← Quay lại trang sách

PHẦN I - 1 -

1

Trong một ngăn kéo chứa đồ linh tinh của chiếc tủ sách trong phòng học của tôi, tôi vẫn giữ một chiếc hộp nhỏ làm bằng gỗ xốp có dán các dải giấy họa tiết hoa mẫu đơn ở các mối nối. Có vẻ như ban đầu nó là hộp đựng thuốc lá nhập khẩu từ phương Tây về. Chiếc hộp không có điểm gì đặc biệt, nhưng với tông màu nhẹ nhàng và bề mặt mềm mại của lớp gỗ, cùng với âm thanh trầm ấm mà nó tạo ra khi đóng nắp, nó vẫn luôn là một trong những món đồ yêu thích của tôi. Bên trong hộp đựng một vỏ từ an bối[1], vài hạt giống hoa trà, và vài thứ lặt vặt linh tinh là đồ chơi của tôi ngày nhỏ, nhưng tôi chưa từng quên trong số đó có một chiếc thìa bạc với hình dáng kỳ khôi. Lòng thìa hình cái bát tròn rộng khoảng 1,3cm và cán ngắn hơi cong. Nó khá dày, nên nếu cầm ở đầu cán sẽ thấy nặng. Thi thoảng tôi lấy nó ra khỏi hộp, cẩn thận lau sạch mấy vết bẩn, và nhìn chăm chú vào nó hồi lâu mà không thấy chán. Bây giờ ngẫm lại, có lẽ tôi đã tình cờ tìm thấy chiếc thìa bạc này từ rất lâu rồi.

Ban đầu, nhà tôi có một cái tủ chén. Khi đã đủ lớn để có thể kiễng chân với lên mặt trên của tủ thì tôi thường mở cửa tủ rồi kéo các ngăn kéo ra để xem thử độ lỏng chặt và những âm thanh khác nhau mà chúng phát ra. Một trong hai ngăn kéo nhỏ nằm cạnh nhau với tay cầm bằng mai rùa bị méo nên trẻ con khó mở được, nhưng điều này chỉ càng khiến tôi thêm tò mò, cho đến một ngày, sau một hồi chật vật, cuối cùng tôi cũng mở được nó ra. Trống ngực tôi đập rộn ràng vì hứng khởi, tôi đổ các món đồ trong đó ra chiếc chiếu tatami và trông thấy chiếc thìa bạc nằm lẫn lộn giữa những món đồ điêu khắc nhỏ và những thanh giữ thẳng ống quyển. Không hiểu vì sao khi vừa trông thấy chiếc thìa tôi đã muốn có nó nên tôi vội vàng mang nó tới gặp mẹ.

“Mẹ cho con cái này nhé?”

Mẹ đang đeo kính làm việc trong phòng ăn. Bà có vẻ hơi sửng sốt nhưng rồi cũng nói, “Con phải giữ gìn nó cẩn thận đấy.”

Việc mẹ đồng ý ngay tắp lự như thế này thật khác thường, nên tôi vừa vui mừng lại vừa có phần thất vọng. Cái ngăn kéo ấy đã bị hỏng khi chúng tôi chuyển nhà từ Kanda sang Yamanote, và ngay cả mẹ cũng quên mất chiếc thìa bạc ấy cùng lai lịch kỳ lạ của nó. Đây là điều mà mẹ nói cho tôi biết trong lúc bà vẫn tiếp tục may quần áo

[1] Dùng làm bùa hộ mệnh cho thai phụ lúc sinh con.

2

Mẹ phải trải qua một cơn thập tử nhất sinh mới sinh tôi ra đời. Ngay cả bà đỡ già nổi tiếng thời bấy giờ cũng chịu bó tay, vì thế họ phải gọi một thầy lang Trung y tên là Tökei tới. Thế nhưng bài thuốc của ông dường như cũng chẳng phát huy tác dụng là bao, khiến bố tôi vốn đang sốt ruột buột miệng quát tháo ầm ĩ. Ông Tökei cũng luống cuống, hết đọc đoạn này sang đoạn khác trong cuốn sách y khoa của ông, cố gắng chứng minh rằng ông không kê đơn sai, trong lòng khẩn thiết cầu mong tình thế xoay chiều. Sau khi hành cho mẹ một trận ra trò như vậy, cuối cùng tôi cũng chào đời. Nhưng cảnh ông Tökei lâm vào đường cùng, liên tục nhấm nước bọt lên ngón tay để giở từng trang sách rồi lục tung hòm thuốc lên còn lưu lại mãi về sau này trong những màn bắt chước giống hệt của người bác hài hước đã nuôi tôi lớn, và suốt một thời gian dài, hình ảnh này vẫn là đề tài chọc cười trong gia đình tôi.

Tôi không những yếu ớt ngay từ khi ra đời, mà không lâu sau đó tôi còn bị một trận nổi mề đay nặng lan lên hết cả đầu và mặt, khiến tôi trông “chẳng khác gì quả thông” theo như lời mẹ kể lại. Vì thế, tôi tiếp tục được ông Tökei chăm sóc. Để mề đay không xâm nhập vào bên trong cơ thể tôi, ông cho tôi uống một loại thuốc sền sệt màu đen và thoa bột mài từ sừng tê giác mỗi ngày. Bởi vì rất khó dùng thìa bình thường để đổ thuốc vào miệng của một đứa bé, nên bác tôi đã tìm được chiếc thìa bạc này ở đâu đó rồi dùng nó đút thuốc cho tôi trong lần ốm ấy. Mặc dù trước đó không hề biết đến sự tồn tại của nó, nhưng khi nghe kể lại chuyện này trong tôi dâng lên điều gì đó tựa như một ký ức trìu mến về chiếc thìa, và tôi quyết tâm không bao giờ để mất nó.

Thấy tôi trằn trọc không yên cả ngày lẫn đêm vì ngứa ngáy khắp người, mẹ và bác tôi phải thay phiên nhau dùng một chiếc túi cám gạo nhỏ bên trong đựng đậu adzuki để vỗ vỗ lên miệng vảy. Tôi nghe kể lại rằng, mỗi lần được gãi ngứa như thế, tôi hớn hở ra mặt, chiếc mũi nhỏ cứ chun chun lên. Tôi cứ oặt ẹo và mẫn cảm như thế cho tới khi lớn hơn một chút và cứ cách ba ngày lại đau đầu một lần. Thế là hễ có khách đến chơi, cả nhà lại bảo tôi bị hỏng não bởi vì mẹ và bác lấy túi cám gạo vỗ vào đầu tôi. Nói chung, tôi mang theo vô vàn rắc rối khi đến với thế giới này.

Và phần vì mẹ tôi chưa hoàn toàn khôi phục sức khỏe kể từ sau khi sinh tôi ra, phần vì khi ấy không có ai khác hỗ trợ, nên mọi người quyết định rằng bác gái đang sống cùng chúng tôi sẽ đảm nhiệm công việc chăm sóc tôi, ngoại trừ những lúc mẹ cho tôi ti sữa.

3

Chồng của bác tôi tên là Söemon, ở trong tỉnh là một samurai nhưng có địa vị thấp. Cả hai vợ chồng bác đều là người hiền lành thiện lương, chỉ là khi cuộc Minh Trị Duy Tân diễn ra, họ đều rơi vào cảnh khốn khó. Do vậy, sau khi bác Söemon qua đời trong một đợt dịch tả xảy ra vào năm nào đó trong thời Minh Trị, việc duy trì gia đình càng thêm chật vật, nên cuối cùng, bác gái phải đến nương tựa vào nhà tôi. Ở quê, không chỉ những người khó khăn mà cả những người không khó khăn cũng tìm cách lợi dụng lòng tốt của vợ chồng bác tôi để vay mượn tiền bạc, và hai người dù trong nhà không còn gì ăn cũng vui vẻ móc túi ra cho họ vay. Kết quả là, chẳng bao lâu nhà họ hết sạch tiền. Đến lúc đó, những người từng đến mượn tiền họ trước đây lại cười nhạo họ sau lưng.

“Đúng là lành quá hóa đần,” họ chế nhạo.

Thực ra, vào lúc cùng cực quá, vợ chồng bác cũng đến nhà những người có vẻ dễ nói chuyện để đòi tiền. Nhưng tất cả những gì họ nhận được là những câu chuyện thương tâm đầy nước mắt mà những người vay tiền kể, thế là họ đành quay về, miệng không ngừng than, “Thật đáng thương, thật đáng thương!”

Không chỉ có thế, họ còn rất mê tín nữa. Có lần, họ mua ở đâu đó về một cặp chuột, nói đó là sứ giả của Thần Daikoku[1] và đặt tên cho chúng là Ông Bà May Mắn, rồi hai vợ chồng ra sức chăm chút nâng niu chúng. Và không cần nói thì hẳn ai cũng biết, chúng sinh con đàn cháu đống. Cuối cùng, trong nhà lúc nào cũng có hàng đàn chuột chạy tán loạn khắp nơi. Thế nhưng vợ chồng bác tôi lại coi đó là phước lành lớn, và hễ vào các ngày lễ là họ lại nấu cơm trộn đậu adzuki hoặc rang đậu rồi đổ tới ngọn vào một cái hộp gỗ hình vuông cho lũ chuột. Và thế là khi người ta vay mượn hết sạch số tiền ít ỏi mà họ có và những sứ giả của sự may mắn ăn hết số gạo trong thùng, vợ chồng bác tôi chẳng còn lại của nả gì ngoài bộ quần áo mặc trên người nên phải dắt díu nhau tìm đến tận nhà tôi - chúng tôi đã chuyển đến đây cùng với ông chủ. Không lâu sau đó, bác Söemon qua đời vì dịch tả, để bác gái ở lại thành một quả phụ nghèo khổ cùng cực. Nói về thời ấy, bác tôi kể rằng nạn korori - “đột tử” - lan tràn khắp Nhật Bản bởi vì những người Công giáo sống ở một đất nước xa lạ đã gửi một con sói độc ác theo đường biển tới giết hại người Nhật Bản; bác còn cho biết chuyện này xảy ra hai lần, “korori một” và “korori ba”. Bác Söemon nhiễm bệnh vào đợt “korori một” và bị đưa đến phòng cách ly, nơi các bệnh nhân đã tím tái vì sốt và bị để mặc cho chết mà không được uống lấy một ngụm nước. Bác tôi kể rằng tất cả những bệnh nhân qua đời đều bị tổn thương nặng nề lục phủ ngũ tạng.

Đối với bác, việc nuôi dạy tôi là niềm vui sướng duy nhất trong cuộc đời. Thực ra, lý do rất có thể là bác không có nhà cửa, con cái, tuổi tác thì đã cao nên không có điều gì để trông chờ cả, nhưng còn có một lý do bí ẩn khác giải thích vì sao bác lại chăm sóc cho tối tâm huyết đến vậy. Khi người anh trai trước tôi mất vì chứng động kinh không lâu sau khi chào đời, bác tôi đã đau khổ rất nhiều, như thể chính con ruột của mình mất đi vậy; bác gào khóc và nhắn nhủ, “Xin con hãy đầu thai lần nữa, hãy đầu thai lần nữa nhé!”

Vì thế, năm sau đó khi tôi ra đời, bác đinh ninh rằng nhờ ơn trời Phật, đứa trẻ đã mất nay đã đầu thai trở lại, vì thế bác quyết định sẽ chăm sóc tôi thật tốt. Hẳn là lúc ấy bác đã rất hạnh phúc và cảm động khi nghĩ rằng đứa bé này, dù rằng khắp người đang nổi mề đay, đã không quên những lời nguyện cầu của bác nên đã vì bác mà từ bỏ ngôi nhà của mình ở đài sen trên thượng giới! Vì vậy, sau khi tôi lên bốn hoặc năm tuổi, khi dâng hương trước bàn thờ Phật - công việc mà người bác sùng đạo của tôi vui vẻ thực hiện mỗi sáng - thi thoảng bác dẫn tôi tới trước ban thờ và cố gắng dạy tôi, một đứa trẻ vẫn chưa biết mặt chữ, ghi nhớ Pháp danh của người anh đã quá cố của tôi, Ikkan Sok’ö Döji, có nghĩa là đứa trẻ đã đáp lại lời nguyện cầu. Trong suy nghĩ của bác, đây chính là tên của tôi khi ở trên Thiên đàng.

[1] Một trong Thất Phúc Thần, tượng trưng cho sự giàu có và sung túc. Trong các hình vẽ minh họa, người ta thường vẽ thêm cảnh chuột đi theo Thần, ngụ ý rằng thóc gạo của Thần không bao giờ cạn kiệt, có thể nuôi vô số chuột.

4

Có lẽ khi ở trong nhà thì không, nhưng hễ ra khỏi nhà dù chỉ một bước, tôi đều bám trên lưng của bác. Nhưng có lẽ bác cũng không muốn để tôi ra ngoài, thậm chí có lần thì kêu đau hông, khi khác lại bảo tay bác bị tê cả rồi. Hẳn là phải đến khi năm tuổi, tôi mới chạm chân xuống đất, và mỗi khi bác đặt tôi xuống để làm những việc như chỉnh lại đai lưng cho tôi, tôi lại thấy trời nghiêng đất ngả, đến nỗi phải bám chặt vào ống tay áo của bác. Hồi ấy, tôi có một bộ đai lưng màu xanh nhạt buộc cao trên ngực với một chiếc thắt lưng nhỏ có treo một tấm bùa hộ mạng xin ở núi Narita. Đó là ý tưởng của bác tôi. Dĩ nhiên, tấm bùa là để tôi không bị thương, không bị ngã xuống mương nước hay sông. Còn quả chuông là để phòng khi tôi đi lạc khỏi bác, bác nghe tiếng chuông mà biết đường tới tìm tôi. Chẳng là mắt bác bị mờ nên không thể nhìn xa được. Nhưng đối với một đứa bé suốt bao nhiêu năm qua chưa từng rời lưng bác mà nói thì cả quả chuông và tấm bùa hộ mạng đều là vô nghĩa.

Bởi vì ốm yếu nên trí não tôi cũng chậm phát triển. Không những thế, tôi còn dễ bị trầm cảm nặng và hiếm khi nở nụ cười, ngoại trừ với bác tôi. Tôi cũng vô cùng ít nói và hầu như không có phản ứng gì kể cả khi người nhà đang nói chuyện với tôi; cùng lắm tôi chỉ lặng lẽ gật đầu, mà đấy còn là những khi tôi đang có tâm trạng tốt. Tôi ốm yếu và nhút nhát đến mức chỉ cần trông thấy người lạ là tôi lập tức úp mặt vào lưng bác mà khóc. Tôi gầy đến trơ cả xương sườn, và thứ duy nhất có vẻ to trên người tôi chính là cái đầu. Và bởi vì mắt tôi nằm sâu tận trong hốc mắt, nên mọi người trong nhà gọi tôi là Bé Bạch Tuộc, Bé Bạch Tuộc. Về phần mình, tôi cải biên tên Kanbö và tự gọi mình là Kanpon[1].

[1]Tên khai sinh của tác giả là Kansuke, gọi tắt là Kan, nhưng bởi vì âm này rất ngắn nên có lẽ gia đình ông gọi ông là Kanbö, “Kan Boy”. Tuy nhiên, cậu bé Kansuke chưa phát âm được từ này nên nối chệch sang thành “Kanpon”.

5

Tôi được sinh ra ở một nơi đậm chất Kanda, và lẽ dĩ nhiên, thuộc khu Kanda, nơi những vụ hỏa hoạn, ẩu đả, say rượu, và trộm cắp diễn ra hằng ngày. Những ngôi nhà để lại ấn tượng trong trí não ốm yếu của tôi là dãy nhà phía bên kia phố - hàng gạo, hàng kẹo, rồi hàng đậu phụ, nhà tắm công cộng, sân chứa gỗ, và vô vàn những căn nhà tương tự. Nhưng nổi bật hơn cả hàng rào màu đen của nhà thầy thuốc ở cuối phố và cánh cổng dẫn vào khuôn viên của ông chủ, cũng là nơi mà chúng tôi ở.

Vào những hôm đẹp trời, bác tôi thường cõng tôi ra ngoài chơi - nhìn tổng thể, chúng tôi trông giống một con quái vật trong Nghìn lẻ một đêm - và đến những nơi mà bác nghĩ là tôi thích xem hoặc đến khi đôi chân già nua của bác không chịu nổi nữa. Ở cuối con đường ngay sau lưng chúng tôi là nhà làm đậu Bồng Lai: những người đàn ông chỉ đóng khố, để lộ những hình xăm Kurikara[1], và trên đầu quấn khăn vừa hát vừa nổ đậu. Nhưng tôi không thích tới đó bởi vì tôi sợ những người đàn ông xăm trổ giống như quỷ ấy và âm thanh lốp bốp mà họ tạo ra khiến tôi khó chịu. Hễ khi nào bị đưa tới những nơi không lấy gì làm thoải mái ấy, tôi lập tức sụt sùi, rồi vặn vẹo trên lưng bác và không nói lời nào mà lấy tay chỉ về hướng mà tôi muốn đi. Vốn rất hiểu thằng quỷ con của mình, bác tôi liền đưa tôi tới đúng nơi mà tôi muốn.

Tôi thích nhất là chỗ miếu thờ thần cáo ở Izumi-chö gần sông Kanda. Vào những buổi sáng sớm khi xung quanh không có ai, tôi thường tự chơi bằng cách ném đá xuống sông hoặc kéo sợi dây gắn với chiếc chuông trông giống như một quả hạch lớn. Bác tôi sẽ chọn một tảng đá sạch để tôi ngồi lên hoặc đặt tôi lên bậc thềm của ngôi miếu rồi cầu nguyện. Những đồng xu rơi lách cách xuống hòm công đức nghe thật vui tai. Cho dù đứng trước Đức Phật hay vị thần linh nào đó, lời cầu nguyện đầu tiên của bác vẫn là: Xin người phù hộ cho đứa trẻ này lớn lên khỏe mạnh.

Một ngày nọ, tôi bám vào hàng rào gỗ và nhìn ra sông còn bác đứng đằng sau giữ đai lưng của tôi. Mấy con chim lông trắng bay tới bay lui để bắt cá. Cái cảnh chúng lặng lẽ bay, duyên dáng sải đôi cánh thật dài và trông thật mịn màng dường như được đặc biệt sắp xếp để dành cho một đứa trẻ yếu ớt, dễ đau ốm như tôi. Vì thế, hiếm khi tôi cảm thấy vui vẻ nhường ấy. Nhưng thật không may, một cô bán hàng rong đeo trên lưng một chiếc giỏ đựng trứng và bánh quy bột mỳ đi ngang qua ghé vào nghỉ ngơi, và thế là như thường lệ, tôi lập tức bám lên lưng bác. Người phụ nữ nọ đặt giỏ xuống, lấy chiếc khăn đang quấn quanh đầu ra để lau cổ, và bắt chuyện với chúng tôi. Cô khéo nói tới nỗi dụ dỗ được cả một đứa nhút nhát là tôi. Khi tôi ra quyết định e dè là tụt khỏi lưng bác một lần nữa, cô mở ra một chiếc hộp bên trong đựng đầy những chiếc bánh quy trông rất hấp dẫn rồi nhặt lên một chiếc đặc biệt thơm ngon có hình giống như hình đồng xu vàng kéo dài ra và lấy ngón tay xoay xoay nó. Sau đó, cô đặt cái bánh vào lòng bàn tay tôi, miệng thủ thỉ, “Bé ngoan, bé ngoan.”

Bác tôi không thể làm gì khác ngoài việc trả tiền cho cái bánh. Ngay cả bây giờ, mỗi khi trông thấy một người phụ nữ bán hàng rong nào mệt mỏi đặt những quả trứng trắng hồng nằm lấp ló trong lớp vỏ trấu và những chiếc bánh quy bột mì với mùi hương thơm nức, tôi lại có mong muốn mua hết những gì mà người phụ nữ nghèo khổ ấy có. Bây giờ ngôi miếu thờ thần cáo đã được cải tạo trông khang trang dễ nhìn hơn và thu hút được nhiều người lui tới hơn, nhưng cây liễu năm xưa vẫn còn đó, vẫn lả lướt đùa theo từng trận gió.

[1] Ở đây nói về Vua Rồng, hiện thân của Bất Động Minh Vương thường được mô tả bằng hình ảnh một con rồng cuộn mình xung quanh một cây kiếm dựng thẳng trên một tảng đá và đang cố gảng nuốt cây kiếm ấy, xung quanh là lửa.

6

Vào những ngày không đưa tôi tới miếu thờ thần cáo, bác lại cõng tôi tới sân tù, trước khi đi bác còn lấy tiền để mua đồ và vé vào cửa rồi cho vào chiếc ví đã cáu bẩn của mình. Chỗ này trước kia là nhà tù Tenma-chö nổi tiếng, nhưng bây giờ nó là nơi tổ chức nhiều trò tiêu khiển khác nhau. Các tiểu thương cũng dựng lên một dãy gian hàng bày bán đủ thứ, nào là ốc xà cừ nấu nguyên vỏ, đậu nổ, nước cam ép, và khi vào mùa sẽ có ngô, hạt dẻ nướng, và hạt sồi đá. Ở lối vào một khu vui chơi dùng tấm bạt sọc đỏ trắng quây tạm thành, một người đàn ông ngồi bắt chéo chân, trên tay cầm bộ gõ bằng gỗ và thẻ đánh dấu guốc mộc, thi thoảng ông ta lại khum tay che lên miệng và hô to, “Höban! Höban!” Một người đàn ông khác thì giơ một cái cánh gà ngay trước mũi một con chó hoang đang bị xích lại để dụ nó sủa. Một con kappa[1] trông có vẻ đáng ngờ với chiếc đĩa ở trên đầu đang vẫy vùng ở một bể nước. Những người giảng đạo Deroren[2] thổi vỏ ốc và gõ những thanh kim loại, chốc chốc lại hô lên, “Deroren! Deroren!” Những cảnh này hoàn toàn không có gì lý thú đối với tôi, nhưng bác tôi lại thích nên vẫn thường xuyên đưa tôi đến chơi.

Trong một lần hiếm hoi, một gánh múa rối về biểu diễn, họ treo tấm áp phích vẽ một cô gái trông giống các nàng công chúa mà tôi từng nhìn thấy ở những cuốn truyện tranh đang nhảy múa cùng một chiếc trống bên một ngọn đồi xanh nở đầy hoa anh đào. Tôi háo hức bước vào, nhưng ngay lúc đó một âm thanh lách cách đáng sợ vang lên và một sinh vật kỳ dị, mặt và tay chân đều là màu đỏ, ống tay áo bị cái đai lưng vặn xoắn kéo lên, khiến tôi sửng sốt rồi òa khóc. Về sau tôi được nghe giải thích rằng đó là con cáo Tadanobu trong vở kịch Nghìn cây đào[3].

Một trong những chương trình mà tôi yêu thích là trận đấu vật giữa người và một con đà điểu. Đấu sĩ quàng khăn đầu và mặc áo giáp giống như trong đấu kiếm, anh ta đi nghênh ngang đóng giả làm một con chim đang muốn thách thức con đà điểu hòng khiến nó nổi giận và đá anh ta. Đôi khi con đà điểu bị vật ngã xuống đất, cổ bị ghìm chặt; đôi khi đấu sĩ bị nó đá đến nỗi phải bỏ chạy, vừa chạy vừa la toáng lên, “Mày thắng rồi! Mày thắng rồi!” Một lần, khi con đà điểu thắng, đấu sĩ tiếp theo đang ngồi ăn cơm ở một góc, còn con đà điểu quanh quẩn bên cạnh rồi đột ngột lao ra chộp lấy hộp cơm trên tay người kia. Cảnh anh ta thất kinh nhảy dựng lên trông buồn cười tới nỗi khán giả cười nghiêng ngả. Nhưng bác tôi lại nhỏ nước mắt.

“Con đà điểu đang đói mà thậm chí còn chẳng được ăn,” bác nói. “Bác thấy thương cho nó quá.”

[1]Kappa: Một loài thủy quái huyền thoại tồn tại trong văn hóa dân gian Nhật Bản, có hình dáng giống một đứa trẻ 4-5 tuổi, nhưng mặt giống mặt hổ, có mỏ, và có mai rùa sau lưng. Một đặc điểm nổi bật khác là trên đầu quái vật này có một vết lõm giống một chiếc đĩa.

[2]Deroren saimon: Ban đầu là những người hát rong, đi từng nhà và hát những bài giảng đạo đức đơn giản. Từ giai đoạn Edo tới thời Minh Trị, một vài người trong số này trở thành các diễn viên trên sân khấu.

[3]Trong vở kịch này có kể một phần về chuyện con cáo thần. Nhân vật tướng quân Yoshitsune trước khi ra chiến trường đã đem tặng cho người yêu của mình là Shizuka một chiếc trống. Chiếc trống này được làm từ da của cha mẹ con cáo thần, vì thế nó hóa thành Satö Tadanobu, một người lính vô cùng trung thành với Yoshitsune và đi theo Shizuka. Mỗi khi cô vỗ trống nhảy múa, con cáo thần lại hiện ra.

7

Đối với tôi mà nói, được sinh ra ở Kanda là một sai lầm tựa như thủy quái kappa nở ra ở giữa sa mạc vậy. Trẻ con xung quanh đều là những đứa trẻ hư, được rèn luyện để sau này lớn lên trở thành người Kanda. Chúng không chỉ không thèm chơi với một đứa ốm yếu như tôi mà còn không bỏ qua cơ hội nào để hành hạ tôi. Đặc biệt, thằng con trai nhà bán tất tabi[1] ở bên kia đường thường rình lúc bác tôi không để ý đột ngột xuất hiện đằng sau tôi, tát tôi vào má một cái rồi chạy vọt đi. Tôi bị dọa sợ đến nỗi dần dần sợ cả việc đi ra ngoài.

Khi tôi ở trong nhà, bác tôi thường bế tôi đứng lên chiếc cửa sổ xây cao quay mặt ra ngoài đường, để tôi bám tay vào tấm lưới sắt, rồi ôm tôi từ đằng sau và dạy cho tôi biết tên của những gì xuất hiện trong tầm mắt - nào là con ngựa, nào là cái xe. Một con gà của nhà bán gạo bên kia đường bị què chân vì bị xe cán qua. Hễ khi nào trông thấy nó trên đường, một chân lúc nào cũng co lên, lông cánh và lông đuôi xác xơ và bẩn thỉu, bác lại bảo, “Con gà tội nghiệp!” vì thế tôi dần dần trở nên không thích trông thấy nó.

Thường thì tôi chơi trong căn phòng khá tăm tối trải ba chiếc chiếu, cũng là nơi đặt ban thờ Phật. Ban đêm nó là phòng ngủ của tôi, nhưng thi thoảng các chị tôi cũng vào học ở đó. Khi ấy hai chị khoảng 12-13 tuổi, đang là học sinh trung học, và tôi vẫn nhớ họ thường lấy những cuốn sách màu đen ra khỏi chiếc cặp hình chiếc phong bì theo kiểu Âu, trải sách lên những mặt bàn gỗ cũ kỹ rồi tập viết. Một chiếc bàn rộng khoảng 0,9 mét với hai ngăn kéo có tay cầm là cành cây bọc trong giấy vào đút vào chỗ hai tay nắm cũ đã bị mất. Chiếc bàn còn lại thì có ngăn kéo rất nông và nó nhỏ tới nỗi chỉ trẻ con mới có thể khoanh chân đút dưới gầm bàn được. Đây là những chiếc bàn được truyền từ thời anh tôi cho các chị gái, rồi sau này đến tôi, và từ tôi truyền lại cho em gái, cứ thế trong suốt vài chục năm.

Nếu bác đặt tôi đứng trên chiếc bàn nhỏ để nhìn qua chiếc cửa sổ trổ ra vườn, tôi có thể trông thấy những bụi cây đỗ quyên thật lớn mọc gần hàng rào đen. Vào những ngày mùa hè, nơi đó tràn ngập những bông hoa đỏ tươi tuyệt đẹp, và mặc dù nhà ở giữa khu phố, nhưng thi thoảng lũ bướm cũng ghé lại thăm và đánh chén một bữa mật ong thỏa thích. Cảnh lũ bướm hối hả đập cánh như đang vội sấp vội ngửa trông thật cuốn hút. Vào những lúc như thế, bác thường vươn đầu qua vai tôi và nói rằng con bướm đen là ông trong loài bướm đuôi nhạn, còn bướm trắng và bướm vàng đều là công chúa. Thực ra, các cô công chúa đều rất đáng yêu, nhưng con bướm ông thì trông rất đáng sợ mỗi khi nó vỗ vỗ đôi cánh lớn đen như than và bay qua bay lại.

Bác cũng lấy ra cho tôi nhiều món đồ chơi đựng trong một chiếc giỏ được đậy một cách tỉ mỉ bằng những trang xé trong các cuốn sách thiếu nhi. Trong số rất nhiều món đồ chơi mà tôi có, tôi thích nhất là chú chó bằng đất sét và tô mực đen mà chúng tôi nhặt được ở rãnh nước trước cửa nhà. Khuôn mặt của chú chó mang một vẻ dịu dàng khiến tôi mê mẩn. Bác tôi đặt tên cho nó là Chó Thần; bác còn lập một ngôi miếu cho nó từ một chiếc hộp rỗng và mấy thứ linh tinh khác, rồi đặt nó vào bên trong và cầu nguyện. Ngoài ra, tôi cũng rất thích con bò đỏ[2] thô ráp. Thực ra, hai món đồ chơi này là hai người bạn thân duy nhất mà tôi có trên đời.

[1]Tabi: Loại tất ngắn tách riêng phần xỏ cho ngón chân cái và có móc gắn ở phía sau. Loại tất này chủ yếu được sử dụng trong những dịp trang trọng.

[2]Món đồ chơi được tặng kèm khi mua loại thuốc Ushibeni (nghĩa đen là bò đỏ) màu đỏ dùng để thoa môi.