- 3 -
16
Khi ấy bác tôi vì may mắn tìm được một người bạn đồng hành tốt nên sau rất nhiều năm, bác rời nhà chúng tôi lần đầu tiên để về thăm mộ tổ tiên, và thoạt đầu bác cứ nghĩ mình chỉ đi một thời gian ngắn. Nhưng không lâu sau khi đến đó, bác bị ốm một trận nặng và người ta bảo có lúc tưởng như bác sắp không qua khỏi. Nhưng hẳn là do dương thọ chưa hết, nên cuối cùng bác hồi phục hoàn toàn. Tuy nhiên, vì tuổi cao sức yếu, bác không thể quay trở về với chúng tôi. Bác đành từ bỏ ý định đó và xin đến trông nhà cho một người họ hàng xa.
Theo quan điểm lạc hậu của bố tôi, “Yêu con thì phải cho con đi xa[1],” vào kỳ nghỉ xuân năm 16 tuổi tôi được gửi tới vùng Kyoto và Osaka để điều trị tinh thần ủ dột bẩm sinh của mình. Chuyến đi này hẳn cũng đã trị bệnh được cho tôi bởi vì tôi ở bên ngoài, làm bất kỳ điều gì tùy thích, cho đến khi bị gọi về mới thôi. Trên đường trở về, tôi quyết định ghé thăm bác, tôi nghĩ đây sẽ là lần tạm biệt cuối cùng của mình với bác. Bác sống ở một khu tên là Thuyền Viên, nơi này chen chúc nhiều ngôi nhà nhỏ nằm bên bờ một con sông. Sở dĩ có tên gọi này là bởi vì trong thời kỳ Mạc phủ, đây là nơi sinh sống của các thuyền viên trong thái ấp ở đây. Nhà bác khá khó tìm, tôi cứ hỏi đường lòng vòng cho tới tận khi mặt trời lặn, rồi tình cờ tôi bước vào một cánh cổng ở một nơi trông giống như ngôi chùa nằm trông ra một cửa hàng bán dụng cụ. Thật khó mà nói được liệu nơi này có người ở không; khung cảnh trông cũ kỹ và trống vắng, không có lấy một ngọn cỏ hay cây cối gì. Tôi đứng ở lối cổng vào đang mở cửa và gọi to mấy lần, nhưng không có tiếng trả lời. Trời sắp tối mà tôi lại đứng ở một nơi xa lạ, vì thế tôi vừa nhìn dáo dác vừa không khỏi cảm thấy sợ hãi trong lòng. Rồi tôi chợt để ý thấy một cánh cửa gỗ nhỏ bên cạnh một mảnh đất trống phía tay trái rộng khoảng bằng bốn chiếc chiếu tatami, trông thì có vẻ không giống một mảnh vườn lắm. Tôi khẽ mở cánh cửa ra và nhìn vào bên trong thì thấy một bà cụ già ăn mặc lôi thôi đang ngồi còng lưng như con tôm và khâu vá ở cuối mái hiên, dù trời tối nhưng đèn đóm không có. Cảm thấy áy náy vì xâm phạm vào vườn nhà người lạ mà không xin phép, tôi đứng lùi lại, khom lưng về phía cánh cửa gỗ để chào và nói, “Xin lỗi cụ ạ.”
Bà cụ vẫn điềm nhiên khâu vá.
“Xin lỗi cụ ạ.”
Hay là bà ấy bị điếc? Cánh tay cầm hành lý của tôi đã mỏi nhừ, lúc này sắp không chịu nổi nữa rồi.
“Cháu muốn hỏi cụ một chút ạ,” tôi nói rồi bước vào. Cuối cùng bà cụ cũng để ý đến tôi và ngẩng mặt lên. Tôi không nhìn rõ lắm trong bóng tối, nhưng cho dù bác tôi đã trở nên già nua và gầy hốc hác đến đau lòng cỡ nào, tôi cũng có thể nhận ra không sai biệt, đó là bác tôi. Sững sờ, tôi không biết làm gì khác ngoài việc giương mắt nhìn chằm chằm vào bác. Bác tôi vội vàng bỏ đồ khâu vá sang một bên và đặt tay lên sàn mái hiên để chào khách.
“Ngài là ai vậy ạ? Gần đây mắt tôi mờ quá... còn lãng tai nữa... Tôi lúc nào cũng mang đến rắc rối cho người khác thôi.”
Tôi vẫn im lặng. Bác rướn người lên một chút.
“Ngài là ai vậy ạ?” bác nhắc lại.
Tôi chật vật hồi lâu để kiềm chế cơn nghẹn ngào đang dâng lên trong lồng ngực và cuối cùng cũng nói được, “Là cháu đây mà.”
Nhưng nghe xong, bác vẫn hỏi: “Ngài là ai vậy ạ?” Sau khi nhìn kỹ tôi trên dưới một lượt, hẳn là bác đã biết tôi là ai, người mà bác vẫn biết rất rõ. Bác đứng dậy lấy một chiếc gối mỏng như cái bánh gạo ở gần lò sưởi đặt trong phòng, và đặt nó xuống gần ban thờ Phật.
“Xin mời vào,” bác nói và khom người như người ta mời khách vào trong nhà. Còn tôi rốt cuộc cũng bình tĩnh lại và bật cười.
“Bác, bác không nhận ra cháu sao? Là cháu đây, Kansuke đây mà.”
“Gì cơ?” Bác vội vàng chạy ra mép bậc thầm, nhìn tôi không chớp mắt một lúc, rồi sau đó giàn giụa nước mắt mà nhắc đi nhắc lại, “Là cháu, Kan-sa. Ôi, ôi, là cháu, Kan-sa,” bác vuốt ve tôi từ đầu tới vai như vuốt tượng của vị Tân-đầu-la, dù rằng bây giờ tôi đã cao hơn bác nhiều lắm. Và như thể sợ tôi sẽ tan biến đi, bác không lúc nào rời mắt khỏi tôi, kể cả khi dẫn tôi tới ngồi xuống cạnh chỗ lò sưởi tay.
“Chao ôi, cháu tôi lớn quá rồi mà chẳng hề thay đổi chút nào.” Lời chào chưa kịp nói hết, bác vẫn muốn tiếp tục vuốt ve tôi, và bác vừa cầu nguyện vừa lấy tay gạt nước mắt.
“Thật vui vì con đã đến. Bác cứ tưởng trước khi chết bác không được gặp con nữa.”
[1] Câu ngạn ngữ này ra đời vào thời kỳ việc đi lại còn khó khăn. Một câu ngạn ngữ khác có liên quan là, “Đi lại thật buồn chán và mỏi mệt”. Theo quan điểm của thời kỳ này, cha mẹ yêu con phải để con trải nghiệm sự khó khăn ở thế giới bên ngoài, không nên bảo bọc con ở nhà để làm hư con.
17Bác tôi châm chiếc đèn andon cổ.
“Cháu ngồi đây chờ một lát được không? Bác phải chạy ra ngoài một lát.” Rồi bác vừa lầm bầm ca cẩm về đôi chân đi không vững của mình vừa lật đật đứng dậy khỏi mái hiên và rời đi. Còn lại một mình, tôi nghĩ, Đây là lần cuối cùng mình gặp bác rồi. Tôi đang mải nghĩ về việc bác già đi quá nhanh, về việc tôi đã trở nên cao lớn từ lúc nào không hay, và về những chuyện trong quá khứ, thì chợt nghe thấy những tiếng guốc khua lách cách và thấy bác đang kéo theo vài người lạ mặt nữa trở về. Tất cả đều là những người bạn cũ hiện vẫn còn sống của bác, và họ cho biết tất cả đều sống xung quanh đó và thường xuyên chuyện trò với nhau. Bác tôi vui quá nên chạy đi gọi mọi người lại.
“Kan-sa từ Tokyo về thăm tôi đấy. Vào gặp cháu nó đi nào.”
Những bà cụ này, vốn đều rỗi việc, dễ tính và nhân hậu, tò mò kéo đến vì muốn xem cậu bé Kan-sa mà họ đã nghe kể rất nhiều trông như thế nào, những sau khi thấy Kan-sa tiếng tăm lừng lẫy rốt cuộc chỉ là một cậu bé bình thường như bao cậu bé khác, họ lại lục tục ra về để rang cho tôi một đống bỏng ngô bọc đường mà khi hơ trên lửa, chúng bị biến dạng đến thảm hại. Nhận ra là tôi chưa ăn tối, bác tôi bướng bỉnh cự tuyệt mọi lời đề nghị giúp bác làm cơm của bạn bè và, như thể đây là niềm vinh dự đặc biệt của mình, bác cầm chiếc đèn Odawara[1] có in hình gia huy riêng và ra ngoài mua đồ ăn.
Sau khi bác rời đi, tôi được nghe kể rằng bà chủ nhà này đã đi giúp nhà con gái từ lâu, và bác tôi sống ở đó một mình. Bác nói bác áy náy vì gây phiền hà cho người khác nên đã tự làm mọi việc nhà dù rằng mắt đã rất mờ. Lát sau bác thở hổn hển quay về, vào bếp châm chiếc đèn nhỏ trong đó, và vừa yên lặng chuẩn bị đồ ăn cho tôi vừa hỏi thăm về người này người nọ ở Tokyo. Thấy đã đến lúc ra về, các bạn của bác đứng dậy chào chúng tôi.
“Sống ở một nơi như thế này nên bác không có gì nhiều để làm cho con ăn. Con phải thông cảm cho bác đấy,” bác áy náy nói dù rằng bác đặt bên khay của tôi một đĩa sushi lớn. Rồi bác mang ra nồi cá bơn đang sôi sùng sục trên bếp và lấy đũa gắp từng con ra. Tôi nói tôi ăn no rồi, nhưng bác vẫn xếp đầy cá lên đĩa.
“Đừng có nói như vậy. Con phải ăn thật nhiều vào chứ.”
Vì quá phấn khích và không kịp nghĩ làm thế nào để bày tỏ thịnh tình của mình, bác tôi đã tới cửa hàng cá gần nhà và mua tất cả những con cá bơn đang được bày bán. Trong niềm hạnh phúc và sự biết ơn vô bờ, tôi ngồi chăm chú nhìn hơn 20 con cá bơn rồi từ từ ăn chúng cho đến khi no bụng.
Bác tôi cứ bận tới bận lui đến mức tôi sợ rằng điều đó sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của bác sau này. Sau khi xong xuôi mọi chuyện, bác ngồi nghiêm nghị thật gần tôi, đầu gối chúng tôi gần chạm vào nhau, và nói về rất nhiều chuyện, vừa nói bác vừa chăm chú nhìn tôi như thể muốn lưu giữ lại hình ảnh tôi trong đôi mắt của mình để rồi mang theo nó tới cõi trời. Tôi cố gắng thuyết phục bác đừng làm việc nhà nữa nếu mắt bác kém như vậy, nhưng bác không chịu nghe.
“Bác thấy áy náy lắm nếu cứ mang lại rắc rồi cho người khác rồi khoanh tay không làm việc gì cả,” bác nói.
Tôi nhớ ngày bác vẫn ở nhà chúng tôi, mỗi buổi tối tôi thường lấy ra một chiếc kim khâu trên cái cắm kim đã cũ rách và xỏ kim sẵn để ngày hôm sau bác dùng. Sau đó, do đã mệt và cũng bởi vì lo lắng cho sức khỏe của bác nên không lâu sau tôi đi nằm ngủ. Nhưng bác tôi nói bác còn phải tạ ơn Đức Phật A Di Đà, rồi bác thành kính ngồi trước ban thờ Phật và tay lần tràng hạt để đọc kinh. Trong ánh nến chập chờn, cơ thể gầy mòn vì bệnh tật của bác dường như lung lay. Bác tôi, người đã bày trò đánh trận giả Shiöten/Kiyomasa cho tôi, người thường rút ra một thanh quế trong ngăn kéo ở gối nằm để đánh thức tôi dậy mỗi sáng, cũng chính con người ấy giờ đây lại trở nên giống như một chiếc bóng. Sau một hồi lâu, bác đọc xong kinh và khép cánh cửa phòng thờ lại rồi tới nằm xuống bên cạnh tôi.
“Dạo trước bác ốm nặng, cứ tưởng đó là lần cuối cùng trông thấy mặt trời, nhưng có lẽ dương thọ của bác còn kéo dài thêm vài năm nữa, và thế là bác khỏe lại để chiếm một chỗ trên thế gian này. Nhưng giờ đã sống đến từng này tuổi rồi, bác nghĩ mình có thể buông bỏ mà nghỉ ngơi bất kỳ lúc nào. Đêm nào trước lúc đi ngủ bác cũng cầu Phật gọi bác về hầu Người, nhưng mà...”
Bác trông thấy tôi lấy chiếc khăn trải giường đắp lên người.
“Con không lạnh đấy chứ? Con mà cảm lạnh là bác không biết phải làm sao đâu... Sáng nào khi thức dậy bác cũng tự nói với mình, Ôi, ôi chao, ta vẫn còn sống này...”
Hai bác cháu cứ trò chuyện liên miên, nhưng rồi tôi lên tiếng chấm dứt câu chuyện để đi ngủ. Cả hai đều im lặng, cố gắng không gây tiếng động, cố gắng giả vờ ngủ nhưng đêm đó cả hai đều thao thức. Sáng sớm hôm sau tôi rời đi khi trời còn chưa sáng hẳn. Bác tôi đứng mãi ở cổng buồn bã nhìn tôi đi, đi mãi.
Không lâu sau đó, bác mất. Tôi hình dung hẳn là giờ đây bác đang ngồi trước Phật A Di Đà giống như điều mà bác hằng mong mỏi bấy lâu, và thành kính tạ ơn Ngài như bác đã làm vào buổi tối hôm ấy.
[1] Loại đèn hình ống có thể gấp lại, đáy và nắp đèn làm bằng gỗ, rất thuận tiện cho người đi đường. Đèn được sáng chế ở Odawara, Kanagawa, nên được gọi bằng tên này.
18Mùa hè năm 17 tuổi tôi ở một mình trong căn nhà ở miền quê của một người bạn mà tôi hay chơi khi ấy. Đó là một ngôi nhà lợp mái rạ trên một bán đảo đẹp và cô độc mà trước đây anh tôi từng có lần đưa tôi tới, và nó e thẹn nằm gọn lỏn dưới chân một ngọn núi nhỏ trên bờ. Bà cụ bán hoa sống một mình gần đó thường đến làm việc nhà cho tôi. Bà cùng quê với bác tôi. Và bởi vì trong mắt tôi, với độ tuổi và giọng thổ âm của bà, bà cũng giống như người bác đã quá cố của tôi vậy; còn đối với bà, tôi là người hiểu rõ phương ngữ quê bà và thậm chí còn nhớ cách dùng ngày xưa của chúng, nên chẳng bao lâu chúng tôi đã thoải mái trò chuyện với nhau.
Ngày trước, người anh trai thay quyền cha nuôi dạy em bảo bà cưới ông chủ một sòng bạc nhưng bà từ chối, vì thế ông đưa cho bà khoảng nửa cân bông thô rồi bảo bà tự lo liệu mà kiếm ăn. Bà xe bông thành sợi rồi mang sợi tới nhà buôn để đổi lấy thêm bông; sau đó lại đem về xe bông thành sợi và đem đi đổi. Với số tiền kiếm được và với giá gạo thời ấy, cuối cùng bà cũng để dành ra được một chút tiền dôi dư. Thế là bà mua một ít vải về khâu thành áo kimono, nhưng khi người anh trai phát hiện ra, ông đã mắng bà rằng, Vì sao em lại bỏ tiền ra mua một thứ như vậy mà không thèm nói với anh một tiếng? Bà nông nổi bỏ nhà ra đi định đến chùa Thiện Quang[1] để bày tỏ lòng thành kính của mình, có thể trên đường sẽ dệt sợi thuê hoặc làm công việc gì đó để kiếm lộ phí.
Khi ấy bà 17 tuổi. Một lần khi đang đi trên đường, bà bị một kẻ trông giống tên ma cô dắt khách bám theo; vì sợ hãi nên khi tới Trạm Tsumago ở Shinshü, bà quyết định sẽ đi tìm quán trọ khi trời vẫn còn sáng. Nhưng rồi bà lại trông thấy gã đó xuất hiện và lén đi vào quán trọ trước bà. Bà quyết định không nán lại ở đó nữa, nhưng khi vừa chuẩn bị rời đi thì chủ quán bước đến nói này nói nọ và tìm cách ép bà phải ở lại. Bà chất vấn lại ông ta rằng, tôi chỉ vừa mới ngồi xuống chưa ấm chỗ, thậm chí còn chưa hỏi giá phòng kia mà; hơn nữa, mặt trời vẫn còn ở trên cao, vì sao ông lại vô lý mà cản đường tôi như thế? Chủ quán nói rằng, Vị khách mà cô vừa trông thấy lúc nãy dặn tôi không được để cho cô đi cho đến khi anh ta rời đi, và ông ta kiên quyết không chịu lắng nghe bà. Tình cờ một người đàn ông đồng hương với bà cũng ghé qua, và bà đành phải giải thích đầu đuôi câu chuyện rồi xin người đó nói lại với chủ quán. Và chủ quán đồng ý ngay lập tức, ông ta nói sẽ để bà đi. Nhưng ngay khi người đàn ông tốt bụng kia đi khuất, chủ quán lại hằm hằm mặt ngăn bà lại.
Vì thế lần này bà nói chuyện với một ông lão cũng tình cờ đi ngang qua, và ông lão đồng ý sẽ chăm lo cho bà và nói, Tạm thời cháu hãy qua nhà ông ở rồi ông sẽ cho cháu đến chùa Thiện Quang cùng người đưa thư. Bà thuận theo lời ông lão nói và theo ông về nhà, nhưng trong suốt một tháng trời ông lão chỉ bảo cô giúp việc đồng áng mà không hề có ý định để cho bà đi. Cuối cùng bà cũng xin được công việc làm người ở cho một gia đình, sau đó tìm được một người bạn đồng hành, và lên đường tới chùa Thiện Quang. Trên đường tới đó, trong một quán trọ, “vì một mối duyên nợ khó hiểu nào đó” mà trước sự chứng kiến của những người phu khiêng chiếc kiệu mà bà thuê, người chủ quán trọ, và một vị viên chức làm việc ở trạm dịch, bà cưới người phụ tá của một vị cảnh sát trưởng. Nhưng vì chuyện này chuyện nọ, bà không thể chịu được người chồng của mình và định bỏ trốn, nhưng cuối cùng vẫn ở cùng ông suốt nhiều năm, cuối cùng bà mới hoàn thành được ước nguyện của mình và đi cùng chồng đến chùa Thiện Quang. Chỉ có điều xui xẻo là cả hai đều bị sởi nặng và phải nằm giường.
Sau đó, khi đã khôi phục sức khỏe và có thể đi lại được, nhờ có biết một chút về cách làm ô nên bà làm ô để bán, nhờ đó trả được những khoản nợ đã vay mượn ở nhiều nơi. Trong lúc làm mấy chiếc lọng cho một ngôi chùa, bà chợt nảy ra ý nghĩ quay trở về quê nhà, vừa đi đường vừa làm lọng cho các nơi. Nhưng khi tới một địa phương, bà không đi qua được trạm kiểm soát ở đó nên lại trôi giạt lần nữa cho đến khi tìm được chỗ ở lại trong một thị trấn gần đây và lại mở cửa hàng bán ô. Thật may mắn, công việc làm ăn diễn ra phát đạt và cửa hàng ngày một lớn hơn, bà thậm chí còn nuôi vài người học việc. Nhưng rồi bởi vì mắt của chồng bà càng ngày càng kém đi, nên bà từ bỏ công việc buôn bán và bắt đầu trồng những cây hoa mà bà ưa thích. Chín năm trước, chồng bà qua đời ở tuổi 69, vận may của bà cũng từ đó dần dần kém đi và bà ở vào hoàn cảnh như hiện tại.
Vào ngày lẻ, bà thường dậy sớm và khoác giỏ hoa trên lưng đem đi bán. Bởi vì mọi người xung quanh rất yêu mến bà và thường mang cho bà bánh kẹo cũng như đồ ăn, nên mỗi ngày bà chỉ cần năm xu để mua chút gạo. Hơn nữa, thầy bói nói rằng một năm rưỡi nữa bà sẽ qua đời, nên bà cũng đã thu xếp để mời người tới đọc kinh cầu siêu cho mình, chi phí làm ma chay có thể lấy từ tiền bán ngôi nhà bà đang ở hiện nay, tuy rằng nó đã rất cũ nát, vì thế bà cho biết bây giờ bà không có điều gì phải lo lắng cả. Bà lấy ra một cuốn sổ đã cáu bẩn được bọc trong một tấm vải màu đỏ tía.
“Tất cả mọi thứ đều được viết trong đây.”
Tôi mở cuốn sổ ra và đọc được nội dung về những giấc mơ cùng nhiều thứ khác trong khoảng năm Minh Trị thứ 22 do nhiều người khác nhau viết lại với nét chữ nguệch ngoạc. Trên bìa cuốn sổ viết “Ghi chép về các phương pháp điều trị giấc mơ bằng ngải cứu,” nhưng nội dung bên trong hoàn toàn không liên quan. Bởi vì không biết chữ nên bà không biết sự xảo quyệt của những người viết và cứ tưởng rằng họ đã viết ra tất cả những gì mà bà nói cho họ. Trong cuốn sổ còn có một tờ quảng cáo thuốc được gấp lại cẩn thận. Và mặc dù không biết chữ, bà vẫn ngồi bên cạnh tôi ngó vào cuốn sổ.
“Ta cũng đã gặp Hoằng Pháp Đại Sư[2]”, bà nói, “và gặp cả Quán Thế Âm Bồ Tát nữa.”
Sau vài ngày, tôi biết được rằng sở dĩ bà tin tưởng tôi như vậy không phải vì những lý do mà tôi nghĩ, mà bởi vì tôi đã lắng nghe rất nghiêm túc những câu chuyện của bà mà theo tiêu chuẩn ngày nay là đậm màu mê tín đến mức khiến người ta nảy sinh ý nghĩ muốn chế nhạo. Bà nói rằng lần đầu tiên gặp tôi, bà đã nghĩ, “Quả là một con người lịch lãm một lòng hướng Phật, lẽ ra cậu ấy phải làm một nhà sư mới phải!”
“Bà còn nghĩ tới điều gì nữa,” tôi hỏi. Bà nhăn mặt lại và nói, “Không cậu ạ, tôi không nghĩ gì nữa cả.” Nhưng với bản tính thật thà và không được chuyện gì trong bụng, sau lời phủ nhận trên bà nói tiếp, “Cậu thấy đấy, cậu sẽ không bao giờ có thể kiếm được một cô dâu tốt.”
Bà giải thích rằng, mặc dù tôi có lòng mộ đạo, nhưng tôi cũng không thể quy y được bởi vì người ta đã dựng lên những rào cản đối với tôi và họ sẽ còn tiếp tục ngáng đường tôi từ nay trở về sau.
“Ý bà là một lòng hướng Phật cũng không giúp ích gì cho cháu ư?” tôi nói với vẻ đau khổ.
Bà lập tức nghiêm mặt lại. “Không đâu, cậu ạ, sẽ không có chuyện đó nếu cậu giữ vững đức tin kiên định của mình. Cậu thấy đấy, quyền năng của Phật là vô cùng!” Bà nhấn mạnh như thể đã quên hết mọi thứ.
“Cậu không giống tôi, cậu biết chữ cơ mà, vậy thì hãy chịu khó đọc kinh đi.” Nói rồi, bà cầm bàn tay tôi lên xem. “Cậu trông này, tất cả các đường xen ngang đều đã biến mất. Tôi đã ban Hồng Ân[3] cho cậu nhưng cậu vẫn chưa hề từ bỏ con đường tự lực[4]. Cậu là người xấu,” bà nói rồi buông tay tôi ra.
[1] Một ngôi chùa được nhiều tín đồ Phật giáo tìm đến, nằm ở thành phố Nagano.
[2] Köbö Daishi: Danh hiệu dành cho ngài Kükai (774-835), người sáng lập ra trường phái Chân Ngôn Tông trong Phật giáo ở Nhật Bản.
[3] Hongan: Lời cam kết của Phật A Di Đà rằng Ngài sẽ cứu rỗi tất thảy chúng sinh.
[4] Jiriki: Sự giải thoát bằng những nỗ lực tu tập của chính bản thân. Đối lập với nó là tariki, tha lực, tức là sự giải toát nhờ dựa vào Phật lực, chẳng hạn Phật A Di Đà.
19Một buổi chiều, trong lúc đang leo lên ngọn núi phía sau nhà để tới cây thông lớn nằm trên đỉnh núi, tôi đi lạc vào một thung lũng không có đường. Tôi rẽ bừa những bụi cây còn cao hơn người mình, hai má bị cành cây ở các lùm cây bụi cào xước, chân bị đám dây leo như quạt chiến[1] quấn lấy, và cuối cùng cũng thoát ra khỏi nơi ngột ngạt đó để leo lên đỉnh. Đỉnh núi trông giống như một con bò đang nhô lên khỏi thung lũng sâu hướng ra phía biển. Tôi đi theo con đường mòn ngoằn ngoèo dọc lưng con bò lên tới phần vai gồ lên như một cục bướu. Những cây thông lùn gầy gò bám vào những tảng đá hoa cương màu nâu đỏ đã đồng hóa thành những bề mặt trông giống da cá mập, và khắp nơi vương vãi những bãi phân của những con chim tới ăn hạt cây. Tôi cố gắng không để mình bị trượt xuống phía thung lũng và dồn sức vào các đầu ngón tay và bàn chân để bám lấy những tảng đá thô ráp, và cuối cùng cũng leo lên được cục bướu nơi vai của con bò. Dưới bầu trời tràn ngập ánh sáng chói chang, mặt trời tỏa ra những làn sóng nhiệt.
Từ chỗ đó đi tiếp là một sườn dốc thoai thoải đổ xuống dọc theo cần cổ của con bò dài khoảng 90 mét, vách đá ở hai bên càng trở nên dốc hơn, thung lũng dường như sâu hơn, cho đến khi tôi tới một khoảng đất bằng nhỏ hẹp nhưng cụt đường tương đương với phần mũi của con bò nằm trên một vách đứng. Từ vị trí đó dọc theo phần duyên hải khoảng chừng mười cây số, hàng loạt dãy núi lô nhô, mỗi dãy cao chừng 300-600 mét, vươn ra khắp nơi tới tận biển, tạo thành vô số vịnh nhỏ. Một trong ba dãy núi chính bị nước biển bào mòn ở phía chân, tạo thành địa hình trông giống như có người đã gắn cái nêm vào đó. Lúc này, đỉnh núi đã ở phía sau lưng, một loạt những bức tường đá cao hơn đứng xếp hàng như những tấm bình phong ở ngoài thung lũng; lấy bầu trời xanh làm trần nhà, toàn bộ không gian này bỗng trở thành một nhà thờ khổng lồ. Một con chim ưng bay phía trên đầu tôi, thi thoảng nó lại cất những tiếng kêu dài rồi lao nhanh xuống xoẹt qua trước mắt tôi rồi lại bay vút lên cao.
Tôi đưa mắt nhìn xuống thung lũng phía bên phải và trông thấy một con đường mòn quanh co xuyên qua khu rừng rậm rạp như thể một sợi chỉ đang khâu những dãy núi lại với nhau và đi xuống phía ngôi làng ở phía trước. Và qua một cái khe hẹp chỉ vừa đủ để hé mắt nhìn, tôi trông thấy núi non trùng điệp, ngọn này xếp chồng lên ngọn kia thành tầng tầng lớp lớp kéo dài đến vô tận với đủ màu sắc, đỏ, đỏ nhạt, tía, tía nhạt, và tất cả dâng cao tới mức chạm lên mây. Trong lòng tràn ngập niềm ngưỡng mộ và phấn khích, cộng thêm một chút sợ hãi, tôi bắt đầu cất tiếng hát bằng âm thanh cao vút. Tiếng vọng. Nó lặp lại lời tôi nói, như thể có ai đó đang nấp đằng sau những dãy núi và đi theo tôi. Cảm thấy hào hứng trước bài hát của một ca sĩ không chịu lộ diện, tôi lấy hết sức hát to nhất có thể. Anh chàng ca sĩ kia cũng bắt chước mà hát bằng giọng cao nhất của mình. Và như thường lệ, tôi cảm nhận được một niềm vui nguyên thủy về một điều vốn vô cùng dễ hiếu. Cuối cùng, sau nửa ngày vui vẻ hát ca, khi mặt trời lặn xuống mặt biển, tôi quay trở về ngôi nhà nằm bên trong hàng rào cây nhượng diệp.
[1] Gunpai: Loại quạt ngày xưa được các tướng lĩnh mang theo ra trận. Ngày nay quạt này được các trọng tài sumo sử dụng.
20Tôi đi vòng tới sân sau để rửa chân và, áng chừng lúc này bồn tắm đã được chuẩn bị xong xuôi, tôi mở cửa phòng tắm rồi bước vào trong. Ngâm mình trong bồn tắm đã nguội nước ở mức vừa phải, tôi duỗi đôi chân mỏi nhừ và tận hưởng cảm giác thư thái, thoải mái. Nước mấp mé dâng lên đến ngực khiến tôi có cảm giác như mình đang khẽ buộc chúng bằng dây. Tôi dùng hai tay giữ thân thể mình như thể nó sắp nổi lên rồi ngả đầu lên thành bồn tắm mà hồi tưởng lại những khoảnh khắc hạnh phúc trong ngày, thi thoảng lấy hơi thổi vào cơ thể đã được làm ấm của mình. Tôi đặt tên cho nơi đó là Đỉnh Tiếng Vọng. Điều khiến tôi càng cảm thấy sung sướng hơn là, tôi đã tìm ra nơi đó bởi vì vô tình đi nhầm đường, rằng vì thế mà ngoài tôi ra không có người nào khác biết về nó, rằng để tới được đó bạn phải vượt qua vách đá nguy hiểm kia.
Sau một lát, tôi chợt nhận ra rằng mình đang nhìn xuống mặt nước lờ đờ của bồn tắm. Hơn nữa, mặc dù gần như không thể nhận ra, nhưng trên mặt nước ánh lên một lớp dầu mỏng màu trắng của cơ thể người. Phải chăng có người đã tắm ở đây rồi? Giả thiết này đã làm sáng tỏ tất cả. Hẳn là đã có người đến đây. Đột nhiên tôi cảm thấy bồn chồn. Đối với tôi, người mà tôi không biết chính là người mà tôi không thích. Đầu óc đang mơ màng của tôi trở nên tỉnh táo hẳn, tôi càng hoảng sợ hơn nữa khi người giúp việc thấy tôi ở trong liền chạy lại giúp tôi tắm rửa[1]. Bà vừa rối rít xin lỗi vì chưa thay nước vừa nói người vợ trẻ tuổi của chủ nhà vừa từ Tokyo tới. Lẽ ra không có người nào như thế trong gia đình của bạn tôi mới phải. Cậu ấy từng kể với tôi rằng mùa hè này chị gái cậu ấy đang ở Kyoto cũng tới Tokyo, vậy thì đây có lẽ là người này. Nếu đúng vậy thì tôi chẳng thể làm được gì rồi, và tôi đành chấp nhận chuyện này, nhưng tôi vẫn cảm thấy dù sao đó cũng là một rắc rối. Trước khi rời đi, người giúp việc còn hạ thấp giọng thì thào ra vẻ rất nghiêm túc mà rằng, “Cô ấy là một người con gái đẹp, rất đẹp.”
Tôi len lén về phòng mình giống như người đang có chuyện đáng xấu hổ phải giấu diếm và ngồi thẫn thờ dựa vào cây cột. Thật không có gì phiền toái hơn là gặp gỡ người khác lần đầu tiên và tìm chuyện mà nói cho phải phép. Và cái khó chịu khi phải quy củ ngồi cứng ngắc trước mặt một người xa lạ có khác gì mình đang bị trói bởi một sợi dây vô hình. Càng nghĩ, tôi càng cảm thấy phần giữa hai lông mày của mình như bị xiết chặt lại, vùng quanh hai bả vai cũng nóng lên như phải bỏng. Người phụ nữ kia hình như đang ở trong căn phòng biệt lập đằng trước. Nếu đó là chị gái của bạn tôi mà tôi từng được nghe nhắc đến, vậy thì không có gì phải lo lắng nhiều, nhưng tôi nên làm gì đây? Tôi đang mải mê theo đuổi hết ý nghĩ này đến ý nghĩ khác thì tiếng bước chân lặng lẽ đã tiến vào mái hiên rồi đột ngột dừng lại trước cửa. Trong lúc tôi đứng dậy khỏi cây cột và điều chỉnh lại tư thế của mình trước bàn, thì một giọng nói điềm đạm, mềm mại vang lên, “Xin lỗi,” và như thể bản thân giọng nói ấy đã mở cửa, cánh cửa liền mở ra.
“Ôi chao, tôi còn chưa đưa đèn cho cậu nữa,” cô lên tiếng như thể đang tự nói với mình, và trong khung cửa hình chữ nhật tối lờ mờ, một gương mặt trắng ngần trở nên vô cùng nổi bật.
“Chào cậu. Tôi là chị gái của chủ nhà. Tôi mạn phép tới ở đây vài ngày.”
“Vâng.” Đó là tất cả những gì tôi có thể nói, và tôi yên lặng chờ đợi bản án dành cho tội trạng của mình. Nhưng cô chỉ nhẹ nhàng đặt trước mặt tôi một chiếc đĩa đựng những chiếc bánh Âu tỏa hương thơm phức.
“Tôi không có gì đặc biệt để tặng cậu cả... Tôi cũng không biết cậu có thích món này không,” cô nói. Lúc ấy, pho tượng lạnh lùng, trang nghiêm đột nhiên biến thành một người con gái xinh đẹp với nụ cười phảng phất nét ngại ngùng. Nhưng rồi, khi cô nói, “Bây giờ tôi sẽ đi lấy đèn,” thì cô lại biến trở về thành một pho tượng, và biến mất vào bóng đêm.
Tôi thở ra một hơi nhẹ nhõm. Dù cảm thấy xấu hổ vì tôi lại hành xử như vậy, nhưng tôi vẫn cố nhớ lại dáng hình vừa biến mất ấy, chỉ là tất cả đều giống như trong giấc mơ và rất khó nắm bắt. Tuy vậy, khi tôi vẫn ngồi yên và nhắm mắt lại, mọi thứ dần dần định hình như lúc bạn đột ngột bước từ bóng tối ra vùng sáng. Cô có mái tóc đen huyền quấn theo kiểu nút thắt tròn. Bên dưới cặp lông mày sáng sủa là đôi mắt đen lay láy. Mọi đường nét của cô đều rõ ràng đến mức tôi cảm thấy thật khó mà làm quen với cô hay ở gần cô, và tôi nghĩ ngay cả đôi môi đáng yêu của cô - môi dưới hơi nhô ra một chút so với môi trên - trông cũng giống như nó được khắc từ san hô dưới đáy biển. Nhưng khi cả hai khóe môi nhẹ nhàng kéo lên để lộ ra hàm răng xinh đẹp, thì một nụ cười như gió thoảng xuất hiện khiến mọi thứ đều trở nên dịu dàng, cặp má trắng ửng hồng lên, biến pho tượng thành một người phụ nữ tuyệt đẹp.
[1] Ngày trước, các nhà tắm công cộng thường có người giúp khách hàng tắm rửa; ở nhà riêng, người giúp việc và các thành viên trong gia đình cũng làm việc này.
21Từ lần đó trở đi, không hiểu vì sao nhưng để tránh mặt cô, việc đầu tiên tôi làm khi thức dậy mỗi sáng là chạy đến Đỉnh Tiếng Vọng và khi trở về cũng cố ý tránh giờ ăn. Dù vậy, bởi vì cùng sống trong một ngôi nhà nên thi thoảng vẫn có lúc chúng tôi ở cùng nhau. Khi lên đỉnh núi tôi không hát như một chú chim đã hết mùa hăng hái. Tôi chỉ dõi mắt mơ màng nhìn vào những tầng núi sâu thăm thẳm hiện ra giữa những bức tường đá nhấp nhô.
Một buổi tối nọ, khi đã rất khuya, tôi đứng giữa những luống hoa và ngắm mặt trăng đang treo trên ngọn núi sau nhà. Hàng nghìn con côn trùng thi nhau cất tiếng kêu, và những làn gió biển từ phía đồng thổi tới, mang theo hương vị biển cả và âm thanh của sóng. Qua khung cửa sổ tròn ở căn phòng biệt lập có thể thấy đèn bên trong vẫn sáng, và trong chiếc chum hình hoa sen đặt trước cửa phòng, tôi trông thấy mấy chiếc lá và những bông hoa trắng đang im lìm khép cánh, cơn mưa rào buổi chiều tối đã biến thành những giọt sương đọng bên trên. Chìm trong những ý nghĩ không tên, những ý nghĩ ở tầng thẳm sâu nhất trong tâm hồn, tôi quên hết mọi thứ xung quanh và chỉ chăm chú ngước nhìn mặt trăng cứ mỗi đêm mỗi khuyết dần... Đột nhiên, tôi thấy người chị gái của bạn mình cũng đang đứng giữa những luống hoa. Thế là cả mặt trăng cùng những bông hoa đều biến mất. Khi một con chim nước sà xuống mặt hồ đang phản chiếu những bóng râm xinh đẹp, tất cả bóng râm ở đó cũng lập tức biến mất, chỉ để lại bóng trắng của con chim đang vờn trên mặt nước.
Tôi lúng túng mở miệng, “Mặt trăng...” nhưng ngay lúc ấy, thật đáng tiếc, vì muốn giữ thể diện cho tôi, cô xoay người đi, khiến tôi chưng hửng, mặt mũi đỏ bừng lên. Những việc nhỏ nhặt như vậy, chẳng hạn một từ nói hớ hay một thoáng bối rối, đều khiến tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ. Cô gái vẫn tiếp tục lặng lẽ bước đi, nhẹ nhàng rẽ quanh những luống hoa và quay về chỗ cũ, khi ấy, cô nói tiếp câu dang dở của tôi, “... đẹp đến nao lòng.”
Cách cô khéo léo giữ mặt mũi cho tôi khiến tôi thực sự hạnh phúc và biết ơn cô.
22Ngày hôm sau, tôi sang căn phòng biệt lập để trả lại tờ báo thì thấy cô đang ngồi chải đầu, quay lưng về phía tôi. Mái tóc dài nhẹ nhàng xổ xuống, những lọn sóng quăn trượt xuống vai qua lưng. Tôi định đóng cửa lại và rời đi thì cô dừng lại, tay cầm lược ngưng gần nơi tai, và khuôn mặt cô trong gương mỉm cười.
“Xin chờ đã. Ngày mai tôi sẽ rời đi,” cô nói. “Tôi muốn mời cậu ăn một bữa tạm biệt...”
Tôi lại trèo lên Đỉnh Tiếng Vọng và dành nửa ngày trong nhà thờ thiên nhiên này, không ca hát, cũng không có gì để nhìn ngắm ngoại trừ một con chim ưng đang bay lượn trên bầu trời. Tiếng vọng cũng im lặng như không muốn quấy rầy những suy tư của người bạn quen thuộc vẫn cùng hát với mình.
Bàn ăn tối phủ tấm khăn trắng tinh. Người bà ngồi một bên, chị của bạn tôi và tôi ngồi đối diện nhau. Trong tôi bỗng dưng dâng lên thập vị cảm xúc, xấu hổ, vui mừng, cô đơn, và buồn bã.
“Xin mời dùng bữa,” cô nói và khẽ gật đầu mời. “Đầu bếp của cậu hôm nay vốn không quen bếp núc... Tôi không biết liệu cậu có thích những món này không.”
Cô bẽn lẽn đưa mắt nhìn những đĩa thức ăn và mỉm cười. Những miếng đậu phụ do cô tự làm khẽ run run, màu chàm trong hoạt tiết của chiếc đĩa đựng gần như nhuộm lấy màu trắng của những miếng đậu. Cô nạo quả thanh yên[1] rồi nhẹ nhàng rắc lớp bột màu xanh nhạt vừa nạo lên đĩa đậu phụ, khiến cho chúng như thể sắp tan chảy ra. Tôi nhúng một miếng vào bát nước chấm tối màu. Sau đó tôi khéo léo đưa miếng đậu phụ đặt trên đầu lưỡi. Mùi thơm lặng lẽ của quả thanh yên, vị đậm đà của xì dầu, và cảm giác mát lạnh, trơn trượt của món ăn. Tôi lăn miếng đậu vài vòng trên đầu lưỡi và nó tan ra, để lại vị tinh bột phảng phất. Ở một chiếc đĩa khác, những con cá thu con trông ngộ nghĩnh nằm gióng thẳng đuôi, phần thân được uốn cong lên. Ở chỗ phần vảy cứng đã được nạo ra có màu hạt dẻ, lưng cá màu xanh, phần bụng sáng lên lấp lánh. Mỗi con cá đều tỏa ra một thứ mùi ấm áp rất độc đáo. Tôi gắp lên một tảng thịt cá lớn, nhúng vào bát nước chấm rồi đưa lên miệng, và một hương vị đậm đà tỏa ra.
Sau khi dọn dẹp bát đĩa, hoa quả được bày ra. Từ trong đám lê, chị của bạn tôi chọn ra một quả trông ngon miệng nhất để gọt vỏ. Cô dùng sức trên đầu ngón tay để giữ cho quả lê nặng nề đó khỏi trượt rơi xuống rồi khéo léo đưa lưỡi dao tạo thành một vòng tròn giống như bộ nhạc cụ shö. Khi cô dùng những ngón tay dài cong cong xoay tròn quả lê, lớp vỏ màu vàng ngả lên mu bàn tay trắng ngần rồi rũ xuống thành hình đám mây. Cô thái những miếng lê vẫn đang nhỏ nước và đặt vào một chiếc đĩa cho tôi rồi nói cô không thích ăn lê lắm. Tôi lấy một miếng bỏ vào miệng, vừa ăn vừa nhìn một quả anh đào xinh đẹp đang hờ hững nằm giữa đôi môi của cô, sau đó trượt vào đầu lưỡi nhỏ. Khuôn hàm cân đối như vỏ sò nhẹ nhàng di chuyển.
Tâm trạng của cô vui vẻ khác thường lệ. Cả người bà cũng rất sôi nổi. Thậm chí bà còn muốn đoán số răng của tôi. Giống như một đứa trẻ, bà giấu mặt vào sau lưng chị của bạn tôi để ngẫm nghĩ hồi lâu.
“Không tính số răng khôn, ta đoán cháu có 28 chiếc, đúng không nào?”
“Ai chẳng có 28 chiếc răng ạ.”
“Không phải thế đâu. Đức Phật Thích Ca có tới hơn 40 chiếc răng đấy,” bà nói và kiên quyết không chịu nhân nhượng ở điểm này. Nghe vậy, cả hai khóe miệng của cô gái đều kéo lên, để lộ hàm răng tuyệt đẹp. Sau đó, chúng tôi tiếp tục nói về những chuyện đang dang dở, và khi nhắc đến chim, người bà kể rằng ở các dãy núi nơi quê bà có hàng đàn diệc trắng. Ngỗng đi thì vịt về. Sếu cũng đến rất nhiều. Hằng năm, như thể đã có quy định từ trước, khi những đàn sếu bay đến, người ta lại báo lên vị tỉnh trưởng. Lũ cò cổ trắng cũng đến. Chúng kiếm những nhánh cây con để đan thành tổ trông giống như chiếc giỏ treo trên cây tuyết tùng lớn cạnh đền bình an[2]. Bà tiếp tục kể say sưa, nên tôi hỏi, Đó là chuyện khi nào vậy ạ? Và bà trả lời, Khi ta còn nhỏ.
“À, vậy thì bây giờ chúng không còn ở đó nữa rồi.”
“Nhưng mà chúng rất đông. Hơn nữa, năm nào chúng chẳng sinh con đẻ cái, phải không nào?” bà vẫn bướng bỉnh nói.
Khóe miệng xinh đẹp kia lại kéo lên cao hơn nữa, và tôi lại được trông thấy hàm răng trắng rạng rỡ.
Lẽ ra sáng hôm sau chị của bạn tôi rời đi, nhưng vì lý do nào đó mà lịch trình của cô bị hoãn lại tới buổi tối. Vào buổi chiều, sau khi tôi tắm xong, người bà hình như chạy ra ngoài có việc bởi vì các căn phòng đều tối om, và tôi chuẩn bị bước ra chỗ mấy luống hoa thì một giọng nói cất lên từ phía khung cửa sổ tròn của căn phòng biệt lập.
“Lúc nãy tôi phải mượn cây đèn của cậu một lát.” Sau đó cô xuất hiện với khay đào trắng trên tay để chào tạm biệt.
“Cầu chúc chị khỏe mạnh và hạnh phúc. Khi nào có cơ hội tới Kyoto lần nữa, nhớ ghé thăm tôi nhé.”
Tôi bước xuống vườn, ngồi xuống chiếc ghế giữa những luống hoa, và xem những vì sao xoay tròn hướng về phía biển. Khắp không gian chỉ có tiếng sóng biển xa xa, tiếng côn trùng kêu, và bầu trời. Người giúp việc thuê một chiếc xe tay. Tôi trông thấy cô, lúc này đã ăn vận xinh đẹp và sẵn sàng lên đường, vội vàng chạy sang phòng tôi trả lại chiếc đèn. Lát sau, cô đi theo người giúp việc mang hành lý cho cô đi qua mái hiên tiến về phía tiền sảnh, rồi cô chợt dừng lại và khẽ cúi chào về phía tôi.
“Chúc cậu khỏe mạnh và hạnh phúc,” cô nói, nhưng tôi, tôi không biết tại sao, lại giả vờ như không nghe thấy.
“Tạm biệt, hãy thật khỏe mạnh và hạnh phúc.”
Trong bóng tối tôi lặng lễ cúi đầu. Âm thanh của chiếc xe tay xa dần, và có tiếng đóng cổng. Tôi giấu mình giữa những bông hoa và đưa tay gạt những giọt nước mắt đang không ngừng tuôn xuống. Vì sao tôi lại không nói gì? Vì sao tôi lại không chào tạm biệt? Tôi cứ đứng giữa những luống hoa như vậy cho đến khi làn da đã trở nên lạnh lẽo và phải tới khi vầng trăng càng mảnh mai hơn tối hôm trước xuất hiện, tôi mới quay trở về phòng. Vào trong phòng, tôi ủ rũ tựa khuỷu tay lên bàn, đặt vào lòng bàn tay quả đào trắng phớt hồng như màu má và đầy đặn như khuôn cằm, rồi nhẹ nhàng đặt môi lên như thể bao bọc lấy nó. Khi tôi hít vào trong lồng ngực mùi thơm ngọt ngào tỏa ra từ làn da mỏng manh của quả đào, những giọt nước mắt nóng hổi lại rơi.
[1] Một loại quả thuộc họ chanh.
[2] Chinju no yashiro: Ngôi đền được xây dựng để bảo hộ và mang lại sự bình an cho một khu vực. Đền thường được lập ở trong rừng.
HẾT