← Quay lại trang sách

- 1 -

Ngay từ sáng sớm, trước khi mặt trời mọc, chiếc máy bay tiêm kích đã lên đường. Thân sơn đen, tải trọng giết người xếp trong bụng, nó nổ máy. Tiếng động cơ vù vù trong tĩnh lặng của bình minh. Cánh quạt quay. Chiếc may bay rung lên, đèn tắt, nó lăn bánh trên đường băng, nó nâng mũi lên và bắt đầu cất cánh. Với một sức đẩy đều đặn, nó lên tới năm nghìn mét và giữ ổn định ở đó. Trời đã sáng. Từ biển, từ trên trời, từ bốn phương, chiếc máy bay tiêm kích ở trong tầm nhìn. Tôi tên là Laura Carlson. Tôi sinh ngày 10 tháng Mười - 1944 tại New York. Cha tôi mất ngày 7 tháng Tư - 1945 tại Okinawa.

Tôi chỉ có hai tấm ảnh của ông. Trên một tấm, cha tôi đứng nghiêm bên cạnh những người của ông, trên boong con tàu Maryland. Gương mặt ông im lìm, thản nhiên, căng thẳng trong sự tuân phục như thể đã đi về cõi chết. Trên tấm bia ông quàng tay ngang người mẹ tôi ở Central Park. Trời nắng, ông mỉm cười. Mẹ cũng mỉm cười. Tôi không biết gì về nước Mỹ. Khi mẹ trở về Pháp, tôi chưa đầy hai tuổi. Mẹ đến gõ cửa căn hộ to lớn phố Bienfaisance, căn hộ thời thơ ấu của mẹ, cái thời mẹ muốn quên đi. Ông bà đón tiếp cô con gái hư và cái con bé nửa lạ nửa thân là tôi, còn nó thì lăn vào tay ông bà. Chắc là ông bà có hỏi vài câu. Mẹ tôi không trả lời. Đó là tự kiêu, nhiều năm sau này bà tôi còn nói vậy.

Thời thơ ấu của tôi rất chán. Căn hộ tôi cũng chán, ông bà tôi cũng chán còn mẹ tôi thì chìm sâu vào một cõi tĩnh lặng thê thảm. Thoạt đầu mẹ cố gắng làm việc. Theo gợi ý của bà, mẹ tôi dạy tiếng Anh tại trường trung học ở đó mẹ đã từng theo học. Mẹ vất vả đấu tranh chống chứng suy nhược thần kinh. Lẽ ra mẹ có thể đến gặp bác sĩ, nhưng không ai nghĩ đến việc đó. Một ngày kia, mẹ không còn can đảm chuẩn bị bài giảng của mẹ và đối đầu cái nhìn thương cảm của bạn đồng nghiệp của mẹ. Bà đến giải thích với bà hiệu trưởng. Người ta cất gánh nặng công việc cho mẹ, và từ đó mẹ sử dụng những ngày dài nhàn rỗi để chơi trò chơi chắp hình, suốt ngày như vậy. Ông bà tôi gánh lấy trách nhiệm giáo dục tôi và chăm sóc con gái giống như người ta chăm sóc một đứa trẻ chậm phát triển.

Thi thoảng mẹ đi ra ngoài. Chúng tôi ăn tối mà không có mẹ. Bà tôi ra lệnh cho chúng tôi ăn nhanh, cuối cùng thì bón cho tôi ăn mặc dù tôi đã lên bốn. Cái thìa va vào răng tôi. Nước súp làm bỏng lưỡi tôi.

Khi mẹ về, tôi đã đi nằm. Qua tường tôi nghe thấy cơn giận nén lại của bà. Mẹ vấp vào bàn ghế, rồi vào cửa và rên rỉ khiến tôi phát hoảng. Tôi lo lắng dỏng tai “ - Nếu con tái phạm ta sẽ nhốt con lại” bà rít lên. Bà đã được thực hiện lời dọa này vì trong gần chục năm mẹ không ra ngoài nữa.

Cha tôi chết trong chiến tranh. Trong một thời gian dài, đó là tất cả những gì tôi biết. Khi tôi hỏi, mọi người mắng tôi. Điều này làm mẹ buồn. Tôi không muốn làm mẹ buồn. Tôi được quyền vào buồng mẹ. Tôi ở đó xem mẹ lật những quân bài của mẹ. Đôi khi mẹ dừng lại. Mẹ vặn những bím tóc của tôi, những cái đuôi chuột, tôi chưa từng bao giờ có nhiều tóc, điều này làm bà thất vọng. Bàn tay bé nhỏ của mẹ hành hạ tôi đôi chút nhưng tôi nín thở mà chịu. Mẹ có thể kéo tóc tôi mà tôi cũng chẳng nói gì. Nếu tôi đặt tay lên tay mẹ, mẹ giật nảy người. Không bao giờ mẹ ôm tôi trong cánh tay mẹ. Mẹ không ôm gì cả.

Hôm nào cũng vậy, vào khoảng bốn giờ, mẹ uống một thứ thuốc nước. Đi dọc hành lang lớn âm u, tôi chăm chỉ mang đến cho mẹ tách thuốc rung lên trong tay tôi. Tôi khẽ gọi mẹ qua cửa. Mẹ mở cửa không một tiếng động. Mẹ cúi xuống bên tôi, tóc mẹ xõa xuống mắt. Mẹ đặt tôi ngồi lên giường và bỏ vào miệng tôi một cục đường thấm nước thuốc. Một chút nước như si rô chảy xuống cằm tôi, rồi rất chăm chú và có phương pháp mẹ lấy ngón tay đưa nó vào miệng tôi. Tôi giống như người bị cứng cơ, đờ ra vì thích thú. Tôi cố tình sùi bọt mép. Hình như toàn thân tôi tập trung vào đôi môi mà ngón tay mẹ chạm vào. Lên sáu tuổi, vào cái giờ mẹ uống thuốc thì tôi phải đi học và cái thú đó cũng mất. Biết bao lần tôi đã mong muốn Bruno nuôi tôi như vậy, mà không dùng đến thìa. Tôi đã không bao giờ dám yêu cầu anh điều đó.

Bà là người rửa ráy cho tôi, mặc áo quần cho tôi, uốn tóc cho tôi, trưng bày tôi ở chợ hoặc ở xứ đạo mà bà tôi là người đỡ đầu. Tôi thì yên lặng, tôi làm tất cả những gì bà muốn. Bà là một phụ nữ cao lớn, khỏe mạnh, vai rộng, ngực đồ sộ, môi dày. Với mái tóc uốn lâu bền, bà còn cao hơn ông. Tất cả chúng tôi biến mất cạnh bà. Mặc dù bà là một phụ nữ đáng kính trong khu vực và mọi người cúi mình chào bà, tôi mơ hồ cảm thấy quá nhiều sức mạnh toát ra từ người bà, đặc biệt là khi tôi nhìn đôi bàn chân to lớn của bà bị biến dạng bởi đôi giày nhọn mũi. Bà là một phụ nữ biểu chất, một phụ nữ không dịu hiền, không yếu đuối, bà tự hào phô ra đôi giày biến dạng của bà và điều khiển chúng tôi một cách nghiêm khắc. Tôi thừa kế sức mạnh từ bà.

Cho đến ngày tôi đi học, tôi thường đi lễ nhà thờ hai lần một tuần, vào Chủ nhật và thứ Sáu. Ngày Chủ nhật chúng tôi đi sớm. Bà giám sát cách sắp xếp những bó hoa. Tôi nhận thấy tiếng ồn ào của ghế bị xô đẩy phía sau tôi. Chợt tiếng đàn oóc nổ ra, tôi rùng mình. Gian giữa bừng sáng lên, rồi đám rước của các linh mục long trọng đi ngược lên lối đi ở giữa, được mọi người hoan hô. Thật là quá đáng. Mỗi Chủ nhật điều đó lại diễn ra, đúng theo cái cung cách đó, và thật quá đáng. Bầu trời hình như mở ra. Đó gần như là tiếng ồn của chiếc máy bay tiêm kích. Trên một trong những cái cột, có một tượng Chúa bằng gỗ sơn, mặt nghiêng về phía chúng tôi. Đối với tôi hình như Chúa đang ngủ, hình như người kiên nhẫn đợi cho mọi cái xong đi. Người khiến tôi nghĩ đến mẹ.

Ngày thứ Sáu, những bức tượng chập chờn dưới ánh sáng những ngọn nến. Chúng tôi, những người Thiên Chúa giáo chính cống không nhiều, trừ tôi còn toàn là các bà già. Những giọng nói thì thầm, liến láu, nghẹn ngào như thể xấu hổ vì có người nghe thấy. Quỳ gối trên một chiếc ghế cầu kinh, tôi lần tràng hạt vì mẹ. Tôi nghĩ rằng nếu tôi cầu nguyện khá nhiều thì mẹ sẽ khỏi bệnh. Bà đã dạy tôi cái kiểu có đi có lại. Nếu cháu ngoan, bà sẽ đọc cho cháu nghe chuyện Con dê cái của ông Seguin. Tôi luôn luôn ngoan ngoãn. Những điều bậy bạ duy nhất của tôi là do sự vụng về của tôi. Tôi đánh rơi mọi cái, nào xà phòng, nào đĩa, nào những miếng thịt. Tôi từ nhà thờ trở về, chắc chắn là mẹ sẽ đón tôi ở cửa, tươi cười và hớn hở, mẹ sẽ cầm lấy tay tôi để đưa tôi đi sống ở một nơi xa, một mình tôi với mẹ tại một nơi đầy ánh sáng. Nhưng tôi đã không cầu nguyện đủ bởi vì mẹ luôn luôn lỗi hẹn. Trong khi đằng kia, trong buổi bình minh tươi sáng, chiếc máy bay tiêm kích đã sẵn sàng.

Căn hộ đối với tôi rộng mênh mông. Trừ nhà bếp, mọi thứ ở đây đều tối. Có một phòng khách lớn, một phòng ăn lớn và bốn buồng trong đó một cái dùng làm văn phòng cho ông. Nhưng đặc biệt có một hành lang dài tăm tối. Cho tới cuối cùng, tới cái ngày mà tôi dẫn những người chủ mới bước vào, tôi đã luôn e sợ nó. Tôi bé bỏng, cứ như thể tôi dấn thân vào một đường hầm, vào đêm đen. Tôi không với tới quả đấm cửa, cũng chẳng tới cái ngắt điện. Tôi dán mình vào tường, tôi mò mẫm tiến lên. Khi tôi tới chỗ ngoặt, một chút ánh sáng lọt qua khe cửa nhà bếp, thế là tôi thoát. Buồng của tôi có những bàn ghế của người lớn, một cái khăn phủ giường và những bức màn ri - đô bằng lụa tím, vĩnh viễn một màu. Chỉ có một vệt sáng là cái thảm chân giường. Tôi không biết tại sao tất cả những cái tủ đều khóa. Bà mang chùm chìa khóa trong người, ở thắt lưng. Nó kêu leng keng theo bước chân bà.

Một hôm, bà nhốt tôi trong một căn phòng hẹp vì tôi đã đánh vỡ một cái bình bằng pha lê. Tôi đứng trong bóng tối giữa những cái chổi và cái máy đánh sàn. Tôi nghĩ đến Hansel và Gretel, đến những đứa con nhỏ của thánh Nicolas trong vại muối. Tôi sợ đến nỗi tôi bắt đầu hét lên. Trong căn hộ phố Bienfaisance không bao giờ có tiếng ồn. Kêu lên khiến tôi nhẹ lòng. Bà đập cửa phía bên kia. Mày có im đi không? Kêu lên làm tôi nhẹ lòng. Tôi lắng nghe giọng nói của tôi. Tôi phát hiện ra nó và sức mạnh của nó khiến tôi ngạc nhiên. Dần dà khi tôi kêu, tôi cảm thấy một cái gì đó nóng và mạnh mẽ, một sự thoải mái mới mẻ, một niềm vui thú mạnh mẽ trào lên miệng. Có lẽ đó là sự căm thù đối với người đàn bà độc ác vẫn không mở cửa cho tôi. Chúng tôi đấu tranh, chúng tôi đối đầu nhau qua cái cánh cửa đóng, hướng về chiến thắng, về sự đè bẹp đối thủ. Tôi không quen chiến đấu, sức lực của tôi phản lại tôi. Tôi khản cả giọng. Tôi mệt lả người. Khi bà không nghe thấy gì nữa, bà bèn mở cửa. Tôi ở dưới đất. Tôi không động cựa. Bà lôi tôi về buồng của tôi, rồi tôi nhịn đói mà đi ngủ. Tôi không bao giờ kêu nữa.

Bà đọc cho tôi nghe rất nhiều chuyện. Việc này xảy ra trong phòng khách. Bà kính cẩn lấy ra từ một cái tủ khóa những quyển sách to, gáy mạ vàng mà ngày xưa bà đã cho mẹ. Tôi không có quyền đụng vào. Bà ngồi vào một cái ghế bành bọc nhung màu nâu, còn tôi, tôi đã có cái ghế bé nhỏ của tôi, cái ghế của mẹ khi mẹ còn bé. Hơn tất cả những chuyện khác, tôi thích hai chuyện: Nàng tiên và con dê của ông Seguin. Tôi đòi hỏi chúng. Tôi muốn được nghe chúng hàng ngày. Tôi đã thất vọng vì bà chống lại. Tại sao bao giờ cũng là những chuyện đó? Chúng tôi chưa bắt đầu chuyện Chuyện kể ngày thứ hai. Bà có đầu óc khoa học và muốn tôi cũng có như bà. Khi nói mà nhả ra ngọc hoặc phun ra cóc, điều đó làm tôi bối rối, làm tôi đố kỵ. Khi hình ảnh đó hiện lên, tôi có cảm giác đầy mồm đầy miệng. Tôi lơ mơ hiểu rằng nói tức là cho xem cái ta có trong bụng. Tôi quá rụt rè để nói và các câu hỏi hiếm hoi của tôi được gửi về nơi tĩnh lặng hoặc về với Chúa. Nỗi sợ đó có hậu quả tai hại là khiến cho tôi tưởng rằng tôi có hàng cân ngọc trai trong bụng. Khi tôi thấy cóc trong bụng, chúng liền biến thành những con quỷ. Còn con dê của ông Seguin thì đương nhiên là mẹ rồi. Mỗi khi ông Seguin kêu lên “Quay lại đi, quay lại đi” bằng cái còi nhỏ của ông, tôi lại khóc. Ban đêm, tôi ngủ trên cái thảm chân giường và tôi cọ má tôi vào đó. Trong đầu tôi, con dê cái màu trắng nhảy nhót giữa các cây nho dại, từ này tôi không biết nghĩa nhưng nó khiến tôi thán phục đến nỗi mỗi lần tôi đọc nó lên tôi lại thấy một đốm nhỏ mặt trời.

Bà là một kẻ ăn thịt trẻ con. Bà đặc biệt ưa thích chuyện Cô bé quàng khăn đỏ. Con thấy đó, không được nói chuyện với người lạ (lời trách móc chủ yếu mẹ tôi). Tôi nhìn bà đọc, mê đi vì cử động của miệng bà. Phải chăng vì bà có cặp môi dày mà có vẻ như bà nuốt hết các chữ. Chẳng phải ngọc trai, cũng chẳng phải cóc, mà là một thứ bột nhão âm vang do một cơ chế không mệt mỏi sinh ra, một cái lỗ đen xì mở ra và khép lại chỉ cách mặt tôi có hai ngón tay. Đó là cái mõm chó sói nuốt chửng một lời đe dọa bí ẩn. Ban đêm, tôi tưởng tượng bà đi lang thang trong căn hộ, bước thấp bước cao bằng đôi chân ghê tởm, đôi môi chìa vô hạn độ về phía trước. Tôi sợ. Tôi muốn gọi mẹ. Tôi không dám. Mẹ cũng làm tôi sợ, nhưng theo một cách khác, với sự im lặng của mẹ, bộ mặt trống rỗng của mẹ.

Mỗi tháng một lần, bà mời cơm những người bạn linh mục của bà và vài giáo dân xứ đạo. Khi bà rời nhà bếp, nơi bà đã ở đó suốt ngày, bà cởi bỏ chiếc tạp dề và gõ cửa buồng mẹ. “Năm giờ rồi, Bénédicte, con có muốn mẹ búi tóc cho con không?” Bà vào mà không cần đợi trả lời, túm lấy tóc mẹ mà chải bồng lên cho đến khi chúng tự dựng lên, vểnh về phía trần nhà. Rồi bà lại ép chúng xuống, lấy kim ghim chúng lại, rồi bôi rất nhiều dầu bóng. Từ ngoài cửa tôi chứng kiến cái việc làm mẹ xấu đi. Cả hai chúng tôi, chẳng ai nói gì.

Tôi được phép ở lại để uống rượu khai vị. Bà ngồi chễm chệ, tất cả các vị linh mục quỳ gối trước bà. Bà tung ra những câu nói trống không bằng một âm sắc cao, nhọn như răng một chiếc nĩa. Giọng nói chính cống của bà xổ ra trong sự phấn khích. Mẹ nhấm nháp nước quả, mẹ không được uống rượu vang. Có những bà đon đả nói với mẹ về tôi, về sự ngoan ngoãn của tôi. Mẹ lắc đầu, đôi mắt xa xăm. Đến chín giờ, giờ đã định trước, bà gác cổng mặc tạp dề có đăng ten trắng đi vào và báo: “Cô đã được phục vụ”, cho tôi biết đã đến lúc đi ngủ. Từ buồng của tôi, tôi nghe thấy tiếng ồn ào của phòng ăn, nơi đây nổi lên giọng nói của bà. Đó là những ngày duy nhất thoát khỏi lệ thường. Chúng lại còn được điều hành rất có bài bản.

Những đêm đó tôi thường nằm mơ. Tôi luồn tay vào tóc mẹ để tháo cái búi tóc ra. Những cái đinh ghim rơi ra, nảy trên sàn nhà. Tôi nghe rất rõ tiếng chúng rơi. Tôi càng vuốt tóc mẹ, đinh ghim càng rơi ra nhiều. Hình như chúng sinh sôi nảy nở dưới ngón tay tôi. Không bao giờ tôi gỡ được cái búi tóc đó. Trái lại, một đám đinh ghim thay thế mái tóc mẹ. Mẹ ngoảnh mặt về phía tôi hơi nghiêng cái đầu có vành ghim như vậy và nhìn tôi với vẻ dò hỏi. Ngay trong những giấc mơ của tôi, tôi đã không biết yêu mẹ.

Một hôm bà đang đọc chuyện cho tôi nghe, mẹ lại gần chúng tôi không một tiếng động. Thấy mẹ tôi ngạc nhiên đến nỗi tôi đứng dậy và nhảy xổ vào mẹ. Mẹ nén một tiếng kêu. Tôi đã làm mẹ đau. Bà quát mắng tôi và ra lệnh cho tôi ngồi xuống. Sau này tôi học ở trường bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine Con lừa và chú chó con. Trong khi tôi đọc thơ, kỷ niệm về cái cảnh đó tràn ngập trong lòng tôi. Con lừa, đó là tôi. Những cái vuốt ve của tôi là những cú đánh.

Ở đằng kia, biển cả bằng phẳng, một màu kim loại, bầu trời hoàn toàn quang đãng, mặt trời sáng tỏ như thể được cắt bằng một chiếc đục vừa chớm trên đường chân trời. Buổi bình minh của các thời đại, sự rạng rỡ của sáng tạo. Và trong ánh sáng trắng trong, cái khối bé nhỏ gọn gàng của chiếc máy bay tiêm kích tiến lên, tiến lên.

Ông có ba niềm say mê, toán học, thiên văn học và đi câu cá thu trên các bãi cá ở Terre-Neuve. Đến nỗi vì những lý do khác hẳn các lý do của mẹ, ông cũng gần như giam mình hàng ngày trong văn phòng, dí mũi vào các cuốn sách bác học, sức khỏe của ông kém vì ông bị hơi ngạt trong chiến tranh năm 1914. Cứ mỗi sáng, ông lại nhổ vào cái la- va-bô. Tôi không nhớ đã được chơi đùa với ông. Tôi vừa biết nói thì ông dạy tôi đếm. Tại bàn ăn, ông đặt ra cho tôi những câu toán đố miệng mà tôi phải trả lời ngay. Đó là những sự trao đổi duy nhất giữa chúng tôi. May mà tôi cũng có năng khiếu. Khi tôi đặc biệt giỏi, ông gọi tôi là con chuột bé nhỏ của ông. Nhiều năm sau này, trên giường bệnh ông lại gọi tôi là con chuột bé nhỏ. Tôi đã nghẹn ngào. Trước con người mà tôi không hiểu mấy, một ý nghĩ tuyệt vọng thôi thúc tôi: Tại sao ông chưa bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến tranh năm 1914, những chiến hào bùn lầy, cái đói, cái rét, những xác chết thối rữa, khí ngạt? Tại sao tôi không biết tí gì về tất cả những cái đó? Vì không thể cầm tay ông, tôi đã thầm thì qua nước mắt, bảy nghìn tám trăm chín mươi lăm cộng với chín nghìn hai trăm mười bảy. Ông đã không còn trả lời được nữa rồi. Trong những áo quần mà bệnh viện đã trả lại cho tôi, tôi tìm thấy cái áo bằng ca-sơ-mia màu xám vấy máu của ông. Tôi đã giặt nó. Những vết máu không sạch, và tôi cứ thế mặc cho đến khi ống tay bị sờn. Tuy nhiên không phải bao giờ ông cũng nói bằng những con số.

Mùa hè chúng tôi đi nghỉ ở Fécamp. Tôi rất nóng lòng chờ đợi ngày ra đi. Tôi thích Fécamp. Ý nghĩ về Fécamp giúp tôi chịu đựng qua năm. Ông chất đồ lên chiếc xe Citroen 15 theo lệnh của bà. Tôi trèo lên sau xe với mẹ, chân đặt lên các gói đồ, cái giỏ đựng bữa ăn ngoài trời trên đầu gối. Chúng tôi dừng lại Rouen, ở đó bà mua hai cái đĩa cho bộ đồ ăn của tôi. Sau đó chiếc xe chạy qua đồng bằng về phía biển, nó rung lên dưới những hành trang chất lên nóc xe. Ông đặt mua báo L’Echo fécampois và do đó ông biết giờ nước triều lên xuống. Ông dự đoán mực nước theo thời gian của chuyến đi. Tôi đã nói rồi mà, khi đến nơi, ông hoan hỉ nói - và cái niềm vui này cho ông sức mạnh cần thiết để vượt qua những thử thách to lớn của công việc tháo dỡ đồ đạc và sắp xếp chỗ nghỉ. Ở Fécamp có thể nói rằng chúng tôi đã sẵn sàng cho một cuộc sống khác.

Hàng năm ông bà tôi thuê ngôi nhà gạch đỏ đứng ở ngay đầu con đường nhà Đoan, chạy về phía vách đá. Một hàng hiên giống như một cái lồng thủy tinh gắn vào mặt tiền làm dịu đi vẻ khắc khổ. Từ những cửa kính, ta chỉ nhìn thấy biển và bầu trời với những con mòng biển quay cuồng. Phía sau là một mảnh vườn nhỏ. Mẹ và tôi ngủ ở tầng hai, hai buồng đối diện nhau. Tôi được phép để hai cửa hé mở. Tôi nằm trên giường hai mắt chăm chú nhìn vào khe hở. Như thế tôi cảm thấy trái tim tôi bay đến với mẹ. Tôi thầm gọi tên mẹ, tôi ru mẹ ngủ, tôi canh giấc ngủ của mẹ. Người ta có thể nghĩ rằng tôi yêu mẹ tôi. Ngay cả điều đó, tôi cũng không dám chắc. Tôi chỉ thích được chiều chuộng thôi.

Và rồi ở Fécamp mẹ lại khác tính đi. Chúng tôi qua những buổi chiều dài trên bãi biển hoặc ở chân vách đá khi nước triều cho phép. Mẹ bảo tôi: “Đi tắm đi con”. Rồi tôi chạy lại với biển, tôi trẹo chân trên đá cuội, rồi tôi nhào người vào nước lạnh, lóe mắt vì mặt trời, người nhẹ lâng lâng, trái tim say sưa vì lòng biết ơn đối với mẹ, mẹ đã ngỏ lời với tôi. Chúng tôi lượn trong bến cảng và đọc tên những còn tàu. Chúng tôi đi đến tận ngọn hải đăng, giữa gió lộng. Mẹ thích gió. Mẹ đứng đó cho gió tung váy áo, cho gió làm xổ tóc, mắt nhìn chăm chú ngoài khơi mặc cho đám bụi nước bay vào mắt. Có một cái gì đó hút chúng tôi trong cái chân trời trống rỗng này mà chúng tôi nhìn chằm chằm như thể chúng tôi đợi chờ trông thấy ở đó xuất hiện một dấu hiệu.

Hàng ngày ông đến văn phòng của bến trưởng nói chuyện với những người đánh cá thu ở đảo Terre-Neuve đã từng làm việc trên các bãi cá thời còn thuyền buồm. Tôi thích đi theo ông. Những thủy thủ này không có kẻ thù nào khác ngoài nỗi buồn phiền và chứng hư khớp, họ làm sống lại trong ông một cuộc sống đầy kinh hãi, bão táp kinh khủng, những bàn chân rét cóng, những vết thương bị muối gặm nhấm, những hình phạt vô nhân đạo, những món canh tồi tệ và bệnh scorbut. Ông tôi mơ như thế đó. Rồi, tay cầm cuốn sổ, ông đến gặp bến trưởng, hỏi ông ta về vị trí tàu thuyền, ở đằng kia, trên những bãi cá ở Terre-Neuve, về thời tiết, về lượng cá đánh bắt, nghe một cách thành kính những cuộc liên lạc radio, và đắm chìm trong suy ngẫm trước những tấm bản đồ đính đầy ghim. Ở nhà, ông đổ tội cho cái nhiệt kế và cái phong vũ biểu mà ông dùng để thông báo cho chúng tôi những số liệu tại bàn ăn.

Hai hôm trước ngày 15 tháng Tám, ông đặt trên ban công buồng mẹ một cái kính rất đẹp bằng đồng mang từ Paris về. Khi đêm đã tối đen, mẹ và tôi theo ông lên gác. Bà thì đi ngủ viện cớ đã bốn chục năm nay bà thuộc lòng bầu trời. Ông chỉ cho tôi những cái vành của sao Thổ, những biển của Mặt trăng, sao Orion, Đám mây lớn của Magellan, của Cassiopée. Phải đặt mắt vào cái kính mà không làm nó động đậy, vì việc điều chỉnh nó rất khó. Cháu thấy không, cháu thấy không? - Ông nhắc đi nhắc lại lo lắng sao cho chúng tôi không để mất những điều kì diệu mà ông phát hiện cho chúng tôi. Sau đó, chúng tôi cứ thế ngửa cổ lên trời xem ai là người đầu tiên nhìn thấy một sao đổi ngôi. Và lúc nào cũng là mẹ nhìn thấy. Sự kinh ngạc đến thán phục trước thế giới, tôi đã học được từ những đêm đó trên ban công ở Fécamp.

Khi chúng tôi đã xem khá nhiều, chúng tôi nhẹ nhàng xuống bếp. Ông cho chúng tôi một cốc rượu vang và lấy ra chai rượu rum của ông. Ông bình thường trầm ngâm, bây giờ không thể ngăn được ông nói. Ông giải thích cho chúng tôi về vũ trụ từ lý thuyết big-bang đến chuyển động của tinh tú. Ông thở dài, lại rót một cốc và nói rằng ông muốn làm thủy thủ, điểm lại tình hình với một cái máy lục phân, đi biển bằng cách theo sao Bắc đẩu, làm quen với biển Trung hoa và bầu trời nước Úc và với cả các giải băng giá xứ Terre-Neuve. Ông nhìn mẹ và thốt lên trong một tiếng thở dài: “Chồng con thật là…” Đầu tôi choáng váng vì rượu vang. Mẹ nhắm nghiền mắt. Không có gì. Không ai nói gì nữa. Ông cất chai đi. Chúng tôi lên gác ngủ. Rồi sự yên tĩnh lại rơi xuống như một cái ao lễ.