- 2 -
8
Ngoài những món đồ chơi đó, chúng tôi còn có đủ thứ vũ khí, từ kiếm, kích, cung tên, cho đến súng ống. Bác tôi thường biến tôi trở thành một chiến binh hoàn hảo bằng cách trang bị cho tôi những thứ như mũ đội đầu đã được sơn cẩn thận và lưỡi dao có thể đâm xuyên áo giáp. Sau đó, bác lấy băng buộc đầu quấn lại sau gáy và tự mình cầm lấy một lưỡi kích. Và chúng tôi chia nhau đi tới hai đầu hành lang để bắt đầu đánh trận giả với nhau. Sau khi đã vào vị trí sẵn sàng, chúng tôi từ từ tiến về phía đối phương với tinh thần cảnh giác cao độ. Khi chạm trán nhau ở giữa hành lang, tôi sẽ dõng dạc hô to:
“Mi có phải là Shiöten không?”
Và kẻ thù sẽ đáp lại:
“Mi có phải là Kiyomasa không?”
Sau đó cả hai đồng thanh:
“Thật tuyệt vời vì giờ đây ta đã gặp nhau!”
Ngay lập tức sau đó, chúng tôi cùng hét, “Yä, takatakatakataka!” và ra sức đâm chém nhau. Qua một lúc, cuộc chiến vẫn bất phân thắng bại. Đây là một cảnh trong Trận chiến Yamazaki; tôi là Katö Kiyomasa, còn bác tôi vào vai Shiöten, thống đốc của Tajima. Dần dần, chúng tôi ném vũ khí ra chỗ khác rồi lao vào túm lấy nhau. Sau một màn long tranh hổ đấu ngoạn mục, Shiöten trông thấy Kiyomasa đã có vẻ mệt nên thì thầm một tiếng phẫn nộ, “Chết tiệt!” rồi ngã xuống. Thế là tôi tự hào ngồi dạng chân trên lưng bác và ấn bác xuống. Bác nhập vai Shiöten cho tới cùng, thậm chí còn đổ mồ hôi ròng ròng.
“Đứng đưa ta vào tù!” bác nài nỉ. “Hãy chặt đầu ta đi!”
Và thế là Kiyomasa rút thanh đoản kiếm ra rồi cưa qua chiếc cổ đã nhăn nheo của Shiöten, còn Shiöten nhăn nhó như thể đang rất đau đớn. Trận chiến kết thúc khi bác nhắm mắt lại, giả vờ đã chết, cơ thể mềm nhũn không còn chút sức lực. Nhưng vào những hôm trời mưa gió, tôi thường đòi chơi đánh trận giả tới bảy, tám lần khiến Shiöten kiệt sức đến mức đứng không nổi. Nhưng bác tôi vẫn đứng thẳng người, kể cả lúc rên rỉ, “Chịu thôi, không thể chơi tiếp được nữa! Chịu thôi!” cho đến khi tôi chán và đòi ngừng chơi. Thi thoảng, khi mệt quá, bác không thể đứng dậy sau khi bị chặt đầu. Mỗi lần như vậy, tôi lại sợ rằng nhỡ đâu bác chết thật nên nhẹ nhàng lay lay bác.
9Trong dịp Lễ hội Myöjin[1], khu phố nhà tôi trở nên náo nhiệt kinh khủng. Các thanh niên trong khu đi một vòng quanh các nhà để trang trí lên mái những bông hoa giấy màu đỏ và trắng và treo đèn lồng có dấu tomoe[2] hoặc vòng tròn đại diện cho mặt trời. Tôi rất vui khi thấy mái nhà nhà mình cũng được trang trí hoa và treo đèn lồng. Vào những ngày như vậy, một vài cửa hàng sẽ lấy thảm lót sàn nhà và bày biện Shijinken[3]. Hai chiếc đầu hổ khắc họa cầu kỳ được thành kính đặt trên một cái bệ cùng với một lọ rượu sake cỡ lớn dâng cho các vị thần, bên trong lọ là một cuộn giấy được tạo hình giống một cây tre. Chiếc đầu hổ vàng có cặp mắt bạc sáng chói và trên đầu đội viên đá trang sức[4], còn komainu[5] màu đỏ tươi có cặp mắt vàng sáng lấp lánh cùng một chiếc bờm sư tử với dáng vẻ hoang dã. Bác tôi lại vận dụng chiến thuật mà bác từng dùng để biến Chó Thần và Bò Đỏ trở thành bạn tôi, và bác cũng khiến con sư tử và komainu trở nên thân thiện hơn với tôi, và tôi không sụt sùi khóc, dù rằng khuôn mặt của chúng thật đáng sợ.
Nam giới trẻ tuổi của thị trấn, từ thanh niên cho đến trẻ nhỏ mới tập đi, tất cả đều mặc đồng phục yukata, quấn khăn quàng đầu rất phong cách, xắn ống tay áo lên rất khéo léo bằng một sợi dây gai dầu nhuộm màu vàng nghệ - tôi thích những sợi dây này được trang trí thêm quả chuông và búp bê lật đật - chân chỉ đeo tất tabi trắng và khoe ra những bắp chân căng mọng, huênh hoang đi lại khắp nơi, mỗi người vác theo chiếc mandö[6] to nhất mà họ có thể mang. Ánh nến lung linh sáng cả trong những chiếc đèn lồng treo dọc các mái nhà lẫn trong những chiếc đèn mandö đang diễu khắp thị trấn. Trên đỉnh của chiếc mandö sơn màu đỏ và trắng có treo nhiều cụm giấy thường dùng để thờ cúng. Cảnh tượng chúng xoay tròn trong không trung trông thật vui mắt. Ở mỗi địa điểm chiến lược trong thị trấn, một nhóm người lớn và trẻ nhỏ tụ tập lại xung quanh chiếc thùng mikoshi[7] để cùng bàn bạc về các chiến thuật đánh nhau.
Bác tôi, vốn luôn có hứng thú với chuyện như thế này, một lần cũng đưa tôi ra ngoài, dĩ nhiên là trước khi đi bác cũng xắn ống tay áo lên và đeo khăn quàng đầu cho tôi để tôi trông cũng giống tất cả mọi người khác. Tôi bám trên lưng bác, chiếc quần màu đỏ bằng vải flannel thò ra bên dưới đường viền của chiếc kimono và ống tay áo dài đã được xắn lên bằng một sợi dây, trên tay đung đưa một chiếc mandö nhỏ. Thật không may, một đứa bé hư đang đứng tụ tập quanh chiếc thùng mikoshi trông thấy tôi nên đã thình lình ném vài viên đá về phía tôi.
“Quỷ tha ma bắt!” cậu ta hét lên. “Nó nằm trên lưng một ả đàn bà lại còn dám cầm đèn mandö kìa!”
Bác tôi hoảng hốt.
“Xin hãy nhẹ nhàng với thằng bé, nó chỉ là một đứa trẻ ốm yếu!” bác hô lên rồi vội vàng chạy đi chỗ khác. Nhưng vài đứa vẫn cố tình đuổi theo chúng tôi, kéo lấy chân tôi hòng lôi tôi xuống. Có lúc tôi sợ quá, bám chặt vào cổ bác và khóc òa lên như bị bỏng. Bác thì suýt bị tôi bóp cho nghẹt thở, cố gắng tìm cách gỡ tay tôi ra, và cuối cùng hai bác cháu cũng chật vật về được đến nhà. Sau khi đã hồi sức, bác mới nhận thấy là tôi đã đánh rơi chiếc mandö mà bác mua cho tôi, và rơi cả đôi guốc mộc - đôi guốc mà tôi rất yêu quý, bởi vì tôi có thể dùng sợi dây màu xanh nhạt buộc chúng vào chân mình.
[1]Myöjin (Minh thần): Vị thần được sắc phong theo quy định ban hành vào năm 927 thời Engi, hoặc các ngôi đền thờ các vị thần này. Trước khi kết thúc Thế chiến II, ít nhất mỗi năm có 4 lễ hội Myöjin, nhưng ở đây Naka nhắc đến Lễ hội Myöjin ở Kanda; vào thời của ông, lễ hội này được tổ chức vào trung tuần tháng Chín hằng năm; ngày nay lễ hội diễn ra vào tháng Năm.
[2]Tomoe: Thường được dịch là biểu tượng dấu phẩy. Đây là một biểu tượng hình xoáy trông giống dấu phẩy, thường được dùng trong các huy hiệu của người Nhật Bản. Thông thường, một biểu tượng như vậy là một cụm gồm hai, ba, hoặc bốn dấu phẩy nằm trong một vòng tròn.
[3]Shijinken: Theo một số người, shijinken có nghĩa là thanh kiếm hoặc lá cờ in hình bốn vị thần. Những thanh kiếm và lá cờ này tượng trưng cho tứ thần trong truyền thống Trung Quốc cai quản bốn phương trời và bốn mùa trong năm, bao gồm Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, và Huyền Vũ. Tuy nhiên, theo như lời mô tả phía sau của Naka, thời của ông, shijinken chỉ hai hình đầu hổ bằng gỗ được sơn màu sặc sỡ.
[4]Höshu: Vật hình tròn có một đầu nhọn, thường được đặt ở giữa mái của chiếc đèn lồng đá.
[5]Komainu: Tượng chó trông giống sư tử, thường được đặt thành đôi trước cửa đền để trông coi.
[6]Mandö: Chiếc đèn lồng hình hộp được buộc trên một cây gậy.
[7]Mikoshi: Đền thờ di động do một nhóm người khiêng trong một số dịp lễ hội. Đối với các cậu bé, một thùng rượu sake đôi khi cũng có thể thay thế cho một ngôi đền.
10Tôi ốm yếu đến nỗi hiếm khi nào tách xa được thầy thuốc. Tuy nhiên, ông Tökei với đống bột sừng tê giác không lâu sau đã qua đời, và tôi bắt đầu có thầy thuốc mới là ông Takasaka, vị “bác sĩ Tây học.” Những vết mề đay mà ông Tökei vất vả lắm mới làm giảm bớt được thì nay đã được một liều thuốc phương Tây xóa sạch sẽ và chẳng mấy chốc, tôi đã được chữa khỏi hoàn toàn. Mặc dù có gương mặt hơi dọa người, nhưng ông Takasaka rất giỏi dỗ trẻ con. Tôi vốn đã trở nên cực kỳ ghét loại thuốc sền sệt của ông Tökei, nhưng lại rất vui vẻ mà uống thứ thuốc lỏng ngòn ngọt mà vị bác sĩ mới mang đến. Về sau, ông Takasaka gợi ý rằng, để sức khỏe của hai mẹ con tôi tốt lên, chúng tôi nên chuyển đến vùng Yamanote là nơi có bầu không khí trong lành. Thật may mắn, bởi vì cha tôi lúc này đã hoàn thành gần hết công việc với ông chủ nên có thời gian rảnh rỗi, ông giao việc còn lại cho người khác và quyết định chuyển đến vùng núi Koishikawa.
Khi ngày chuyển nhà cuối cùng cũng đến, mọi người ai cũng nhắc đi nhắc lại với tôi rằng chúng tôi sẽ không bao giờ quay trở về ngôi nhà ấy nữa. Nhưng tôi mải mê với những ồn ào huyên náo của những người quen đến giúp chúng tôi dọn nhà. Hơn nữa, tôi cũng rất lấy làm vui mừng vì được ngồi cùng xe với bác, nên tôi cứ ríu rít nói không ngừng. Đoàn xe đi được một lúc thì trên đường dần thưa người hơn và sau khi leo qua một con dốc dài bằng đất - cho tới khi đó tôi vẫn chưa biết đường dốc là gì - cuối cùng chúng tôi cũng đến một ngôi nhà cũ có hàng rào tuyết tùng bao quanh. Đây sẽ là nơi ở mới của chúng tôi.
11Ở khu mới mọi người sống lặng lẽ trong những ngôi nhà cũ có hàng rào tuyết tùng bao quanh. Hầu hết đều thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ đã sinh sống ở đây qua nhiều thế hệ, từ thời kỳ Mạc phủ cũ. Đây là những người vì thế cuộc đổi thay mà địa vị của họ cũng bị kéo xuống, nhưng họ đã tránh được cảnh rơi vào cuộc sống nghèo túng được bữa nay lo bữa mai và sống một cuộc sống khiêm nhường nhưng yên bình. Ở vùng nông thôn này, nhà cửa thưa thớt, hàng xóm không những quen biết nhau mà còn biết rõ cả trong nhà nhau trông như thế nào. Họ sống thân thiện như vậy đấy.
Bên trong những hàng rào tuyết tùng um tùm không người chăm sóc, bao giờ cũng có những khoảng đất trống để trồng cây ăn quả, và khoảng đất giữa các ngôi nhà được chăm bón làm nơi trồng rau hoặc chè, đồng thời là sân chơi lý tưởng cho tụi trẻ nhỏ và lũ chim muông. Trong mắt tôi, những vườn rau, hàng rào cây, và bãi trồng chè đều rất mới mẻ và đẹp đẽ. Ngôi nhà mà chúng tôi vào ở thực ra chỉ là tạm thời, để chờ xây ngôi nhà mới ở mảnh đất rộng rãi kế bên. Ở tiền sảnh tối tăm có trồng một cây “nhượng diệp[1]” có lá và cuống lá màu đỏ mà tôi rất thích. Thi thoảng tôi lấy một chiếc lá trơn mượt trên cây rồi áp nó lên môi hoặc má mình. Ngày hôm sau khi chúng tôi chuyển đến, có người bắt được một con ve sầu liền bỏ nó vào trong một cái chuồng chim tình cờ nằm ngổn ngang gần đó và mang cho tôi. Bởi vì chưa từng trông thấy hay nghe thấy tiếng ve sầu bao giờ nên tôi rất lấy làm tò mò, nhưng hễ tôi cứ lại gần là nó lại trở nên hung dữ và phát ra những tiếng chói tai khiến tôi phát hoảng.
Mỗi buổi sáng, tôi đều bị gọi dậy từ rất sớm và bị bắt đi chân trần trên bãi cỏ. Đối với tôi, riêng việc cố gắng ghi nhớ tên của các loại cây mọc ở đó, chẳng hạn cây rau tế và cây củ gấu, đã là cả một nhiệm vụ nặng nề. Bà tôi, khi ấy đã gần tám mươi tuổi, cũng chống gậy đi dạo buổi sáng sớm cùng tôi, trên mái đầu trọc trùm một chiếc khăn bằng vải satin. Một buổi sáng, bà chọn ra ba hạt dẻ rồi chôn xuống mô đất ở cạnh hàng rào ở sân sau và nói rằng tới khi các cháu của bà lớn lên, chúng sẽ được ăn hạt dẻ. Sau khi bà mất, chúng tôi gọi chúng là cây hạt dẻ Bà Ngoại và thay nhau chăm sóc. Bây giờ chúng đã rất cao lớn, và vào mùa thu, chúng tôi lại rung cây cho hạt rụng và nhặt được vài giỏ mang về để bóc cho lũ trẻ ăn.
Không lâu sau khi chúng tôi chuyển đến nơi ở mới, việc xây nhà được tiến hành. Mặc dù hơi sợ, nhưng tôi vẫn ngồi trên lưng bác đi xem lũ ngựa và bò chở gỗ đến rồi được buộc ở chỗ hàng rào. Những con ngựa vừa ăn lá tuyết tùng vừa thở phì phì ra hơi nước từ hai lỗ mũi lớn, còn những con bò thì ợ một tiếng rồi nôn ra thứ gì đó từ trong bụng và nhai tóp tép. Tôi thích những con bò mặt tròn trĩnh trông yên bình, thường xuyên đưa lưỡi liếm cái miệng đầy dớt dãi của chúng hơn là những con ngựa mặt dài ngoằng và bướng bỉnh. Ở chỗ xây dựng, những chiếc đục, rìu lưỡi cong, và rìu lưỡi rộng thi nhau tạo nên đủ thứ tiếng ồn, khiến ngay cả một đứa bé ốm yếu và buồn bã như tôi cũng cảm thấy hưng phấn. Trong số các thợ xây, bác Sada-san là người rất dịu dàng. Hễ khi nào tôi đứng bên cạnh bác mê mẩn ngắm nhìn những vỏ bào mượt mà cuộn khỏi cái bào của bác rồi rơi xuống đất, bác sẽ nhặt lên những vỏ bào đẹp cho tôi. Nếu đưa vỏ bào của cây tuyết tùng và cây bách có màu đỏ như máu vào miệng rồi mút, bạn sẽ cảm nhận được một vị khiến lưỡi và má mình đang bị bóp chặt lại. Ngoài ra, tôi cũng rất thích lấy hai tay vốc lấy một đống mùn cưa mềm mềm xốp xốp rồi để nó rơi xuống qua những kẽ tay, khiến ngón tay buồn buồn tê tê.
Sada-san bao giờ cũng nán lại sau khi những người thợ khác đã ra về. Sau đó bác vỗ hai tay và cầu nguyện mặt trăng. Tôi thích la cà ở chỗ xây nhà để xem bác làm điều đó, nhưng những người thợ khác đặt cho bác biệt danh là “đồ lập dị” và thường nguyền rủa rằng bác sẽ chết sớm.
Rồi tôi nhìn quanh chỗ đó sau khi nó đã được quét tước sạch sẽ, vết chổi còn hằn rõ trên mặt đất; đối lập với cảnh nhộn nhịp và ồn ào của ban ngày, sương mù buổi tối bắt đầu lặng lẽ giăng xuống nơi đây. Đến khi có người gọi vào tôi mới miễn cưỡng rời đi, và chờ đợi tới ngày hôm sau. Tôi không bị khó chịu với mùi gỗ và cảm thấy hào hứng khi quan sát ngôi nhà mới đang mỗi ngày một hoàn thiện hơn trong niềm kinh ngạc.
[1]Nhượng diệp: Danh pháp khoa học bằng tiếng Latin là Daphni-phyllum macropodum. Cây này có tên gọi “nhượng diệp” là bởi vì lá già chỉ rụng sau khi lá mới đã mọc đầy đủ.
12Cách nhà chúng tôi một khoảnh vườn chè về phía nam là một ngôi chùa gọi là Thiếu Lâm[1]. Bởi vì chùa có khuôn viên rộng, và có lẽ bởi vì người bác sùng đạo của tôi cảm thấy thoải mái hơn khi ở chùa, nên thi thoảng bác lại đưa tôi tới đó. Dọc hai bên con đường độ dài khoảng 36 mét và được lát hai hàng đá dẫn từ cổng chùa tới cửa chính điện, có những khóm chè không người chăm sóc, những cây tuyết tùng và các loại cây khác mọc hoang khắp nơi. Tôi thường đòi bác hái cho một bông hoa chè. Hoa chè vốn không bám chắc vào cành cây, nên khi một bông bị hái, nhiều bông khác cũng rụng xuống theo. Sau mưa, khóm chè nào cũng đọng lại rất nhiều hạt nước lấp lánh. Bản thân bông hoa chè không có điểm gì nổi bật, nhưng nó gợi lên cảm giác cô độc rất phù hợp với những ký ức tuổi thơ. Những cánh hoa tròn trắng muốt bao dung ôm lấy nhụy vàng, và hoa nở dưới sự chở che của những chiếc lá tròn màu xanh thẫm. Tôi có thói quen đưa một bông hoa lên gần mũi, che mũi lại rồi hít hà hương hoa.
Ở bên tay trái, cạnh giếng nước, là một cây hoa mộc lan; mỗi khi hoa nở, một mùi hương ngọt ngào lan tỏa khắp không gian. Âm thanh kẽo kẹt của cái ròng rọc bắc trên miệng giếng bay qua những khóm chè yên tĩnh để vào nhà tôi. Trên tấm mành lớn treo ở tiền sảnh của phòng chính có vẽ đôi chim công màu sắc sặc sỡ. Con chim trống đang đứng trên cao, chiếc đuôi dài rũ xuống như chiếc áo mưa bằng rơm; ngay bên cạnh nó là con chim mái nhỏ hơn đứng khom người như đang mổ gì đó. Xung quanh chúng là những đóa hoa mẫu đơn đang khoe sắc rạng rỡ và mấy con bướm đùa quanh.
Thi thoảng bác tôi cũng đưa tôi tới đền thờ đức Đại Nhật[2] ở gần đó để chơi. Khi tôi kéo sợi dây thừng dày và vặn xoắn để gõ chiếc chuông “có hình miệng cá sấu” ở trên đỉnh, bác tôi thả vài đồng xu và cầu nguyện. Sau đó bác lần lượt chạm tay lên đầu tôi và đầu ngài Tân-đầu-la[3] để mong chữa trị cho chứng bệnh về đầu óc của tôi, rồi bác khẽ đưa tay lên xoa mắt mình. Chiếc bệ gỗ bên dưới tượng Tân-đầu-la bị lộ ra, trông bóng loáng và nhem nhuốc vì những vết dấu tay, còn bức tượng ngồi chéo chân trên bệ, mắt mở lớn nhìn trừng trừng. Trong ngôi đền đó, giống như ở bất kỳ ngôi đền nào thờ Phật Đại Nhật, có một cái giếng, phía bên trên treo những chiếc khăn mặt màu quả hồng vàng mà người ta cúng dường. Trên mặt giếng thả một chiếc gàu làm bằng gỗ, loại gàu trông giống chiếc của O-Tsuru trong cuốn truyện tranh Awa no Naruto của tôi. Bác tôi thường xin nước ở giếng để lau mắt, và khi mở mắt ra, bác nói, “Tạ ơn đức Đại Nhật, hình như mắt con có thể nhìn thấy rõ hơn một chút rồi.”
Người ta nói rằng thẻ xăm của đức Đại Nhật ở ngôi chùa này rất chuẩn xác, và nhiều người ở tận xa cũng kéo về. Một hôm, bác tôi quyết định tìm hiểu xem Ngài phán thế nào về bệnh tình của tôi. Bác đi vào mé phòng có dựng bức bình phong bằng giấy để ngăn với điện thờ.
“Thưa thầy.” Khi bác vừa nói xong, từ bên trong vọng ra tiếng đáp, “Vâng, chào bác,” và một vị sư trẻ mới cạo đầu xong thò mặt ra ngoài. Bác tôi kể vô cùng chi tiết sự tình từ đầu tới cuối rồi xin một thẻ xăm. Vị sư đi đến phía trước bức tranh thờ, đọc lời cầu nguyện một lát, rồi lắc lắc nhiều lần chiếc lọ, làm phát ra những tiếng lách chách nhịp nhàng. Sau đó, thầy rút ra một thẻ xăm, tiến về phía chúng tôi, và cẩn thận chép lại nội dung trên thẻ lên một tờ giấy khác cho chúng tôi. Bởi vì bác tôi không biết đọc “chữ vuông[4]”, nên thầy phải giảng giải từng chữ một cho bác. Tóm lại, thẻ xăm nói rằng đứa trẻ này trong tương lai sẽ trở nên khỏe mạnh và có một cuộc sống hạnh phúc. Trên đường trở về nhà, bác tôi cứ cười vui vẻ suốt.
[1]Tên này bắt nguồn từ ngôi chùa Thiếu Lâm ở Trung Quốc, nổi tiếng vì là nơi đức Đạt Ma ngồi diện bích suốt chín năm và cũng là nơi môn võ karate ra đời. Nhưng đây cũng là tên chùa phổ biến ở cả Trung Quốc và Nhật Bản. Horibe Isao cho rằng Naka dùng tên này để nói về ngôi chùa Ryuköji.
[2]“Đại Nhật”: Tiếng Phạn là Mahävairocana. Đây là vị thần chính trong Mật Tông, đại diện cho bầu trời. Trong bối cảnh truyện, đây là một ngôi đền thờ vị thần này. Horibe cho rằng đó là đền Myösoku-in.
[3]Tên đầy đủ trong tiếng Phạn là Pindolabhäradväja, tiếng Nhật gọi là Binzuru. Đây là học trò xuất sắc nhất của Thích Ca Mâu Ni. Là vị La Hán có khả năng chữa trị bách bệnh, tượng của Ngài thường được đặt trước nơi thờ Phật để người dân có thể chạm vào như bác của Naka làm.
[4]Tức là chữ Trung Quốc.
13Cách khoảng 90 mét về phía khu vực thưa người hơn là nhà của một cặp vợ chồng già nuôi mấy con gà trong một bãi đất trống có hàng rào cây thục quỳ bao quanh. Họ bán những chiếc kẹo với giá rẻ. Tôi đặc biệt thích mái nhà lợp rạ - lần đầu tiên tôi được trông thấy một thứ như vậy - những bức tường trát bùn đã bong tróc, và cái cần múc nước giếng mỗi lần sử dụng lại kêu kẽo kẹt. Một trong những điều mà tôi trông ngóng nhất là cùng bác tới đó mua kẹo. Cả hai ông bà đều nghễnh ngãng và chậm chạp ra đón khách. Nếu bạn gọi to vài lần, một trong hai người sẽ dò dẫm bước ra và tìm các hộp kẹo ở đâu đó rồi mở nắp. Kinkatö, kingyokutö, tenmontö, mijinbö[1]. Nếu ngậm ống tre đựng thạch đỗ, bạn sẽ ngửi thấy mùi tre tươi trước khi thạch trượt vào lưỡi. Nàng Ota-san[2] trong một chiếc kẹo cười rồi khóc, ngoảnh mặt ra hướng này rồi hướng nọ. Nếu bạn cắn vỡ chiếc kẹo có sọc xanh đỏ và mút vào, một mùi thơm ngọt ngào sẽ từ đó lan ra.
Tôi thích nhất là thanh kẹo quế. Đó là một thanh aruhei[3] được phủ một lớp bột quế nên trong vị ngọt của nó có lẫn cả hương quế cay nồng đặc trưng. Một ngày trời mưa tầm tã, không hiểu vì sao đột nhiên tôi cảm thấy thương hai cụ lại vừa muốn ăn một thanh quế. Tôi nằng nặc đòi đi, khiến bác tôi đành phải chiều ý, cõng tôi trên lưng rồi hai bác cháu cùng mặc chung một chiếc áo khoác ngắn. Thật không may, ngày hôm ấy họ không còn thanh quế và tôi thất vọng tới mức khóc rỉ rả suốt dọc đường về. Nếu tôi chịu uống “sữa bò[4]” mà không phản kháng hoặc khi tôi chơi cả ngày mà không khóc, khi đó bác tôi sẽ mua một cái lúc lắc thưởng cho tôi. Cái lúc lắc này có hình như quả đào hay con trai và được nhuộm sọc trắng đỏ xen kẽ. Trên đường mua lúc lắc trở về, tôi vẫn bám trên lưng bác, thích thú lắc lắc nó, và khi về đến nhà thì nó cũng kịp vỡ, để lộ ra bên trong một cái trống hoặc cây sáo nhỏ làm bằng thiếc. Tôi trân quý những món đồ chơi ấy như thể chúng là báu vật giá trị nhất trên đời. Một số món có hình tam giác được quấn bằng loại da màu bùn, chỗ hợp lại có hình một diễn viên.
[1]Kinkatö là loại kẹo được làm từ đường trắng và nặn thành hình con cá và các hình thù khác, sau đó nhuộm màu. Kingyokutö là loại kẹo mùa hè trong suốt được làm từ gelatin, đường, và gia vị, phủ ngoài là một lớp đường hạt. Tenmontö có thể là rễ măng tây ngâm đường. Mijinbö là loại kẹo có hình giống như một cây gậy bị vặn xoắn làm từ hạt gạo nướng và đường. Để tham khảo hình ảnh những chiếc kẹo giá rẻ mà Naka nhắc tên, bạn đọc có thể xem bức “Naka Kansuke đi tới cửa hàng kẹo” tại địa chỉ http://www.toraya-group.co.jp/gallery/dat02/dat02_047.html.
[2]Tên đầy đủ hơn là O-Tafuku-san, “Đa Phúc Tiên.” Tên của một loại búp bê có gương mặt tươi cười với cặp lông mày cao, chiếc mũi nhỏ, và đôi má phúng phính. Ở đây Naka đang nói đến O-Tafuku-ame, một loại kẹo hình cây gậy có gắn gương mặt của búp bê này sao cho dù quay kẹo về hướng nào gương mặt đó cũng hiện ra.
[3]Xuất phát từ từ alfeloa trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là loại kẹo được du nhập vào Nhật Bản trong nửa sau thế kỷ XVI. Kẹo này được làm từ đường, bột lúa mỳ và có hình dáng bông hoa, trái cây, hoặc hình cây gậy như ở đây.
[4] Để trong ngoặc kép bởi vì ngày đó sữa vẫn được coi là một loại thuốc.