình lình gián đoạn, ngưng lại như vũ khúc kolo ở Mezalin hôm trước.

Bây giờ những ngày kỳ cục nối tiếp nhau: Tinh thần kích thích, đọc báo thầm, thì thào với nhau, không khí sợ sệt khiêu khích, bắt bớ những người Serbie và những khách qua đường khả nghi, tăng cường rất mau các biện pháp quân sự ở biên giới. Các đêm hè trôi qua không một tiếng hát, không có các cuộc hội họp thanh niên trên kapia, không có tiếng thì thầm của các cặp trai gái trong bóng tối. Trong thị trấn, chỉ thấy lính tráng là nhiều. Và khi chín giờ tối, kèn các trại lính nhỏ trên khu Bikavats và trại lính lớn ở gần cầu vang lên điệu sầu thảm “tắt đèn” của áo thì đường phố gần như hoàn toàn vắng tanh. Thật là những ngày buồn cho những cặp tình nhân muốn gặp nhau, tâm sự với nhau mà không ai thấy. Buổi chiều nào Glasintchanine cũng đi qua nhà Zorka. Nàng đứng ở một cửa sổ mở, tại tầng dưới mà nền móng khá cao. Họ chuyện trò với nhau ở đó, vắn tắt ít lời thôi vì chàng phải vội qua cầu để về khu Okolichté trước khi trời tối mò.

Chiều đó chàng cũng lại thăm nàng. Mặt mày nhợt nhạt, tay cầm mũ, chàng yêu cầu thiếu nữ ra cổng cho chàng nói nhỏ ít điều. Nàng do dự bước xuống, đứng ở thềm sân, thành thử đầu hai người cao ngang nhau. Chàng xúc động thì thào, phải lắng tai mới nghe được: -Bọn anh đã nhất định trốn đi. Tối nay, Vlado Maritch và hai anh khác nữa. Anh nghĩ rằng mọi việc đã được tổ chức kỹ lưỡng và bọn anh có thể qua lọt được. Nhưng nếu bọn anh không … nếu xảy ra một cái gì. Em Zorka!

Chàng ngừng lại. Cặp mặt mở lớn của Zorka tỏ vẻ sợ sệt, lúng túng. Chính chàng cũng cảm động, như ân hận đã cho nàng hay và lại từ biệt nàng: -Anh nghĩ nên cho em hay.

- Cám ơn anh? Không có tin gì của anh … Không có tin gì từ Mỹ ư?

- Không, em đừng nên nói: “Không có tin gì cả.” Nếu em ưng thuận cách đây một tháng, khi anh đề nghị chúng mình cưới nhau thì có lẽ bây giờ chúng ta đã ở một nơi xa nào rồi. Nhưng có lẽ như vậy mà lại hơn. Bây giờ em thấy tình hình ra sao rồi. Anh phải đi với các bạn ấy. Chiến tranh tới kề rồi, và hết thảy chúng ta lúc này phải qua Serbie[117]. Em Zorka ạ, phải vậy, vì đó là một bổn phận. Nếu anh sống sót, nếu chúng ta giải thoát cho chúng ta được thì có lẽ chẳng cần qua Mỹ ở bên kia đại dương nữa, vì ở ngay đây chúng ta cũng có nước Mỹ của chúng ta rồi, một nước mà dân chúng làm việc nhiều và lương thiện sống đàng hoàng tự do[118]. Lúc đó, hai ta có thể sống ở đây được, nếu em muốn. Cái đó tùy em. Anh sẽ nhớ em, còn em … đôi khi …

Tới đó, chàng không tìm ra được tiếng gì để diễn nỗi lòng của mình, thình lình đưa bàn tay lên lùa vội mấy ngón tay vào mớ tóc rậm hung hung đỏ của thiếu nữ. Từ hồi nào tới giờ chàng ước ao cái thú đó nhất. Và bây giờ sắp vĩnh biệt rồi, chàng mới dám. Nàng hoảng hốt lùi lại và bàn tay chàng lơ lửng trên không. Cánh cổng lặng lẽ khép lại và một lát sau, Zorka hiện ra ở cửa sổ, nhợt nhạt, mắt mở lớn, những ngón tay đan vào nhau, run run. Chàng đi ngang sát cửa sổ, ngửa đầu ra sau, nét mặt tươi cười, vô tư có thể gọi là đẹp nữa. Nàng vội rút lui vào phòng nàng, lúc đó đã tối, như sợ không muốn nhìn cái gì sẽ xảy ra. Nàng ngồi trên nệm gục đầu xuống khóc.

Mới đầu nàng chỉ thút thít, rồi mỗi lúc khóc lớn hơn vì cảm thấy tình cảnh đau đớn của nàng không có lối thoát. Càng khóc nàng lại càng thấy thêm lý do để khóc, mà chung quanh nàng cái gì cũng càng có vẻ tuyệt vọng. Không bao giờ có lối thoát, không quyết định được gì hết: Không bao giờ nàng có thể thực sự yêu con người xứng đáng, tốt bụng, lương thiện sắp ra đi đó, Nicolas, mà cũng không bao giờ nàng được thấy cái ngày con người không thể yêu ai được kia, yêu nàng. Thôi, những ngày đẹp đẽ, vui vẻ chói lọi trên thị trấn năm ngoái sẽ không bao giờ trở lại nữa. Không khi nào người trong thị trấn này có thể thoát khỏi cái vòng đồi núi u ám kia, hoặc tạo được ở đây một quốc gia ai nấy đều làm việc nhiều nhưng được sống đàng hoàng và tự do, như người ta nói. Không khi nào!

Hôm sau có tin đồn rằng Vlado Maritch. Glasintchaine và vài thanh niên khác đã trốn qua Serbie. Còn tất cả những người Serbie khác đều ở lại với gia đình và của cải trong thung lũng sôi lên sùng sục như sống trong cái bẫy này. Mỗi ngày không khí nguy hiểm, lo ngại cứ rõ rệt dày đặc thêm lên trong thị trấn. Rồi sau cùng, một ngày đầu tháng Bảy cơn giông ở biên giới bùng nổ[119] lần lần lan tới khắp thế giới tai hại cho biết bao quốc gia, biết bao thị trấn và cả cho chiếc cầu trên sông Drina này nữa.

Lúc đó người ta mới thực sự bắt đầu săn bắt người Serbie và tất cả những gì liên quan tới họ. Xã hội chia thành hai hạng người: Hạng bị săn bắt và hạng săn bắt. Con thú đói khát trong lòng người đó, hễ còn bị những tập quán tốt, những luật lệ ngăn cản thì không dám lộ ra, bây giờ tha hồ tung hoành. Đã báo hiệu rồi, sự cản trở được dẹp rồi. Như vẫn thường xảy ra trong lịch sử nhân loại lúc này những hành vi tàn bạo, cướp bóc cả sát nhân nữa được nhắm mắt bỏ qua, cho phép nữa, miễn là nhân danh những quyền lợi cao cả, núp sau những mệnh lệnh ban bố mà đàn áp, thủ tiêu một số ít người có tên tuổi, có chủ trương rõ rệt … Một xã hội thay đổi trong một ngày. Khu thương mại dựng trên một truyền thống mấy thế kỷ, bị xóa bỏ trong một lát. Tại khu đó từ trước vẫn có những mối thù ngấm ngầm, ghen tị, lòng tin dị đoan, lòng kỳ thị tôn giáo, lâu lâu phát ra những cơn thịnh nộ thô bạo, tàn nhẫn; nhưng cũng có lòng can đảm, tình nhân đạo, tinh thần điều độ ưa trật tự. Tất cả những tình cảm này ngăn chặn bớt những bản năng xấu, những thói quen thô lỗ làm dịu bớt chúng đi, bắt chúng phải phục từng những quyền lợi tổng quát của đời sống chung, để có thể tạm chịu đựng được: Những người trong bốn chục năm được cả khu thương mại đó nghe lời bây giờ chỉ trong một đêm đã biến mất, như chết thình lình, và những thói quen, quan niệm chế độ họ tiêu biểu cũng biến mất theo.

Ngay hôm sau ngày tuyên chiến với Serbie, một bọn Schutzkorps[120] bắt đầu đi lùng khắp thị trấn. Bọn đó được thành lập vội vàng, cung cấp khí giới có nhiệm vụ giúp nhà cầm quyền săn bắt người Serbie: Chúng gồm những tên Tsigane, những kẻ say rượu, du thủ du thực, hầu hết là làm những việc trái pháp luật, bị hạng người tử tế không ưa. Một thằng tên là Houso Kokochar, gốc Tsigane, đê tiện, không nghề nghiệp nhất định, ngay từ hồi trẻ đã bị một bệnh kín vi trùng đục gần hết cái mũi, cầm đầu mươi đứa đi chân không, mang những cây súng cũ kiểu Wemdi, cắm lưỡi lê dài, làm hung thần khu thương mại.

Thấy nguy cơ đó, Pavlé Rankovitch, lấy tư cách là Hội trưởng Hội Serbie quản lý học được giáo khu, cùng với bốn vị cố vấn nữa đi kiếm Phó tỉnh trưởng tên là Sabliak. Ông này bụng bự, mặt tái mét, đầu hói không còn một sợi tóc, gốc gác Croatie mới giữ chức đó ở Vichégrad được ít lâu. Hôm đó ông ta quạu quọ thiếu ngủ, mí mắt đỏ, môi nhợt nhạt đã khô, mang giày cao ống, ở khuyết áo vét-tông kiểu thợ săn, màu xanh lá cây có đeo một dấu hiệu màu đen và vàng. Ông ta đứng mà tiếp mấy người kia không mời họ ngồi. Pavlé Rankovitch nước da vàng vọt, mắt như hải đường đen xếch, nói giọng ồ ồ: -Thưa ngài tỉnh trưởng, ngài thấy sự gì đương xảy ra và sắp xảy ra, và ngài cũng biết rằng những người Serbie, công dân Vichégrad chúng tôi không muốn như vậy.

Viên Phó tỉnh trưởng giận dữ ngắt lời: -Thưa ông, tôi không biết gì hết, không muốn biết gì hết. Tôi còn có nhiều việc khác quan trọng hơn là nghe lời các ông kể lể những chuyện nhảm. Thôi tôi không có gì phải nói thêm với các ông nữa.

Rankovitch bình tĩnh nói tiếp như muốn dùng sự ôn tồn của mình làm dịu con người quạu quọ, tinh thần quá kích thích kia vậy: -Thưa ngài Phó tỉnh trưởng, chúng tôi lại đây để xin được giúp đỡ ngài và tỏ lòng …

- Tôi không cần tới sự giúp đỡ của các ông và các ông cũng chẳng phải tỏ gì với tôi cả. Trong vụ Sarajevo các ông đã cho thấy các ông biết làm gì rồi mà.[121]

Rankovitch vẫn ương ngạnh, ôn tồn, nói thêm: -Thưa ngài Phó tỉnh trưởng, chúng tôi muốn rằng trong phạm vi luật định …

- Phải, bây giờ các ông mới nhớ tới luật pháp. Các ông cả gan khống tố luật pháp nào đó?

- Luật pháp của quốc gia áp dụng cho mọi người, thưa ngài Phó tinh trưởng.

Viên Phó tỉnh trưởng bỗng làm ra vẻ nghiêm trang như đã bình tĩnh lại được một chút. Pavlé Rankovitch nhân cơ hội đó nói tiếp: -Thưa ngài Phó tỉnh trưởng, chúng tôi được phép hỏi ngài chúng tôi và gia đình chúng tôi, đời sống và của cải của chúng tôi có được an toàn hay không, và nếu không thì chúng tôi phải làm gì?

Viên Phó tỉnh trưởng bèn đưa hai tay ra, quay lòng bàn tay về phía Rankovitch, nhún vai, nhắm mắt, cặp môi nhợt nhạt, mỏng dính run run mím chặt lại.

Pavlé Rankovitch biết rõ điệu bộ đặc biệt, tàn nhẫn câm điếc đui đó mà bọn quan lại biểu lộ trong những trường hợp nghiêm trọng, và hiểu rằng đã vậy thì chi còn cách rút im thôi. Viên Phó tỉnh trưởng hạ hai cánh tay xuống, ngửng đầu lên, và nói bằng giọng hơi ôn tồn hơn: -Bên quân sự, người ta sẽ cho biết mỗi người dân phải làm gì.

Bây giờ tới phiên Rankovitch dang hai tay ra, nhắm mắt nhún vai. Rồi nghiêm trang, hơi lạc giọng, ông nói: -Xin cảm ơn ngài Phó tỉnh trưởng.

Bốn người cố vấn cúi đầu chào, có vẻ cứng đơ, vụng về. Rồi cả bọn cùng bước ra như những kẻ bị xử hình.

Khu thương mại sôi sùng sục và chỗ nào cũng có những cuộc hội họp bí mật. Vài người Thổ danh vọng nhất trọng thị trấn: Nail Bey Tvrtkovitch, Osmanaga Chabanovitch, Souli-Aga Mezildjitch ngồi với nhau trong tiệm của Ali Hodja. Mặt họ tái mét, có vẻ lo lắng, nghiêm nghị và lạnh lùng. Họ là những người mà thà cầm quyền mời cầm đầu bọn Schutzkorps. Họ tụ họp ở đây, như ngẫu nhiên, để bàn với nhau nên có thái độ ra sao. Có người muốn nhận, có người không. Ali Hodja hăng hái, mặt đỏ, mắt sáng, nhất định gạt bỏ cái ý gia nhập Schutzkorps, bất kỳ bằng cách nào. Ông ta tấn công mạnh nhất Nail Bey, vì ông này bằng lòng với tư cách thân hào, cầm khí giới, thay bọn Tsigane mà chỉ huy những chi đội quân tình nguyện Hồi giáo:

- Tôi còn sống ngày nào thì không khi nào nhúng tay vào những việc đó. Và nếu bác có một chút lý trí thì bác cũng đừng xen vào. Bác không thấy tụi Ki tô giáo dùng chúng ta để choảng nhau, và rốt cuộc mọi sự sẽ trút lên đầu chúng ta hết ư?

Rồi vẫn bằng giọng hùng hồn hồi xa khi ông công kích Osman Karamanlia trên cái kapia, lần này ông một mực chứng minh rằng, “đối với lỗ tai người Thổ”, chẳng phía nào là tất cả, chi có hại cho mình thôi.

- Đã từ lâu rồi, có ai hỏi ý kiến chúng ta, có coi chúng ta ra cái gì đâu. Tụi Boche và Bosnie mà cả vua Thổ lẫn Hoàng thượng (Áo) không hề hỏi chúng ta: Như vậy được không, hởi các vị bey và quí tộc Thổ? Rồi khi người Serbie và Monténégro, – trước kia là hạng raia[122] – nổi loạn, chiếm một nửa đất thuộc Thổ, mà cũng chẳng có ai thèm ngó ngàng đến chúng ta. Và bây giờ Hoàng thượng đánh tụi Serbie, cũng chẳng ai hỏi gì chúng ta cả, nhưng đưa cho chúng ta vài cây súng, dùng chúng ta làm bọn lùa mồi, săn bọn Serbie thay cho tụi Boche để chúng khỏi phải leo núi Chargan mà rách quần. Tội nghiệp cho bác, làm sao bác lại không nghĩ tới điều đó? Trong bao lâu nay, có biết bao vụ quan trọng mà người ta chẳng thèm hỏi chúng ta gì cả, bây giờ người ta lại tặng chúng ta cái ân huệ khiến chúng ta gãy xương sườn đó là vì lý do nào vậy? Tôi, tôi nói cho bác nghe này: Việc đó người ta tính toán giỏi lắm, mà tốt hơn hết là chúng ta đừng có xen vào quá cái mức cần thiết. Ở đây, trên biên giới này, người ta đã bắt đầu đâm chém nhau, không ai biết được rồi sẽ đi tới đâu. Có kẻ nào núp sau cái xứ Serbie đó. Nhất định vậy. Bác ở miền Nézouké, một ngọn núi chắn ngang ca sổ của bác nên bác không nhìn xa hơn cái đống đá đó được. Thôi bỏ đi, đừng vô cái đoàn Schutzkorps đó nữa và đừng thúc đẩy người khác vô nữa. Cữ bóc lột mười tên nông nô bác còn giữ lại được để chúng sản xuất cho bác mà lại hơn.

Mọi người ngồi yên, làm thinh, vẻ nghiêm trọng. Nail Bey cũng im lặng, bị xúc phạm, cố nén để khỏi lộ ra mà không được, mặt tái mét, suy nghĩ lung lắm. Còn những người khác thì đều bị Ali Hodja lay chuyển, hồi tâm rồi. Họ hút thuốc lặng lẽ ngó đoàn xe ngựa chở đồ qua cầu không dứt. Rồi kẻ trước người sau, họ đứng dậy cáo từ ra về. Người cuối cùng Nail Bey ủ rũ chào, Ali Hodja nhìn thẳng vào mắt ông ta, rầu rầu bảo: -Tôi thấy rằng bác đã quyết tâm rồi. Bác muốn liều tính mệnh, bác sợ tụi Tsigane vượt bác. Nhưng bác nên nhớ các cụ già đã nói câu này từ lâu: Chưa phải là lúc chết, mới là lúc tỏ lòng dũng cảm thôi. Bây giờ những lúc như vậy đã tới rồi đấy.

Khu chợ nằm từ tiệm của Ali Hodja tới cầu chen chúc xe ngựa, lính tráng đủ các binh chủng, và bọn lính hậu bi lại trình diện ở ty cảnh sát. Thinh thoảng hiến binh lại dẫn một nhóm người Serbie, nông dân và thị dân, bị trói tay. Không khí đầy cát bụi. Ai cũng nói lớn tiếng và rảo bước, mặc dầu không cần thiết. Mặt họ đỏ gay, nhễ nhại mồ hôi. Người ta văng tục bằng mọi ngôn ngữ. Rượu, thiếu ngủ, sự xao động đau đớn vì nguy cơ đổ máu sắp tới, làm cho mắt người nào cũng long lên.

Ở giữa khu chợ, đối diện ngay với cầu, bọn lính hậu bị Hung bận quân phục mới đương đẽo những cây đà. Tiếng búa đập vội vàng, tiếng ca kêu xoẹt xoẹt. Có tiếng thì thào: Dựng cột để treo cổ đấy. Trẻ con tụ họp ở chung quanh. Từ thềm cửa tiệm, ông Ali Hodja nhìn thấy mới đầu người ta dựng hai cây cột rồi một chú lính hậu bị râu rậm leo lên cột đầu hai cây đó vào một đà ngang.

Thiên hạ bu lại thành một vòng tròn chung quanh, như thể người ta phát bánh halva vậy, đông nhất là lính nhưng cũng có nông dân Thổ và bọn Tsigane trong thị trấn. Một lát sau, một nhóm người vẹt đám đông, khiêng một cái bàn và hai cái ghế dựa lại cho viên sĩ quan và thầy ký ngồi. Tức thì đoàn Schutzkorps dẫn tới hai nông dân rồi một thị dân. Hai nông dân đó làm xã trường hai làng ở biên giới: Pozdertchitcho và Kamenitsa. Còn thị dân thì tên là Vaio, gốc gác ở Lika, làm thầu khoán, lại ở thị trấn đã từ lâu, cưới vợ tại đây. Cả ba đều bị trói ngơ ngác, hoảng hốt, mình đầy cát bụi. Tiếng trống thùng thùng, vang lên trong đám người sôi lên sùng sục, như tiếng sấm từ xa vang lại. Vòng người chung quanh cây cột bỗng im lặng. Viên sĩ quan, một trung úy hậu bị Hung the thé đọc bản tuyên cáo tử hình bằng tiếng Đức. Một thầy đội dịch lại. Cả ba đều bị hội đồng quân pháp xử tử vì có những chứng nhân thề đã thấy họ ban đêm làm dấu hiệu bằng ánh sáng về phía biên giới Serbie. Phải xử tử họ ở trước công chúng trong khu chợ, gần cầu Hai nông dân im lặng chớp chớp mắt, như ngớ ngẩn. Vaio lau mồ hôi trên mặt, giọng dịu dàng, rầu rầu, quả quyết rằng mình vô tội. Cặp mắt mở lớn, như điên, thầy ta ngó chung quanh xem có thể nói với ai được nữa.

Đã sắp hành hình thì một người lính nhỏ con, râu tóc hung hung, chân giang ra, len lỏi qua đám đông mà vô: nhìn lại thì là chú Gustave, trước kia làm bồi bàn trong lữ quán của Lotika, bây giờ làm chủ quán cà phê phía dưới khu thương mại. Chú bận một bộ đồ binh mới, đeo lon cai, mặt đỏ gay, mắt đỏ ngầu còn hơn ngày thường nữa. Chú giảng giải gì đó. Thầy đội muốn gạt chú ra, nhưng chú hung hăng, đâu có chịu, la lớn bằng tiếng Đức giọng nhè nhè, say rượu: -Tôi ở đây mười lăm năm rồi làm tình báo, được các câu lạc bộ sĩ quan cao cấp nhất tin cậy. Mới hai năm trước người ta hứa có cơ hội thì sẽ cho tôi tự tay treo cổ hai tên Serbie. Thầy không biết tôi là ai mà. Tôi đã được cái quyền làm việc đó. Và bây giờ thầy …

Có tiếng thì thào xôn xao trong đám đông. Thầy đội không biết tính sao. Gustave mỗi lúc mỗi hung hăng hơn, đòi phải để cho mình tự tay treo cổ hai tội nhân.

Lúc đó viên trung úy mới đứng dậy. Ông ta gầy gò, nước da sạm đen, có vẻ quí phái, mà rầu rĩ như chính ông ta bị xử tội vậy mặt không còn chút máu. Mặc dầu say rượu, Gustave cũng đứng nghiêm, chào, nhưng bộ râu mép lịch sự của chú rung rung mà cặp mắt láo liêng. Viên sĩ quan lại sát như muốn khạc nhổ vào cái mặt đỏ sẫm của chú: -Nếu mày không cút đi thì tao ra lệnh trói mày đem nhốt khám. Rồi ngày mai mày sẽ trình diện khi làm phúc bẩm. Hiểu chưa? Thôi dông đi, dông ngay.

Ông ta nói tiếng Đức lơ lớ Hung, giọng nhỏ nhưng dõng dạc mà rất phẫn nộ, khiến cho tên chủ quán cà phê say rượu kia thình lình thu hình lại nhỏ xíu, biến mất trong đám đông, đưa tay lên chào mấy lần theo lối nhà bình, miệng lí nhí xin lỗi những gì nghe không ra.

Lúc đó mọi người mới trở lại chú ý tới mấy tội nhân. Hai nông dân, có con cái cả rồi có thái độ y nhau. Họ run rẩy; ánh nắng và hơi nóng ngột ngạt từ đám người chen chúc toát ra làm cho họ nhấp nháy mắt, cau mày, như thể họ chỉ bực bội về những cái đó thôi. Vaio vẫn rên rĩ nho nhỏ rằng mình vô tội, bị kẻ cạnh tranh trong việc làm ăn vu oan, chứ thầy ta chưa hề đi quân dịch, chưa hề nghe ai nói rằng có thể dùng ánh sáng mà làm dấu truyền tin bao giờ.

Ông ta hơi biết Đức ngữ nói chậm chậm từng tiếng bằng một giọng tuyệt vọng, ráng tìm những từ ngữ để thuyết phục: -Herr Leutnantl Herr Leuttant. um Gottes Willen … Ich, unschuldiger Mensch… viele Kinder… Kinder… Unschuldig. Luge, alles Luge (…)

Bọn lính đã lại gần người nông dân thứ nhất. Chú ta vội vàng lột cái mũ bằng da lông xuống, quay mặt về phía Meidan nơi đó có giáo đường, lanh lẹ làm dấu thánh giá hai lần. Viên sĩ quan đưa mắt ra dấu xử tử Vaio trước. Thấy vậy Vaio tuyệt vọng, đưa hai tay lên trời, van lơn, kêu oan, la bải hải: -Nein, nein, Nicht, um Gottes Willen. Herr Leutnant.Sie wissen … alies ist Luge … Gott … alles Luge.

Nhưng tụi lính đã nắm được cẳng và mình thầy, khiêng lại đặt lên trên cái giá, dưới dây thừng. Đám đông nín thở, hồi hộp tò mò theo dõi xem người thầu khoán tội nghiệp đó và viên trung úy, bên nào sẽ thắng.

Ông Ali Hodja trước đó, đã nghe thấy ồn ào không hiểu là gì, không ngờ có vụ đó, lúc này mới thình lình thấy nét mặt hoảng hết của Vaio ló lên khỏi đầu đám đông, bèn chạy vội ra khép cửa lại mặc dầu có lệnh nghiêm nhặt của nhà binh, bắt mọi cửa tiệm phải mở cửa.

Nhiều đội quân mới liên tiếp tới thị trấn, với đủ khí giới, quân nhu, lương thực, tới bằng xe lửa mà chuyến nào cũng đầy nhóc và cả bằng đường cái cũ đi ngang qua Rogatitsa nữa. Suốt ngày, suốt đêm, xe, ngựa rầm rầm qua cầu và vừa mới ra khỏi cầu vô thị trấn thì vật thứ nhất họ trong thấy là ba thây ma treo lủng lẳng ở trước chợ. Và như mọi khi đoàn xe bị chẹn cứng trong những phố đầy nghẹt người, các đoàn sau phải đợi ở cầu hoặc ở trước chợ, bên cái cột treo cổ tội nhân.

Mình mẩy đầy bụi, mặt mày đỏ gay, nổi quạu la quá mà khản tiếng, mấy thấy đội cỡi ngựa len lỏi trong đám xe và ngựa, đưa tay ra dấu một cách tuyệt vọng, văng tục bằng đủ ngôn ngữ trong đế quốc Áo Hung, dùng đủ mọi tiếng thiêng liêng trong mọi tôn giáo.

Ba bốn ngày sau, một buổi sáng sớm, trong khi chiếc cầu lại đầy xe nhà binh tiến chậm chậm vô trung tâm chật hẹp của thị trấn, thì một tiếng veo véo ình tai khác thường vang lên trên thị trấn và một trái phá rớt trên thành cầu ngay trước cái kapia ở giữa cầu. Các mảnh sắt và đá bay tung ra, ghim vào người và ngựa, gây một cảnh xô đẩy hỗn độn: Các con ngựa lồng lên và tức thì mọi người chạy nhốn nháo, kẻ đâm bổ về phía trung tâm thị trấn, kẻ chạy ngược chiều, trở lại đường cũ. Đúng lúc đó ba trái phá nữa bay tới, hai trái rớt xuống nước, một trái lại trúng vào cầu, giữa đám người và ngựa. Chỉ trong nháy mắt, cầu vắng tanh, và người ta thấy trên cầu những vết sẫm tức những xe bị lật, những người và ngựa chết. Từ trên núi Boutko, giàn đại bác Áo khạc đạn, nhắm chừng nghĩa quân Serbie từ chỗ nào trên núi bắn xuống; lúc này nghĩa quân ria tạc đạn vào đoàn xe chạy tán loạn ở hai đầu cầu.

Từ ngày đó, giàn pháo ở Panos nhắm hoài vào cầu và trại lính gần cầu. Ít bữa sau, cũng một buổi sáng, lại có một tiếng nổ ở phía Đông, về miền Golech. Tiếng đại bác xa hơn nhưng rền hơn, và trái phá kêu veo véo lớn hơn trên thị trấn. Đó là súng bắn trái phá: Có hai cỗ hết thảy. Những trái đầu rớt trên sông Drina, rồi rớt xuống khoảng trống trước cầu, làm hư hại mấy căn nhà gần đó lữ quán của Lotika và trại lính; rồi cứ cách quãng đều đều họ nhắm đúng hơn vào cây cầu và trại lính. Không đầy một giờ sau, trại lính phát hỏa. Lính ráng dập ngọn lửa nhưng bị tạc đạn từ trên Panos bắn trúng lăn ra chết. Sau cùng họ bỏ mặc trại lính. Trời nóng nực tất cả những gì bằng gỗ đều cháy hết, và thỉnh thoảng vài trái phá rớt đúng đám nhà đổ nát bốc lửa, phá tan hoang những gì ở trong. Thế là lữ quán bằng đá lại bị tàn phá một lần nữa, còn trơ lại một đống gạch đá.

Sau đó hai cỗ súng ở Golech lại tiếp tục nhắm chiếc cầu nhất là cột cầu ở giữa. Trái phá rớt xuống, khi thì xuống sông, khi thì ở bên phải và bên trái cầu, có khi nổ trúng những cột cầu bằng đá xây đặc, có khi rớt ngay trên cầu nhưng không bao giờ trúng cái nắp sắt che lỗ chứa chất nổ ở trong lòng cột cầu giữa.

Cuộc bắn phá kéo dài mười ngày mà không gây hư hại gì quan trọng cho cầu. Tạc đạn đụng nhằm những cột cầu nhẵn thín và những nhịp cầu tròn tròn, dội ngược ra, nổ trong không khí mà mặt đá chỉ bị trầy nhè nhẹ thành những vết trắng để ý mới thấy. Và những mảnh tạc đạn dội lại như trận mưa đá, đập vào những bức tường nhẵn nhụi, chắc chắn. Chỉ những trái phá rớt lên lòng cầu là để lại những lổ nhỏ, nông, và những vết sứt mẻ trên mặt cầu bằng dá sạn, nhưng phải đi trên cầu mới thấy được.

Vậy là trong cơn giông tố trút trên thị trấn đó, làm đảo lộn, bứng tận rễ những thói quen cố hữu đi, giết nhiều mạng người và những vật vô tri, chiếc cầu vẫn đứng vững, trắng, trơ trơ như hồi nào tới giờ.

[117] Để kháng chiến, chống Áo, Đức.

[118] Trước thế chiến thứ nhất, Mỹ còn được coi là một nước tượng trưng cho tự do, thịnh vượng

[119] Tức thế chiến thứ nhất, mà vụ ám sát Francois Ferdinand ở Sarajevo là một nguyên nhân gần.

[120] Tiếng Đức trỏ đoàn quân phòng vệ.

[121] Thủ phạm trong vụ đó là một sinh viên Serbie.

[122] Trỏ những người Hy Lạp, Arméni, Do Thái … trong đế quốc Thổ trước năm 1856 mà không nhập quốc tịch Thổ, không phải là công dân Thổ.