CHƯƠNG 2 ASCORBIC ACID
KỶ NGUYÊN của những khám phá được thúc đẩy bởi việc buôn bán những phân tử gia vị, nhưng kỷ nguyên này suýt nữa đã kết thúc do sự thiếu hụt một phân tử hoàn toàn khác. Hơn 90% thủy thủ đoàn của Magellan đã chết trong chuyến đi biển vòng quanh thế giới năm 1519-1522 - phần lớn là do bệnh scurvy, một chứng bệnh hiểm nghèo phát sinh do thiếu hụt hợp chất ascorbic acid, chính là vitamin C trong bữa ăn hằng ngày.
Mệt mỏi và đuối sức, chân tay sưng phồng, mềm nướu răng, người thâm tím, xuất huyết ở mũi và miệng, hơi thở có mùi, tiêu chảy, đau cơ, răng rụng, thận và phổi có vấn đề - danh sách các triệu chứng của bệnh scurvy rất dài và khủng khiếp. Cái chết thường là kết quả của một sự nhiễm trùng cấp tính, ví dụ như viêm phổi hoặc một số bệnh khác về đường hô hấp, hoặc do một cơn suy tim, thậm chí đối với cả bệnh nhân trẻ tuổi. Triệu chứng trầm cảm cũng thường xuất hiện trong giai đoạn đầu của bệnh, mặc dù chưa rõ đó là triệu chứng bệnh lý trực tiếp hay là kết quả của những triệu chứng khác. Xét cho cùng, nếu bạn luôn cảm thấy mệt mỏi và có những vết thương không lành, nướu răng lúc nào cũng chảy máu và đau, hơi thở có mùi rất nặng, và bị tiêu chảy, đồng thời bạn cũng biết rằng tình trạng sẽ còn trở nên tồi tệ hơn nữa, khi đó bạn có thể không trầm cảm chăng?
Scurvy là một căn bệnh cổ xưa. Sự thay đổi của cấu trúc xương trong hài cốt của người thời kỳ đồ đá mới được cho là tương hợp với bệnh scurvy, và những văn bản tượng hình của người Ai Cập cổ đại được cho là có đề cập đến bệnh này. Từ scurvy có nguồn gốc từ tiếng Na Uy, ngôn ngữ của chiến binh Viking trên biển, những người bắt đầu từ thế kỷ 9 đã từ quê hương của họ ở phía bắc Scandinavia đến xâm lấn dải bờ biển Đại Tây Dương của châu Âu. Thiếu hụt nguồn vitamin từ trái cây và rau tươi là tình trạng rất phổ biến trên những con tàu đi biển hoặc tại những cộng đồng dân cư ở phía bắc vào mùa đông. Người ta cho rằng người Viking đã sử dụng cỏ scurvy, một loại cải xoong của vùng Bắc cực, trong hành trình của họ băng qua Greenland đến châu Mỹ. Những mô tả đầu tiên về những triệu chứng có thể là bệnh scurvy ngày nay được tìm thấy vào khoảng thời gian của những cuộc Thập tự chinh vào thế kỷ 13.
Bệnh Scurvy trên biển
Vào thế kỷ 14 và 15, khi những chuyến đi biển dài ngày hơn có thể được thực hiện với sự phát triển của những hệ thống buồm hiệu quả hơn và những con tàu được trang bị đầy đủ, bệnh scurvy cũng trở nên phổ biến hơn. Những chiếc thuyền galley chèo bằng tay, cũng như những loại thuyền khác của người Hy Lạp và người La Mã, và những chiếc thuyền nhỏ của các thương gia Ả Rập chỉ có thể hoạt động gần bờ. Những loại thuyền này không đủ phẩm chất để chống chọi với những con sóng hung tợn hoặc những đợt biển động dữ dội trên đại dương mênh mông. Do đó, chúng ít khi đi xa bờ, và hàng hóa tiếp tế cho thuyền luôn được bổ sung sau vài ngày hoặc vài tuần. Khi thường xuyên có được nguồn thực phẩm tươi sống, bệnh scurvy hiếm khi tạo thành vấn đề nghiêm trọng. Tuy nhiên, vào thế kỷ 15, những chuyến hải trình dài ngày trên những chiếc thuyền buồm cỡ lớn không chỉ báo trước về “Kỷ nguyên của những khám phá” mà còn cả sự phụ thuộc vào thực phẩm khô dự trữ.
Những chiếc tàu lớn hơn phải mang hàng hóa, vũ khí, một thủy thủ đoàn lớn hơn để vận hành hệ thống buồm và dây buồm phức tạp, và cả thức ăn và nước uống đủ cho nhiều tháng hành trình trên biển, số lượng khoang tàu, con người và hàng dự trữ tăng lên khiến cho điều kiện sinh hoạt và nghỉ ngơi trên tàu trở nên gò bó, không khí kém thông thoáng, và hệ quả là những bệnh truyền nhiễm và những bệnh liên quan đến hô hấp cũng tăng lên. Bệnh lao phổi và bệnh lỵ (một dạng nguy hiểm của bệnh tiêu chảy) trở nên rất phổ biến cũng như các chứng bệnh khác như chấy rận, ghẻ lở, và các bệnh da liễu lây nhiễm khác.
Tiêu chuẩn thực phẩm của một thủy thủ trên tàu hoàn toàn không giúp cải thiện sức khỏe của anh ta. Có hai yếu tố chính quyết định chế độ ăn uống trên tàu. Đầu tiên, trên những chiếc tàu bằng gỗ, việc giữ bất cứ thứ gì, kể cả thực phẩm, khô ráo và tránh được mốc meo là điều vô cùng khó khăn. Nước biển dễ dàng thấm qua thân tàu bằng gỗ, khi mà vật liệu chống thấm duy nhất thời đó là hắc ín, một chất nhựa dính, sậm màu, là một sản phẩm phụ trong quá trình chế biến than cốc, được sơn phủ lên mặt ngoài của thân tàu. Mặt trong của thân tàu rất ẩm ướt, đặc biệt khi điều kiện thông gió không tốt. Rất nhiều bản ghi chép các chuyến hải trình miêu tả trình trạng ẩm ướt liên miên, cũng như việc nấm mốc mọc trên quần áo, giày da và thắt lưng, trên giường, và cả trên sách. Thức ăn tiêu chuẩn của thủy thủ là thịt bò hoặc thịt heo muối và bánh quy đặc chủng của tàu biển gọi là bánh quy khô, một hỗn hợp bột mì và nước, không muối, nướng đến mức cứng như đá, được dùng thay bánh mì. Bánh quy khô có tính chất đáng mong đợi là tương đối miễn nhiễm với nấm mốc. Loại bánh này được nướng đến độ cứng khiến chúng vẫn có thể ăn được trong hàng thập kỷ, nhưng cũng vì vậy nên để ăn được chúng là điều vô cùng khó khăn, đặc biệt đối với những người có nướu răng đã bị viêm do sự tấn công của bệnh scurvy. Thông thường bánh quy khô có thể bị mọt ngũ cốc đục ruỗng, điều này rất được các thủy thủ hoan nghênh vì các lỗ mọt làm cho bánh quy khô dễ vỡ và dễ nhai hơn.
Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến chế độ ăn uống trên những chiếc tàu bằng gỗ là nỗi lo hỏa hoạn, cấu trúc gỗ và lớp chống thấm bằng hắc ín dễ cháy nghĩa là luôn cần phải cẩn thận cao độ để tránh cháy tàu. Vì nguyên nhân này, chỉ được nhóm lửa trong khoang bếp của tàu và chỉ trong điều kiện thời tiết tương đối ổn định. Ngay khi có dấu hiệu đầu tiên báo thời tiết xấu, lửa bếp sẽ bị dập ngay lập tức cho đến khi cơn bão qua đi. Sẽ không thể nấu nướng trong nhiều ngày liên tục. Không thể đun sôi thịt muối trong nhiều giờ, một việc làm cần thiết để giảm độ mặn và bớt dai, cũng không thể ngâm bánh quy khô trong món hầm hoặc nước dùng nóng để ít ra khiến chúng dễ ăn hơn.
Khi bắt đầu chuyến đi, những thực phẩm sau sẽ được mang lên tàu: bơ, phô mai, giấm, bánh mì, đậu khô, bia và rượu rum. Bơ sẽ nhanh chóng bị ôi, bánh mì lên mốc, các loại đậu khô bị mọt, phô mai cứng dần và bia sẽ chua. Không loại nào trong những thực phẩm này cung cấp vitamin C, do đó, các triệu chứng của bệnh scurvy xuất hiện rõ ràng chỉ khoảng sáu tuần ngắn ngủi sau khi khởi hành. Có đáng ngạc nhiên chăng khi hải quân của các quốc gia châu Âu đã phải nhờ cậy giới đầu gấu làm công việc quản lý nhân sự trên những chiếc tàu của họ?
Thiệt hại do bệnh scurvy gây ra đối với sinh mạng và sức khỏe của các thủy thủ đã được ghi nhận trong nhật ký của những chuyến hải trình đầu tiên. Vào thời điểm nhà thám hiểm Bồ Đào Nha Vasco da Gama giương buồm vòng quanh mũi cực Nam của châu Phi vào năm 1497, 100 trong số 160 thành viên thủy thủ đoàn của ông đã thiệt mạng vì bệnh scurvy. Cũng có những báo cáo về việc phát hiện những chiếc tàu trôi dạt trên biển cả với toàn bộ thủy thủ đoàn đã bỏ mạng vì bệnh này. Ước tính rằng trong nhiều thế kỷ, bệnh scurvy chịu trách nhiệm cho nhiều cái chết trên biển hơn tất cả những nguyên nhân khác, nhiều hơn cả tổng số lượng các ca tử vong từ những trận thủy chiến, do hải tặc, đắm tàu và các bệnh khác gây ra.
Thật đáng kinh ngạc khi biết rằng những biện pháp phòng ngừa và ngăn chặn bệnh scurvy, mặc dù đã được biết đến trong thời kỳ này, nhưng lại hoàn toàn bị phớt lờ. Ngay từ thế kỷ 5, người Trung Quốc đã trồng cây gừng tươi trong những chậu đất trên thuyền của họ. Ý tưởng trái cây và rau củ tươi có thể giảm đi những triệu chứng của bệnh scurvy ắt hẳn đã được các quốc gia vùng Đông Nam Á có quan hệ thương mại với các tàu buôn Trung Quốc biết đến. Ý tưởng này đã đến tai người Hà Lan và thông qua họ, được truyền lại cho cả châu Âu, bởi vào năm 1601, đội tàu buôn đầu tiên của Công ty Đông Ấn Anh được biết là đã dừng lại ở Madagascar để lấy cam và chanh tươi trên hành trình về phương Đông. Đội tàu nhỏ gồm bốn chiếc này dưới sự chỉ huy của đô đốc Jame Lancaster, người luôn mang theo nhiều nước chanh đóng hộp trên chiếc tàu đô đốc của mình, chiếc Dragon. Bất cứ thủy thủ nào có dấu hiệu của bệnh scurvy sẽ được uống ba thìa nước cốt chanh vào mỗi buổi sáng. Khi đi đến Mũi Hảo Vọng, không có thủy thủ nào trên chiếc Dragon bị bệnh scurvy, nhưng thiệt hại trên ba tàu còn lại khá nặng nề. Bất chấp sự hướng dẫn và làm gương của đô đốc Lancaster, vẫn có đến ¼ thủy thủ đoàn của chuyến thám hiểm thiệt mạng vì bệnh scurvy - không có trường hợp tử vong nào trên tàu đô đốc.
Khoảng 65 năm trước đó, các thành viên đoàn thám hiểm trong chuyến thám hiểm thứ hai đến Newfoundland và Quebec của nhà thám hiểm người Pháp Jacques Cartier đã bị tổn hại nặng nề bởi một trận bệnh scurvy khốc liệt, rất nhiều người đã thiệt mạng. Theo chỉ dẫn của người bản địa, họ đã thử nghiệm loại thuốc nước sắc của lá cây vân sam, và thu được kết quả kỳ diệu. Chỉ sau một đêm, các triệu chứng bệnh đã giảm hẳn và bệnh nhanh chóng biến mất. Vào năm 1593, Sir Richard Hawkins, một đô đốc của Hải quân Anh, đã khẳng định rằng theo kinh nghiệm riêng của mình, ít nhất 10.000 người đã thiệt mạng trên biển vì căn bệnh scurvy, và rằng nước cốt chanh là loại thuốc có hiệu quả ngay lập tức.
Cũng đã có những báo cáo khoa học về phương pháp điều trị hiệu quả đối với bệnh scurvy. Năm 1617, tác phẩm Bạn của bác sĩ quân y (The Surgeon’s Mate) của John Woodall đã mô tả nước cốt chanh như là phương thuốc chữa trị hiệu quả đồng thời có khả năng ngăn ngừa bệnh scurvy. Tám mươi năm sau, trong tác phẩm Các bệnh trên biển, hoặc chuyên luận về bản chất của chúng, nguyên nhân và cách điều trị (Sea Diseases, or the Treatise of their Nature, Cause and Cure), bác sĩ William Cockburn đã đề xuất rau củ quả tươi để ngăn ngừa scurvy. Những đề xuất khác như giấm, nước muối, quế và nước sữa đều vô tác dụng và còn có thể làm giảm hiệu quả của cách điều trị đúng đắn.
Phải đến những năm giữa thế kỷ tiếp theo, hiệu quả của nước cốt chanh mới được chứng minh trong một nghiên cứu lâm sàng có kiểm soát về bệnh scurvy. Mặc dù có rất ít người tham gia vào nghiên cứu này, nhưng những kết luận thu được thì quá rõ ràng. Năm 1747, James Lind, bác sĩ hải quân người Scotland trên chiếc tàu Salisbury, đã chọn 12 thủy thủ đang bị bệnh scurvy cho nghiên cứu của mình, ông chọn những người có triệu chứng bệnh giống nhau nhất có thể. Ông cho họ chế độ ăn uống giống nhau hoàn toàn: không phải là thịt muối và bánh quy khô theo tiêu chuẩn, loại thức ăn mà những bệnh nhân này khó có thể nhai được, mà là cháo đường, nước luộc thịt cừu, bánh quy luộc, lúa mạch, bột cọ sago, cơm, nho khô, quả lý chua, và rượu vang. Ông cũng thêm vào một số thức ăn bổ sung cho chế độ dinh dưỡng giàu tinh bột này. Hai trong số 12 bệnh nhân nhận được thêm khoảng 1,14 lít nước táo mỗi ngày. Hai người nữa được bổ sung giấm, và hai người khác rất không may mắn khi nhận cồn ngọt sunfat (sulfuric acid pha loãng). Hai bệnh nhân khác được yêu cầu uống thêm mỗi ngày khoảng 300 ml nước biển, và hai người nữa được cung cấp một hỗn hợp nước sắc hạt nhục đậu khấu, tỏi, hạt mù tạc, nhựa bạch đàn, kem tartar và nước lúa mạch. Hai người may mắn còn lại được phát mỗi người hai quả cam và một quả chanh mỗi ngày.
Kết quả điều trị khá đột ngột và dễ dàng nhận thấy, và là những gì chúng ta mong đợi theo những hiểu biết hiện nay. Trong vòng sáu ngày, hai thủy thủ được nhận chanh và cam đã có thể trở lại làm việc. Tràn trề hy vọng, mười thủy thủ còn lại được chấm dứt chế độ nước biển, nhục đậu khấu, hay sulfuric acid và cũng được cung cấp chanh và cam. Những kết quả của Lind đã được công bố trong Chuyên luận về bệnh scurvy (A Treatise of Scurvy), nhưng phải mất 40 năm nữa, Hải quân Anh quốc mới bắt đầu đưa ra thông báo bắt buộc về nước cốt chanh.
Nếu cách điều trị bệnh scurvy hữu hiệu như vậy đã được biết đến, tại sao nó không được tuân theo và áp dụng một cách có hệ thống? Thật đáng buồn là phương thuốc này, mặc dù đã được chứng minh, dường như không được công nhận và tin tưởng. Vào thời đó, một lý thuyết được phổ biến rộng rãi cho rằng bệnh scurvy phát sinh do chế độ ăn uống quá nhiều thịt muối hoặc không đủ thịt tươi hơn là do thiếu trái cây và rau quả tươi. Đồng thời, còn có một vấn đề hậu cần: vào thời gian đó, rất khó để bảo quản quả tươi hoặc nước cốt các loại quả họ cam trong nhiều tuần. Đã có nhiều cố gắng để cô đặc và bảo quản nước cốt chanh, nhưng những quy trình này rất tốn kém, mất nhiều thời gian, và có lẽ không thực sự hiệu quả, bởi như hiện nay chúng ta đã biết, vitamin C rất dễ bị phân hủy dưới tác dụng của nhiệt độ và ánh sáng, và thời gian bảo quản càng lâu, hàm lượng của vitamin C trong rau quả càng giảm.
Vì chi phí và những bất tiện khác, các sĩ quan hải quân, các bác sĩ, bộ tư lệnh Hải quân Anh quốc và những chủ tàu không tìm được cách nào để có thể mang theo đủ lượng rau xanh hoặc trái cây họ cam trên những chiếc tàu đã chất nặng. Không gian quý giá để chất hàng sẽ bị chiếm dụng cho việc này. Những trái cây họ cam tươi hoặc được bảo quản có giá rất cao, đặc biệt nếu phải sử dụng chúng hằng ngày như một biện pháp phòng ngừa. Tính kinh tế và mức lợi nhuận luôn đóng vai trò quyết định - mặc dù khi nhìn lại, đây là một tính toán kinh tế sai lầm.
Những con tàu phải được cung cấp nhiều thủy thủ hơn để đảm bảo đối phó được với tỷ lệ tử vong khoảng 30, 40 thậm chí 50% do bệnh scurvy gây ra. Ngay cả khi tỷ lệ tử vong không cao, hiệu suất làm việc của những thủy thủ nhiễm bệnh cũng vô cùng thấp. Vả lại, đây là yếu tố nhân đạo - điều mà vào những thế kỷ đó hiếm khi được quan tâm.
Một vấn đề khác là sự cứng nhắc của tầng lớp thủy thủ bình dân. Họ đã quen với những bữa ăn tiêu chuẩn trên tàu, và mặc dù họ than phiền về chế độ ăn uống đơn điệu với thịt muối và bánh quy khô khi lênh đênh trên biển, những thứ họ muốn ăn khi tàu cập bến là thật nhiều thịt tươi, bánh mì mới, bơ, phô mai và bia ngon. Ngay cả khi có trái cây và rau quả tươi, phần lớn thủy thủ đoàn cũng không mấy hứng thú với rau xanh mềm được xào nấu nhanh. Họ chỉ muốn thịt và nhiều thịt hơn nữa: thịt luộc, thịt hầm, thịt quay. Những sĩ quan, xuất thân từ tầng lớp cao cấp hơn với chế độ dinh dưỡng đa dạng và phong phú hơn, thường cảm thấy ăn những món rau xanh và trái cây khi cập bến là việc bình thường và đôi khi còn thú vị nữa. Không có gì là bất thường khi họ thích thú nếm thử những món ngon vật lạ họ tìm thấy tại những miền đất xa xôi nơi tàu cập bến. Me, chanh vỏ xanh và những loại quả giàu vitamin C khác có thể được sử dụng trong các món ăn địa phương, và khác với thủy thủ đoàn, các sĩ quan có thể đã thử những món ăn này. Do đó, bệnh scurvy thường ít gây ra vấn đề đối với các sĩ quan trên tàu.
Cook: một trăm - Scurvy: không
James Cook, thuộc Hải quân Hoàng gia Anh, là vị thuyền trưởng đầu tiên có những biện pháp để đảm bảo rằng thủy thủ đoàn của ông hoàn toàn miễn nhiễm với bệnh scurvy. Đôi khi người ta cũng gán thuyền trưởng Cook với việc tìm ra thuốc kháng scurvy, còn gọi là những thực phẩm chống scurvy, nhưng thành quả thực sự của ông dựa trên thực tế là ông chú trọng vào việc giữ chế độ dinh dưỡng và điều kiện vệ sinh ở mức độ cao trên cả đoàn tàu. Kết quả của những tiêu chuẩn nghiêm ngặt này là tình trạng sức khỏe vô cùng tốt và tỷ lệ tử vong vô cùng thấp trong thủy thủ đoàn của ông. Cook gia nhập hải quân tương đối trễ, vào năm 27 tuổi, nhưng ông đã thăng tiến rất nhanh trong hàng ngũ hải quân nhờ vào kinh nghiệm chín năm đi biển trước đó với vai trò người học việc trên tàu của các thương gia ở vùng biển Bắc và biển Baltic, cùng với sự thông minh sắc sảo và tố chất làm thuyền trưởng bẩm sinh. Trải nghiệm đầu tiên của Cook với căn bệnh scurvy là vào năm 1758 trên con tàu Pembroke, trong hành trình vượt Đại Tây Dương đầu tiên của ông đến Canada để đối đầu với người Pháp tại sông St. Lawrence. Khi đó, Cook đã rất kinh hãi về mức độ tàn phá của căn bệnh phổ biến này và rất lo lắng về cái chết của quá nhiều binh sĩ, khả năng làm việc giảm đến mức báo động, và thậm chí phải bỏ tàu, việc thường được chấp nhận như điều không thể tránh khỏi.
Kinh nghiệm thám hiểm và vẽ bản đồ khu vực Nova Scotia, vịnh St. Lawrence và vùng Newfoundland, cùng sự quan sát chính xác hiện tượng nhật thực của Cook đã gây ấn tượng sâu sắc với Hội Hoàng gia, một tổ chức được thành lập vào năm 1645, với tôn chỉ “đẩy mạnh sự hiểu biết về tự nhiên”. Ông được giao chỉ huy con tàu Endeavour và được yêu cầu thám hiểm và vẽ bản đồ vùng đại dương phía nam, tìm hiểu các loài thực vật và động vật mới, và quan sát những hiện tượng thiên văn liên quan khi các hành tinh đi ngang qua mặt trời.
Tuy ít được biết đến hơn nhưng lý do rất thuyết phục cho chuyến đi này và những chuyến thám hiểm sau đó của Cook là chính trị. Xác lập chủ quyền của vương quốc Anh trên những vùng đất đã được phát hiện và những vùng đất mới, bao gồm cả Terra Australis Incognita, lục địa rộng lớn ở phía nam; và hy vọng tìm ra cửa ngõ Tây Bắc, tất cả đều nằm trong suy tính của bộ tư lệnh hải quân. Và việc thuyền trưởng Cook có thể hoàn thành xuất sắc phần lớn những nhiệm vụ kể trên phụ thuộc rất nhiều vào phân tử ascorbic acid.
Như tình huống xảy ra vào ngày 10 tháng 6 năm 1770, khi chiếc Endeavour bị mắc cạn ở rạn san hô Great Barrier Reef, phía nam thành phố Cooktown hiện tại, ở phía bắc Queensland, Australia. Đó gần như là một thảm kịch. Con tàu bị những cơn sóng dữ tấn công, hậu quả là một lỗ thủng lớn ở thân tàu đòi hỏi phải có những biện pháp và hành động can thiệp dứt khoát. Các thủy thủ đã ném xuống biển tất cả những đồ dùng, hàng hóa dự trữ không cần thiết để làm nhẹ tàu. Trong suốt 23 tiếng đồng hồ liên tục, các thủy thủ phải bơm và tát nước bởi lẽ nước biển vẫn tràn vào qua lỗ thủng ở khoang thuyền, nèo kéo các dây buồm và dây neo một cách bền bỉ và quyết tâm trong nỗ lực bít kín lỗ thủng ở thân thuyền bằng cách vá, một phương pháp tạm thời để bịt một lỗ thủng bằng cách kéo căng và phủ một tấm buồm chắc và nặng xuống phía dưới thân thuyền. Những nỗ lực khó tin, khả năng điều khiển tàu xuất sắc và sự may mắn đã được đền đáp. Con tàu đã trượt khỏi rạn san hô và vào bờ an toàn để sửa chữa. Quả là một tình huống thoát hiểm vô cùng ngoạn mục, một tình huống mà một thủy thủ đoàn đang mệt mỏi và kiệt sức vì ảnh hưởng của bệnh scurvy sẽ không thể nào vượt qua được.
Một thủy thủ đoàn mạnh khỏe và làm việc tốt là yếu tố vô cùng quan trọng giúp Cook hoàn thành nhiệm vụ trong những chuyến hải trình của ông. Hội Hoàng gia đã công nhận và đánh giá cao điều này khi họ trao tặng cho Cook huân chương cao quý nhất, huân chương vàng Copley, không vì những thành tựu hải thám của ông, mà vì ông đã chứng minh rằng bệnh scurvy không phải là điều không thể tránh được trong những chuyến hải trình dài. Phương pháp của Cook rất đơn giản. Ông ra lệnh phải giữ vệ sinh sạch sẽ trên cả con tàu, đặc biệt là tại khu vực cabin khá chật chội của thủy thủ. Tất cả mọi người được yêu cầu phải giặt quần áo thường xuyên, thông gió và phơi chăn nệm của mình khi điều kiện thời tiết cho phép, tẩy uế các khoang tàu và thường xuyên tuân theo tiêu chí trật tự gọn gàng. Khi không thể có được trái cây và rau quả tươi mà Cook cho rằng cần thiết để cân bằng chế độ ăn uống, ông đã yêu cầu thủy thủ đoàn phải ăn món dưa bắp cải được dự trữ nhiều lúc khởi hành. Ông cũng cho tàu cập bờ bất cứ lúc nào có thể để bổ sung thức ăn tươi và tích trữ các loại rau cỏ địa phương (cần tây, cỏ scurvy) hoặc những loại thực vật hữu ích khác dùng để pha trà.
Chế độ ăn uống này hoàn toàn không phổ biến trong giới thủy thủ, thói quen ăn uống của họ vẫn là khẩu phần đi biển tiêu chuẩn, và họ không muốn thử những món mới. Nhưng Cook rất kiên quyết trong việc này. Ông và các sĩ quan của mình cũng theo đúng chế độ ăn uống này, và nhờ vào sự làm gương, uy quyền và sự quyết đoán của ông mà mọi người đã tuân thủ chế độ dinh dưỡng đó. Không có báo cáo nào ghi lại việc Cook trừng phạt những thủy thủ không chịu ăn dưa bắp cải hoặc cần tây, nhưng thủy thủ đoàn hiểu rằng thuyền trưởng của họ sẽ không ngần ngại sử dụng hình phạt với những ai không tuân theo mệnh lệnh. Cook cũng sử dụng những cách khích lệ tinh tế hơn. Ông ghi lại rằng món “cải chua” làm từ thực vật bản địa ban đầu chỉ dành riêng cho các sĩ quan; chỉ sau một tuần, các binh sĩ và thủy thủ cấp dưới đã phản đối, họ cũng muốn ăn món này.
Sự thành công của chuyến đi đã thuyết phục thủy thủ đoàn của Cook rằng nỗi ám ảnh của thuyền trưởng của họ trong việc duy trì chế độ dinh dưỡng kỳ lạ trên tàu rất đúng đắn. Cook không mất một thủy thủ nào vì bệnh scurvy. Trong chuyến thám hiểm đầu tiên kéo dài gần ba năm, ⅓ thủy thủ đoàn của ông đã thiệt mạng vì nhiễm bệnh sốt rét và kiết lỵ ở Batavia (hiện nay là Jakarta) tại vùng đất Đông Ấn của Hà Lan (hiện nay là Indonesia). Trong chuyến thám hiểm tiếp theo từ 1772 đến 1775, Cook chỉ mất một thủy thủ do bệnh tật - nhưng không phải là bệnh scurvy. Tuy nhiên trong chuyến đi này, thủy thủ đoàn của một tàu khác trong đội tàu của ông đã chịu tổn thất khá lớn vì bệnh scurvy. Sĩ quan chỉ huy tàu, Tobias Furneaux, đã bị Cook khiển trách nặng nề và được hướng dẫn lại về sự cần thiết của việc chuẩn bị sẵn và sử dụng các loại thực phẩm kháng scurvy. Nhờ vitamin C, phân tử ascorbic acid, Cook đã lập được một danh sách các thành tựu ấn tượng: tìm ra quần đảo Hawaii và rạn san hô Great Barrier Reef, lần đầu tiên đi vòng quanh New Zealand, lần đầu tiên vẽ được bản đồ bờ biển Tây Bắc Thái Bình Dương; và lần đầu tiên vượt qua vĩ tuyến Nam cực.
Một phân tử nhỏ với vai trò lớn
Điều gì khiến phân tử nhỏ bé này có vai trò lớn như vậy đối với việc hình thành bản đồ thế giới? Từ vitamin có nguồn gốc từ sự kết hợp của hai từ, vital (cần thiết) và amine (một hợp chất hữu cơ có chứa nitơ - ban đầu mọi người cho rằng mọi loại vitamin đều có chứa tối thiểu một nguyên tử nitơ). Ký hiệu C trong vitamin C thể hiện rằng nó là loại vitamin thứ ba được phát hiện.
Cấu trúc của ascorbic acid (hay vitamin C)
Hệ thống tên gọi này chứa đựng một số sai lầm. Thực tế, chỉ có các vitamin nhóm B và vitamin H là có chứa nitơ. Vitamin B nguyên thủy sau này được phát hiện là có chứa nhiều hơn một hợp chất, vì vậy sinh ra các loại vitamin B1, vitamin B2,… Đồng thời, một vài loại vitamin được cho là khác nhau đã được xác định cùng là một hợp chất, và vì vậy, không có vitamin F hoặc vitamin G.
Trong số các loài động vật có vú, chỉ có bộ linh trưởng, các loài chuột lang (guinea pig) và dơi ăn quả Ấn Độ cần vitamin C trong chế độ ăn của chúng. Với các loài động vật có xương sống khác - ví dụ như chó hay mèo - ascorbic acid được tạo thành trong gan từ đường glucose theo một quy trình gồm bốn phản ứng hóa học, được hỗ trợ bởi các loại enzyme khác nhau. Do vậy, chế độ ăn uống của các loài vật này không cần có vitamin C. Có thể là, ở đâu đó trong quá trình tiến hóa, loài người đã đánh mất khả năng chuyển hóa glucose thành ascorbic acid do mất đi vật chất di truyền có nhiệm vụ quy định sự tạo thành gulonolactone oxidase, loại enzyme cần thiết cho bước cuối cùng trong quá trình chuyển hóa glucose thành vitamin C.
Một chuỗi các phản ứng tương tự, nhưng theo một trình tự tương đối khác, là cơ sở cho phương pháp tổng hợp hiện đại được sử dụng trong công nghiệp để sản xuất ascorbic acid từ glucose. Bước đầu tiên là một phản ứng oxy hóa, nghĩa là gắn thêm oxy vào một phân tử, hoặc lấy đi hydro, hoặc cả hai xảy ra đồng thời. Trong phản ứng ngược lại, được gọi là phản ứng khử, oxy bị lấy ra từ một phân tử, hoặc là hydro được gắn vào, hoặc cả hai xảy ra đồng thời.
Bước thứ hai gồm quá trình khử xảy ra ở đầu đối diện trong phân tử glucose so với đầu đã xảy ra phản ứng oxy hóa trong bước đầu tiên, sản phẩm tạo thành là gulonic acid. Bước thứ ba trong trình tự tổng hợp vitamin C là phản ứng tạo vòng của phân tử gulonic acid tạo thành một phân tử loại lactone. Bước oxy hóa cuối cùng tạo thành nối đôi trong phân tử ascorbic acid. Trong cơ thể người thiếu mất loại enzyme cho phản ứng cuối cùng này.
Những nỗ lực đầu tiên nhằm phân lập và xác định cấu trúc hóa học của vitamin C đã thất bại. Một trong những khó khăn chính là mặc dù ascorbic acid có hàm lượng khá cao trong nước cốt của các loại quả họ cam, nhưng rất khó để có thể phân tách nó ra khỏi những phân tử đường và phân tử gốc đường khác cũng hiện hữu trong các loại nước cốt này. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi sự phân lập mẫu ascorbic acid tinh khiết đầu tiên được thực hiện không phải có nguồn gốc từ thực vật, mà là từ động vật.
Vào năm 1928, Albert Szent-Györgyi, một bác sĩ đồng thời cũng là nhà sinh hóa người Hungary làm việc tại Đại học Cambridge, vương quốc Anh, đã trích được gần một gram một chất kết tinh từ vỏ thượng thận của bò, phần mỡ phía trong của hai tuyến nội tiết nằm gần các quả thận của bò. Chỉ chiếm khoảng 0,03% khối lượng của nguồn trích, chất kết tinh này ngay lúc đó chưa được xác định là vitamin C. Szent-Györgyi nghĩ rằng mình đã phân lập được một loại hormone giống đường mới, và đã đề xuất tên cho chất này là ignose, trong đó ose thường là phần cuối trong tên của các loại đường (ví dụ glucose, fructose) và phần ig(4) biểu thị rằng ông không biết gì về cấu trúc của nó. Khi Godnose(5), tên gọi thứ hai Szent-Györgyi đề xuất cho hợp chất mới này, bị biên tập viên của tạp chí Biochemical Journal bác bỏ (người này rõ ràng không cảm được tính hài hước của Szent-Györgyi), ông đã đề xuất một tên gọi chính thống hơn: hexuronic acid. Mẩu chất kết tinh của Szent-Györgyi có độ tinh khiết đủ để thực hiện các phân tích hóa học chính xác cho thấy hợp chất này có sáu nguyên tử carbon trong công thức, C6H8O6, giải thích cho tiền tố hex trong hexuronic acid (hex có nghĩa là 6). Bốn năm sau, điều mà Szent-Györgyi nghi ngờ đã được chứng thực: hexuronic acid và vitamin C là một hợp chất.
Bước tiếp theo trong việc hiểu rõ ascorbic acid là xác định cấu trúc của nó, một nhiệm vụ mà kỹ thuật ngày nay có thể thực hiện tương đối dễ dàng chỉ với một lượng nhỏ hóa chất, nhưng vào những năm 1930, đây gần như là nhiệm vụ bất khả thi nếu không có lượng chất đủ lớn để phân tích. Một lần nữa may mắn đã mỉm cười với Szent-Györgyi. Ông phát hiện ra rằng ớt paprika của Hungary chứa hàm lượng vitamin C cao, và quan trọng hơn là loại ớt này không chứa những phân tử đường đã từng gây khó khăn cho việc phân lập vitamin C từ nước ép trái cây. Chỉ trong vòng một tuần, ông đã tách được hơn một kilogram tinh thể vitamin C tinh khiết, nhiều hơn đáng kể số lượng mà cộng sự của ông, giáo sư hóa học Norman Haworth tại đại học Birmingham cần để bắt đầu xác định thành công cấu trúc của phân tử, mà lúc này Szent-Györgyi và Haworth đặt cho nó một tên gọi mới: ascorbic acid. Đến năm 1937, tầm quan trọng của phân tử này đã được cộng đồng khoa học công nhận. Szent-Györgyi được trao giải Nobel y học vì công trình của ông với vitamin C, và Haworth nhận được giải Nobel hóa học.
Mặc dù đã hơn 60 năm trôi qua với nhiều nghiên cứu được triển khai, chúng ta vẫn chưa hoàn toàn chắc chắn về vai trò của ascorbic acid trong cơ thể. Nó rất cần thiết cho sự tạo thành collagen, loại protein có nhiều nhất trong vương quốc động vật, và được tìm thấy trong các mô liên kết có vai trò kết nối và hỗ trợ cho các mô khác. Thiếu hụt collagen giải thích cho những triệu chứng ban đầu của bệnh scurvy: chân tay sưng phù; nướu răng mềm và răng yếu đi. Một lượng rất nhỏ vitamin C, khoảng 10 miligram mỗi ngày, đủ để ngăn chặn các triệu chứng của bệnh scurvy, mặc dù bệnh vẫn tồn tại ở mức độ cận lâm sàng (thiếu vitamin C ở mức độ tế bào, nhưng không gây ra các triệu chứng đáng kể). Các nghiên cứu trong những lĩnh vực y khoa khác nhau như miễn dịch học, ung thư học, thần kinh học, nội tiết học và dinh dưỡng học vẫn tiếp tục tìm ra những vai trò mới của ascorbic acid trong nhiều quá trình chuyển hóa sinh hóa đa dạng.
Sự nghi ngờ cũng như bí ẩn đã luôn vây quanh phân tử nhỏ bé này. Hải quân Anh quốc đã trì hoãn thực hiện những kiến nghị của bác sĩ James Lind trong 42 năm đầy tai tiếng. Một cách công khai, công ty Đông Ấn đã không cấp phát những thực phẩm kháng scurvy với mục đích giữ các thủy thủ của họ luôn ở trạng thái yếu ớt và dễ kiểm soát. Hiện nay, vẫn có những tranh luận về vai trò của vitamin C liều cao trong việc điều trị những bệnh cảnh khác nhau. Linus Pauling là nhà khoa học kiệt xuất người Mỹ, tài năng của ông đã được công nhận vào năm 1954 với giải Nobel hóa học cho công trình về liên kết hóa học, và một lần nữa năm 1962 với giải Nobel hòa bình cho những nỗ lực ngăn cản việc thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Năm 1970, người hai lần nhận giải Nobel này đã viết bài đầu tiên trong loạt bài của ông về vai trò của vitamin C trong y học, đề nghị sử dụng ascorbic acid liều cao để ngăn ngừa và điều trị các bệnh cảm sốt, cúm và ung thư. Cho dù uy tín khoa học của Pauling rất cao, nhưng giới y khoa nói chung đã không chấp nhận quan điểm của ông trong vấn đề này.
Liều lượng khuyến cáo hằng ngày (RDA - recommended daily allowance) của vitamin C đối với một người trưởng thành là khoảng 60 milligram một ngày, tương đương với lượng vitamin C có trong một quả cam nhỏ. RDA thay đổi theo thời gian và theo quốc gia, việc này có thể biểu lộ sự thiếu hiểu biết của chúng ta về vai trò sinh lý hoàn chỉnh của phân tử không-đơn-giản này. Một điều đã được tán thành là phụ nữ có thai và cho con bú cần lượng vitamin C hằng ngày cao hơn. RDA cao nhất được đề nghị cho người lớn tuổi, khi mà lượng vitamin C vào cơ thể giảm nhiều do chế độ dinh dưỡng kém hoặc do không còn thèm ăn hoặc không thích nấu nướng. Bệnh scurvy hiện nay là loại bệnh không hề hiếm gặp ở người lớn tuổi.
Liều dùng mỗi ngày 150 milligram ascorbic acid thường là liều bão hòa, và tiếp tục đưa thêm vitamin C vào cơ thể không làm tăng hàm lượng ascorbic acid trong huyết tương. Do lượng vitamin C dư sẽ được loại bỏ thông qua thận, đã có những tuyên bố rằng điều tốt duy nhất khi sử dụng vitamin C liều cao là mang lại lợi nhuận cho các công ty dược phẩm. Tuy nhiên, dường như việc sử dụng vitamin C liều cao là cần thiết trong nhiều trường hợp như nhiễm trùng, sốt cao, bị thương, tiêu chảy, và nhiều trường hợp bệnh mãn tính khác.
Nhiều nghiên cứu tiếp tục tập trung vào vai trò của vitamin C trong hơn 40 loại bệnh khác, bao gồm: viêm túi thanh mạc, bệnh gút, bệnh Crohn, bệnh xơ cứng rải rác, loét dạ dày, bệnh béo phì, viêm khớp mãn tính, nhiễm trùng Herpes simplex, bệnh Parkinson, thiếu máu, bệnh tim mạch vành, chứng tự miễn dịch, sẩy thai, thấp khớp, chứng đục thủy tinh thể, bệnh tiểu đường, chứng nghiện rượu, chứng tâm thần phân liệt, trầm cảm, bệnh Alzheimer, bệnh vô sinh, cảm cúm và ung thư… Khi nhìn vào danh sách này, bạn có thể hiểu tại sao phân tử ascorbic acid đôi khi được gọi là “tuổi trẻ đóng hộp”, mặc dù kết quả nghiên cứu vẫn chưa hoàn toàn khẳng định tất cả những phép màu đã từng được công bố.
Hơn 50 ngàn tấn ascorbic acid được sản xuất mỗi năm. Được sản xuất trong công nghiệp từ đường glucose, vitamin C tổng hợp hoàn toàn giống với vitamin C thiên nhiên. Không hề có sự khác biệt vật lý hoặc hóa học nào giữa ascorbic acid tổng hợp và thiên nhiên, do vậy, không có lý do gì phải mua với giá quá đắt một phiên bản được quảng cáo là “vitamin C thiên nhiên, chiết xuất từ cánh hoa hồng thuần khiết của giống hoa hồng quý hiếm Rosa macrophylla, được trồng tại những sườn núi thấp nguyên sơ của dãy Himalaya”. Ngay cả khi sản phẩm này có nguồn gốc đúng như trong quảng cáo, và nếu nó đúng là vitamin C, thì nó sẽ hoàn toàn giống với loại vitamin C được sản xuất hàng loạt từ đường glucose.
Điều này không có nghĩa là những viên vitamin tổng hợp có thể hoàn toàn thay thế các loại vitamin tự nhiên trong thức ăn. Uống một viên ascorbic acid 70 milligram có thể không tạo được hiệu quả như 70 milligram vitamin C cơ thể hấp thụ qua việc ăn một trái cam cỡ trung bình. Những thành phần khác trong trái cây và rau quả, như những sắc tố tạo thành màu tươi sáng của chúng, có thể giúp cho sự hấp thụ vitamin C của cơ thể tốt hơn thông qua những cơ chế chưa được biết đến, và nhờ đó tăng hiệu quả của vitamin C.
Công dụng thương mại chủ yếu của vitamin C ngày nay là bảo quản thực phẩm, nó hoạt động như chất chống oxy hóa và kháng khuẩn. Trong những năm gần đây, các chất bảo quản thực phẩm được cho là có hại. Dòng chữ “không có chất bảo quản” xuất hiện thường xuyên hơn trên các bao bì thực phẩm. Nhưng nếu không có những chất bảo quản này, hầu hết các thực phẩm sẽ có vị rất ghê, mùi rất tệ, không ăn được, thậm chí có thể giết chết chúng ta. Mất đi các chất hóa học bảo quản thực phẩm sẽ là thảm họa đối với việc tích trữ thực phẩm tương tự như việc ngừng các hoạt động bảo quản đông lạnh.
Có thể bảo quản an toàn trái cây bằng phương pháp đóng hộp tại nhiệt độ sôi của nước, bởi lẽ các trái cây thường có tính acid đủ để ngăn cản sự phát triển của loại vi khuẩn chết người Clostridium botulinum. Những loại rau quả có độ acid thấp hơn và các loại thịt phải được xử lý ở nhiệt độ cao hơn để có thể tiêu diệt hoàn toàn loại vi sinh vật phổ biến này. Ascorbic acid thường được sử dụng trong sản phẩm trái cây đóng hộp tại nhà, với vai trò chất chống oxy hóa ngăn cản quá trình hóa nâu. Vitamin C đồng thời cũng tăng tính acid và bảo vệ người dùng khỏi ngộ độc thực phẩm bởi các chất độc do vi khuẩn tạo ra. Clostridium botulinum không sống được trong cơ thể con người, nhưng chất độc nó sinh ra trong những thực phẩm đóng hộp không đúng cách lại rất nguy hiểm, mặc dù chất độc này chỉ ảnh hưởng khi ta ăn vào. Một lượng vô cùng nhỏ chất độc này, nếu được tiêm vào dưới da, sẽ làm gián đoạn các xung thần kinh và gây ra hiện tượng liệt cơ. Kết quả là các nếp nhăn trên da tạm thời biến mất - đây chính là phương pháp điều trị Botox đang ngày càng phổ biến trên thế giới.
Mặc dù các nhà hóa học đã tạo ra rất nhiều chất độc hóa học, nhưng thiên nhiên mới là kẻ tạo ra sự chết chóc đáng sợ nhất. Botulinum toxin A, được tạo thành bởi vi khuẩn Clostridium botulinum, là chất độc gây chết người mạnh nhất được biết đến, một triệu lần độc hơn dioxin, chất độc chết người mạnh nhất do con người tạo nên. Đối với botulinum toxin A, liều lượng giết chết 50% tổng số mẫu vật thử nghiệm (LD50) là 3 x 10–8 mg/kg. Chỉ cần 0,00000003 milligram botulinum toxin A trên mỗi kilogram trọng lượng cơ thể của mẫu thử sẽ làm mẫu thử thiệt mạng. LD50 của dioxin là 3 x 10–2 mg/kg, hoặc 0,03 milligram trên mỗi kilogram khối lượng cơ thể. Người ta ước lượng rằng khoảng 28 gram botulinum toxin A có thể giết chết 100 triệu người. Con số này chắc chắn có thể khiến chúng ta suy nghĩ lại quan điểm của mình đối với tác hại của các chất bảo quản thực phẩm.
Scurvy trên băng
Ngay cả vào những năm đầu thế kỷ 20, nhiều nhà thám hiểm Nam cực vẫn ủng hộ giả thuyết cho rằng sự thối rữa của thực phẩm đóng hộp, nhiễm độc acid trong máu và nhiễm trùng là những nguyên nhân gây ra bệnh scurvy. Bất chấp sự thật là khẩu phần nước cốt chanh bắt buộc trong chế độ ăn đã loại bỏ hoàn toàn bệnh scurvy khỏi lực lượng Hải quân Anh quốc từ những năm 1800, bất chấp việc quan sát thấy những người Eskimo sống tại vùng cực không bao giờ bị bệnh scurvy nhờ vào việc họ thường xuyên hấp thụ vitamin C có rất nhiều trong thịt, óc, tim và thận hải cẩu, và bất chấp kinh nghiệm từ những nhà thám hiểm khác với phương pháp phòng bệnh bằng cách bổ sung thức ăn tươi nhiều nhất có thể vào chế độ ăn uống, Robert Falcon Scott, đô đốc Hải quân Anh quốc vẫn khăng khăng tin rằng bệnh scurvy là do thịt thối rữa tạo ra. Trong khi đó, nhà thám hiểm người Na Uy Roald Amundsen đã hết sức lưu ý đến sự đe dọa đáng sợ của bệnh scurvy và đã dựa trên chế độ ăn gồm thịt hải cẩu và thịt chó để thực hiện thành công chuyến thám hiểm Nam cực. Hành trình khoảng 1400 dặm trở lại Nam cực vào năm 1911 của Amundsen đã hoàn thành mà không xảy ra bất cứ tai nạn hoặc bệnh tật nào. Đoàn thám hiểm của Scott không được may mắn như vậy. Chuyến trở về của họ, sau khi đến được Nam cực vào tháng 1 năm 1912, đã bị chậm lại bởi thời tiết mà cho đến nay được đánh giá là tồi tệ nhất của Nam cực trong nhiều năm. Những triệu chứng bệnh scurvy, bắt nguồn từ chế độ dinh dưỡng hoàn toàn không có thực phẩm tươi hoặc vitamin C trong nhiều tháng, đã cản trở rất nhiều những nỗ lực của đoàn thám hiểm. Khi chỉ còn cách trạm tiếp tế thức ăn và nhiên liệu tiếp theo 11 dặm, họ đã hoàn toàn kiệt sức để có thể tiếp tục đi. Đối với đô đốc Scott và các bạn đồng hành, chỉ một vài milligram vitamin C đã có thể thay đổi hoàn toàn số phận và thế giới của họ.
Nếu như những giá trị của phân tử ascorbic acid được thừa nhận sớm hơn, thế giới ngày nay chắc sẽ trở thành một nơi hoàn toàn khác. Với thủy thủ đoàn mạnh khỏe, Magellan chắc hẳn sẽ không dừng lại tại Philippines. Ông sẽ tiếp tục đi đến tận các đảo gia vị và mang thị trường đinh hương về cho Tây Ban Nha, dong buồm một cách hân hoan trở về Sevilla và đã có thể hưởng thụ sự kính trọng mà chuyến đi vòng quanh thế giới đầu tiên mang lại. Khi đó sự độc quyền thương mại nhục đậu khấu và đinh hương của Tây Ban Nha có thể đã ngăn cản sự hình thành Công ty Đông Ấn Hà Lan, và đã làm thay đổi Indonesia ngày nay. Nếu người Bồ Đào Nha, những nhà thám hiểm đầu tiên của châu Âu đã mạo hiểm thực hiện các chuyến đi biển dài ngày, hiểu được bí mật của ascorbic acid, thì họ đã thám hiểm được toàn bộ Thái Bình Dương nhiều thế kỷ trước James Cook. Tiếng Bồ Đào Nha có thể đã trở thành ngôn ngữ được sử dụng hiện nay tại quần đảo Fiji và Hawaii, các vùng có thể đã trở thành lãnh thổ của Brazil như thuộc địa của đế quốc Bồ Đào Nha trải rộng bao la. Cũng có thể hoa tiêu vĩ đại người Hà Lan, Abel Janszoon Tasman, với sự hiểu biết về cách thức ngăn ngừa bệnh scurvy trong những chuyến thám hiểm vào các năm 1642 và 1644, đã có thể đến đất liền và xác lập chủ quyền trên những vùng đất được gọi là New Holland (Australia) và Staten land (New Zealand). Và người Anh, những người đến vùng biển Nam Thái Bình Dương muộn hơn, có thể chỉ chiếm được vùng lãnh thổ nhỏ hơn, và có ít ảnh hưởng hơn đối với thế giới, ngay cả trong thời điểm hiện nay. Những giả thuyết nêu trên khiến chúng ta có thể kết luận rằng ascorbic acid hoàn toàn xứng đáng có một vị trí quan trọng trong lịch sử cũng như địa lý thế giới.
(4) Ignorant
(5) Phát âm gần giống với God knows, nghĩa là “Có Chúa mới biết” - ND.