- 2 -
9
Một phần vì hoàn cảnh, một phần vì tính cách, nên tôi thường hay ưu tư. Nhưng tôi có một niềm an ủi không gì sánh được, đó là vẽ. Tôi có một cuộn tranh vẽ mẫu do bố cho. Ông nói đó là quà tặng của ông chủ, vốn là người rất giỏi hội họa theo Điểu Phái[1]. Tôi lập tức coi nó là bảo vật quý giá nhất của mình, còn đối với bác tôi, nó trở thành một liều thuốc trị bách bệnh, giống như Chó Thần và Bò Đỏ, mà bác có thể nhanh chóng lấy ra để giúp tôi hạ hỏa và kiềm chế tính khí của mình. Cuộn tranh là một tập hợp của những thứ xinh đẹp, được trình bày bằng những hình ảnh xinh đẹp, trong thiên nhiên kỳ diệu, chẳng hạn những con diệc bạch, đàn sếu, hàng thông, và cảnh bình minh. Chỉ cần mở nó ra, trái tim vốn trống rỗng vì sự đầu độc của những giấc mơ và niềm khao khát không thể bày tỏ lập tức trở nên tràn đầy.
Tuy vậy, khi ấy tôi đã không còn thỏa mãn với việc chỉ ngồi ngắm tranh. Mặc dù biết rất rõ rằng anh tôi sẽ không vui cho nổi bởi vì anh ghét những chuyện như thế này nhất, nhưng tôi vẫn xoay sở tìm cách để người nhà mua cho mình một bộ vẽ rẻ tiền - một chiếc hộp màu xanh thẫm làm bằng thứ bìa cứng thứ phẩm, bên trong chỉ có khoảng tám lọ thuốc màu và một cây cọ vẽ, ở phía trên gắn hình một con sư tử đang nhảy. Chị tôi cho thêm một hộp rửa cọ, và thế là tôi bắt đầu tập vẽ. Ban đầu, tôi trực tiếp tô các hình ảnh trong những cuốn truyện tranh, và sau đó là chép những hình ảnh đơn giản từ cuốn tranh mẫu. Tuy nhiên, bởi vì không có người dạy trong khi tôi chỉ khép mình trong phòng riêng, nên tôi gặp vô vàn rắc rối, có những sai lầm mắc đi mắc lại bởi vì tôi phải tự mình tìm ra cách vẽ, cách tạo màu. Dẫu vậy, đối với tôi tất cả là một quá trình sáng tạo tự do không cùng. Liệu vị Chúa của người Do thái khi sáng tạo ra muôn loài có thể tận hưởng sự thỏa mãn như tôi khi vẽ được một chú chim, một bông hoa không nhỉ? Đôi khi, chỉ cần tạo ra được màu cam bằng cách trộn màu đỏ với màu vàng cũng khiến tôi nhảy cẫng lên vì sung sướng rồi.
Đúng như dự đoán, anh tôi không hề vui vẻ gì với chuyện này. Có những lần tôi vừa dựng bức tranh mình vừa vẽ tốt lên bàn và chiêm ngưỡng nó thì anh tôi đi qua giật nó xuống. Nhưng điều đó không nghiền nát được lòng can dảm của nhà sáng tạo tí hon này bởi vì cậu ta đang tràn đầy niềm vui và sức mạnh. Tôi thường biến tấu các chi tiết theo sở thích của mình bằng nhiều cách, chẳng hạn thay đổi màu sắc bộ kimono của một cô gái hay một nàng công chúa trong cuốn truyện tranh nào đó mà tôi dùng làm mẫu, hoặc vẽ thêm một đường phía dưới cằm hay vẽ cặp lông mày có hình dáng khác. Và, giống như một vị thần của quá khứ, tôi thường biến những tác phẩm sáng tạo trở thành đối tượng yêu thương của mình, tôi cẩn thận cất giữ chúng trong các ngăn kéo. Nhưng cùng lúc, tôi cảm thấy tức giận trước ý nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ có thể tìm được trong thế giới thực những thứ đẹp đẽ mà tôi đã tạo ra trên giấy.
Ngoài ra, tôi còn thích những bài hát học được ở trường. Dĩ nhiên, tôi không được phép hát hò khi có mặt anh trai, vì thế tôi chỉ tranh thủ những lúc anh vắng mặt. Nhất là vào những buổi đêm trời quang mây, tôi vừa thì thầm hát vừa ngước mắt lên ngắm mặt trăng mờ ảo, những khi ấy nước mắt lại dâng lên và mặt trăng bắt đầu tỏa ra vầng hào quang. Chị tôi có một người bạn có giọng hát rất hay, thi thoảng chị ấy đến nhà và dạy tôi hát. Mặc dù ở lớp tôi là học sinh giỏi nhất, nhưng trước giọng hát dịu dàng của chị ấy, tôi lại trở nên rụt rè và chỉ dám nhỏ giọng hát theo. Nơi chúng tôi ngồi hát là bên cạnh khung cửa sổ cao ngang khuỷu tay, cũng là nơi trước đây tôi thường chơi với O-Kei-chan. Nhiều đêm, lá của cây ngô đồng xào xạc trong gió, côn trùng cất tiếng kêu, và một đàn diệc đêm bay qua để lại trong không trung những tiếng kêu dông dài...
[1] Một trường phái hội họa ở Nhật Bản.
10Môn học ở trường mà tôi ghét nhất là môn đạo đức. Ở các lớp lớn, người ta không treo tranh cuộn mà sử dụng sách giáo khoa. Nhưng không hiểu vì sao cuốn sách này lại có bìa trông bẩn thỉu, hình minh họa kỳ quặc, và cả giấy lẫn chất lượng in đều thô ráp và xấu xí. Nói tóm lại, đó là một cuốn sách tồi tàn, nó khiến bạn cảm thấy rờn rợn mỗi khi cầm nó lên. Những câu chuyện trong đó còn tệ hơn nữa, tất cả chỉ xoay quanh những chuyện như một người con trai có lòng hiếu thảo vô bờ được ông chủ tặng thưởng hay một người trung thực trở nên giàu có - rất cả đều được kể một cách thô thiển, thiếu sự tinh tế. Trên hết, giáo viên hoàn toàn không có khả năng gì ngoài việc bổ sung những lời giải thích thực tế, hiểu theo nghĩa cơ bản nhất của từ này. Hệ quả là, môn đạo đức không chỉ hoàn toàn thất bại trong việc biến tôi trở thành người tốt tính mà thậm chí nó còn tạo ra kết quả ngược lại. Kể cả khi xét từ thế giới quan hạn hẹp mà một đứa trẻ 11-12 tuổi từng trông thấy, nghe thấy, hay từng đích thân trải qua, tôi cũng khó mà có thể tin tưởng vào những câu chuyện này. Tôi nghĩ sách đạo đức là thứ gạt người. Vì thế, trong tiết học đáng sợ này, mặc dù thầy giáo ra quy định rằng học sinh hư sẽ bị hạ điểm hạnh kiểm, tôi lại cố tình cư xử tồi tệ hết sức nhằm thể hiện sự bất mãn trong lòng - tôi dùng tay chống cằm, nhìn ngó xung quanh ra chiều mất tập trung, ngáp ngắn ngáp dài, hay khẽ rên hừ hừ trong miệng.
Kể từ khi đi học, tôi đã được dạy về hai từ “hiếu thảo[1]” hàng triệu lần. Tuy nhiên, suy cho cùng, kiểu hiếu thảo đó là dựa trên lòng biết ơn, rằng chúng ta cảm thấy vô cùng hạnh phúc khi được trao cho sinh mệnh theo cách này và tiếp tục cuộc sống theo cách này. Nhưng quan điểm này có thể tác động ra sao đến tôi chứ, khi mà ngay từ nhỏ tôi đã bắt đầu cảm nhận được những nỗi đau đớn của cuộc sống? Vì muốn biết nguyên do một cách rõ ràng, có lần tôi đặt ra câu hỏi như sau về lòng hiếu thảo, cũng là vấn đề mà tất cả mọi người đều chấp nhận vô điều kiện và không dám đụng chạm tới như thể nó là một khối áp-xe vậy.
“Thưa thầy, vì sao người ta phải thể hiện lòng hiếu thảo?”
Thầy giáo tròn mắt ngạc nhiên. “Bởi vì khi đói trò có thể ăn, khi ốm có thể uống thuốc, đó là nhờ công lao của bố mẹ,” thầy nói.
“Nhưng mà em không muốn sống cho lắm.”
Thầy càng tỏ ra không vui hơn. “Bởi vì nó còn cao hơn núi và sâu hơn biển[2].”
“Nhưng lòng hiếu thảo của em còn lớn hơn thế nhiều trước khi em biết những điều như vậy.”
Lần này thầy giáo thực sự nổi giận. “Những ai hiểu về lòng trung thành, giơ tay lên nào.”
Ngay lập tức, đám hề giơ hết tay lên và thô lỗ nhìn tôi trừng trừng trong khi tôi cũng đang tức giận không kém trước chiêu trò vô lý này, và vì tôi không thể giơ tay nên mặt mũi đỏ bừng vì xấu hổ khi biết như thế có nghĩa là tôi là người duy nhất không hiểu. Mặc dù thất vọng nhưng tôi không biết nói gì thêm nữa và đành im lặng. Từ sau lần đó, thầy giáo luôn vận dụng cách làm hiệu quả này để chặn lại mọi thắc mắc của tôi. Về phần mình, để tránh bị bẽ mặt, tôi bắt đầu không đi học vào những hôm có tiết đạo đức.
[1] Học giả-nhà văn Chu Tác Nhân (đề cập ở phần mở đầu) đã dịch phần này (và phần nói về cuộc chiến tranh Nhật-Thanh) sang tiếng Trung Quốc bởi vì cũng giống Naka, ông có thành kiến mạnh với khái niệm “lòng hiếu thảo”. Khi viết về đề tài này, ông nhất trí với sử gia nghiên cứu về châu Á Naitö Torajirö (1866-1934) rằng quan niệm về “lòng hiếu thảo” và “lòng trung thành” không phải là quan niệm cố hữu của người Nhật, đó là sự ảnh hưởng tai hại của Nho giáo. Trong bài viết về “vẻ đẹp nhân tính của Nhật Bản”, Chu Tác Nhân nhận định: “Sự cổ xúy không ngừng về lòng trung thành và lòng hiếu thảo không những đã tạo ra vô số bi kịch cho các cá nhân người Nhật Bản, mà nó còn là lý do chính khiến họ bị biến thành đối tượng bị thù ghét.”
[2] Một câu trong một cuốn sách giáo khoa dành cho trẻ em xuất bản từ năm 1658. Câu đầy đủ là: “Món nợ của con đối với bố còn cao hơn núi; lòng mẹ sâu hơn biển.”
11Một buổi tối, có người đột nhiên rủ tôi tới chùa Thiếu Lâm chơi, và tôi đồng ý. Trong chùa có một cậu bé tên là Sada-chan, kém tôi một tuổi và học dưới tôi một khóa, và mặc dù có trông thấy và có biết cậu ấy, nhưng tôi vẫn chưa có cơ hội làm quen và cũng không có mong muốn ấy. Bởi vì đây là lần đầu tiên làm như vậy, nên tôi bước qua cánh cổng lớn không lắp cửa trong tâm trạng rất hồi hộp và hiếu kỳ. Chúng tôi đi tới chỗ cây xoài cạnh một cái giếng mà tôi nhớ trước đây từng nhìn thấy và thay phiên nhau gọi Sada-chan cho đến khi cậu ấy lạch cạch mở cánh cửa dẫn vào tiền sảnh bên trong và đưa chúng tôi tới phòng ăn.
Với một vị khách bất ngờ là tôi, gia đình Sada-chan mang ra một cây đèn treo mà họ cất đi để dùng cho những dịp như thế này. Đó là một mẫu đèn cũ đặt trong một hộp thủy tinh vuông hiếm gặp ngay cả hồi ấy. Dưới ánh sáng rạng rỡ mà chiếc đèn tỏa ra bốn phía, chúng tôi mê mải chìm vào những trò chơi như cờ tướng và đi bằng xúc xắc[1]. Tôi vẫn nhớ điểm khởi đầu của trò xúc xắc có bức vẽ hình ảnh một người bán cá ngừ ở cầu Nihon, và cả nhà Sada-chan đã bật cười khi tôi đọc các chữ cái của từ Goyu[2] là o-abura. Đây là buổi tối đầu tiên tôi từng chơi, và tôi cũng rất vui khi thấy gia đình Sada-chan chơi cùng, họ rất vui vẻ và rõ ràng là rất thích trẻ con. Mặc dù mới gặp họ lần đầu tiên, nhưng tôi nhanh chóng trở nên hứng thú khi chơi cùng họ.
Quả thực, vì lý do sức khỏe mà trong số các anh chị em, tôi là người được cả nhà chiều chuộng nhất và cách cư xử của tôi rất hư. Tuy nhiên, mặc dù lo lắng về tất cả những hạn chế được dựng lên ở khắp nơi, nhưng bất luận tôi làm gì - đi bộ, hít thở, ngồi, hay nằm xuống ngủ - tôi cũng chưa từng được chơi theo cách mà một đứa trẻ nên chơi và cũng không có chỗ chơi. Vì thế, đối với tôi, không gian bên trong cánh cổng không lắp cửa ấy trở thành một cõi tự do mà tôi còn nhớ mãi. Sau chuyến thăm đầu tiên này, cứ cách ba ngày hay thậm chí còn chưa đến ngày thứ ba, tôi lại sang đó chơi. Quả thực, trên cương vị là nơi mà một đứa trẻ không giống trẻ con - bởi vì nhiều lý do khác nhau mà đánh mất rất nhiều điểm đặc trưng của một đứa trẻ bình thường, chẳng hạn sự ngây thơ và vui vẻ - có thể tận hưởng những khoảnh khắc hân hoan đến quên mình giống như một đứa trẻ thực sự; trên cương vị là nơi mà một đứa trẻ buồn bã, sống khép mình có thể lưu giữ những kiến thức non nớt về thiên nhiên vốn chỉ được hiển thị dưới ánh sáng mặt trời; và trên cương vị là nơi mà tôi có thể nuôi dưỡng và phát triển một tính cách nội tại cho mình - thứ tính cách mà trong mắt anh trai tôi là điều ô nhục - để rồi định hình nên con người tôi sau này, thì khuôn viên chùa Thiếu Lâm có một ý nghĩa đặc biệt đối với tôi.
Trước đây, các phụ tá của chế độ Mạc phủ thường xuyên lui tới ngôi chùa này, và trong các bức tranh giới thiệu về Edo đều có nói. Nhưng sau cải cách, hầu hết những con người ấy đều đã tản mác mỗi người một nơi, và một số ít ỏi còn ở lại cũng trở nên nghèo khó hơn. Vì thế, ngôi chùa cũng lâm vào cảnh khó khăn ngoài dự kiến và mỗi năm một xuống cấp hơn. Nhưng dù sao nó vẫn giữ lại được phần lớn những đặc điểm như ngày tôi bé còn ngồi trên lưng bác theo tới đây: con công trên bức bình phong ở tiền sảnh vẫn kiêu ngạo rủ bộ đuôi lộng lẫy của mình, và xung quanh những đóa mẫu đơn đang thi nhau nở hoa, những con bướm vẫn tiếp tục vờn quanh nhảy múa như chưa hề bị ám ảnh bởi những giấc mơ trong quá khứ.
Đi qua dãy cây táo gai Trung Quốc cao cao làm hàng rào rẽ về bên tay trái là khu bếp. Nhìn sang bên phải là sân trong có các luống hoa, mấy vạt dâu, và những cây cổ thụ sum suê đổ bóng tản mác xuống đất. Nếu lại rẽ phải tiếp theo hình chữ L, ta sẽ thấy ở một góc của khu vườn thuộc chính điện day mặt về phía tây có một cây thông đen lớn với bộ rễ sần sùi lan tới tận giữa vườn và những cành thông vươn ra mọi hướng, khiến cho trở thành tán ô trời màu xanh trong mắt của hàng trăm nhà sư hành hương, và trong mắt chúng ta là nơi trú ẩn khỏi những cơn mưa rào buổi chiều và là nơi râm mát để trốn tránh cái nắng oi ả của mùa hè. Những cây cải trắng và cải dầu nở hoa ở vạt rau trồng trên bờ dốc phía dưới. Và giữa đám lặc lè cùng dây rau chua chằng chịt là một cái giếng cũ, từ lòng giếng thi thoảng có đàn muỗi bay lên bám lấy người. Từ phía sau cây thông đen, nếu đi theo con đường nhỏ hẹp ngoằn ngoèo trên bờ đê mọc đầy những bụi tre kumazasa, ta sẽ trông thấy một vùng đất rộng rãi ở hướng bắc, đây là một nghĩa trang trồng rất nhiều cây hạt dẻ. Tất cả đều được chôn vùi dưới hoa, lá, và quả của những cây hạt dẻ này, và trên những tấm bia đá đã hoen ố thành màu nâu, ta có thể nhìn thấy những con giun đầu búa thường xuyên bò qua bò lại.
Sada-chan là một cậu bé tốt bụng, hài hước, và cậu ấy vui vẻ làm theo mọi yêu cầu của tôi, trong khi từ trước đến giờ tôi rất ít ra ngoài chơi và hoàn toàn không biết gì về những yêu cầu cần thiết khi chơi. Vì thế cậu ấy trở thành thầy dạy hướng dẫn cho tôi, và hai chúng tôi trở thành những người bạn thân thiết.
[1] Döchü sugoroku: Một trò chơi bằng bàn với các viên xúc xắc giống trò cờ tỉ phú, nhưng ở đây mục đích là hoàn thành lượt đi trước.
[2] Trạm thứ 35 dọc Đường Tökaidö Road. Ở Nhật, việc đọc nhầm ký tự trong tên của trạm này như trường hợp mô tả ở đây là rất phổ biến.
12Vào mùa xuân, chúng tôi thường đi ra cánh đồng rộng rãi ở phía đồi để thả diều. Diều của Sada-chan là một vị Đạt ma có râu quai nón, còn diều của tôi là hình Kintarö vẽ trên một khung lưới hình vuông. Ban đầu, khi chưa thả dây, con diều hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh của bạn, nhưng khi lên cao, nó bắt đầu tỏ ra kiêu ngạo, cuối cùng đảo khách thành chủ và quay sang kiểm soát lại người chơi diều thông qua một sợi dây duy nhất, và cậu ta sung sướng ngước nhìn lên bầu trời. Nó rung rung đung đưa chiếc đuôi một cách uể oải như thể đang bơi giữa đại dương là bầu trời rộng lớn. Khi sợi dây căng lên như muốn kéo bạn đi, hay khi con diều bị thứ gì đó kích động mà bắt đầu xoay vòng vòng, bạn sẽ cuống quýt hô lên, Tha cho tao! Tha cho tao! rồi nới thêm dây từ cuộn dây cho đến khi con diều khôi phục lại tâm trạng vui vẻ.
Đẹp nhất là con diều mắt cáo sọc so le[1] với tám bộ phận mà con trai của ông chủ đội thợ xây dùng. Chiếc sáo gắn vào diều làm từ cây mây phát ra một âm thanh réo rắt vui tai trong khi phần đuôi diều phần phật bay lên, và chiếc giũa gắn vào dây giữ thăng bằng sáng lên lấp lánh. Tất cả mọi người đều ghét con diều hai bộ phận có hình Hangya[2] của một kẻ hay bắt nạt sống ở vùng dưới của thị trấn. Ý định của thằng bé này là đánh bại diều của những người khác ngay từ đầu, bởi vì diều của nó là chiếc diều chiến[3], cả đuôi cũng không có, và nó thả diều theo kiểu giật cục rất đáng sợ, còn chiếc diều phát ra âm thanh pip pip rất đáng ghê tởm qua chiếc sáo giấy. Với khuôn mặt cau có khủng khiếp hơn thường lệ khi dây giữ thăng bằng bị kéo căng, chiếc Hangya điên cuồng táp vào những con diều lân cận, và chẳng bao lâu sau đã xé toạc chúng ra bằng chiếc giũa do chủ nhân của nó mới chế tác ra.
Trước khi đi, chúng tôi thường kiểm tra để xác minh rằng không có con diều chiến nào xuất hiện cả. Sau đó chúng tôi đi, một tay cầm cuộn dây nặng chịch, tay kia là những sợi dây giữ cân bằng, còn chiếc diều giật lên giật xuống như con ngựa đua bị cuồng chân và tìm cách trốn đi. Trong số những con diều đang mạnh mẽ bay trên bầu trời mùa xuân lộng gió, chiếc Kintarö với khung bằng giấy shoji của tôi trông đặc biệt nổi bật (hoặc có lẽ do tôi tự mãn mà nghĩ thế). Trong lúc thả diều, bạn sẽ quên hết mọi thứ xung quanh. Khi những đứa trẻ khác đều đã ra về, hai người chúng tôi vẫn say sưa thả diều trên cánh đồng lúc này đã tối dần. Khi nhận thức được điều này, tôi giật mình hoảng sợ và vội vã thu dây về, nhưng chính vào những lúc như vậy, đám dây dường như lại càng căng hơn bao giờ hết, và càng căng thẳng, việc kéo diều xuống càng trở nên khó khăn hơn. Mặt trời tiếp tục lặn xuống, và tất cả những gì còn trông thấy được trên bầu trời đang mỗi lúc một sẫm màu hơn là hình ảnh đôi mắt sáng rực của Kintarö và vị Đạt ma. Mỗi người đều biết người kia nghĩ gì, nhưng vì không muốn tỏ ra yếu thế, cả hai đều cố gắng duy trì vẻ mặt phớt đời dù rằng trong bụng đang lo đến phát sốt với vô số những băn khoăn như, Mình sẽ làm gì đây nếu như đến tối vẫn không thể thu diều lại, hay, Lẽ ra mình không nên thả hết dây ra như vậy. Sau một hồi lâu chật vật, khi cuối cùng chúng tôi cũng kéo được diều xuống và quấn xong dây, nỗi lo lắng tràn ngập trong đầu đột ngột tan biến như chưa từng xuất hiện, chúng tôi nhìn nhau và phá lên cười, Ha ha ha. Tuy vậy, một trong hai người vẫn sẽ lên tiếng thừa nhận rằng: “Mới phút trước tớ còn không biết phải làm gì.”
“Đừng kể cho ai nghe chuyện này,” cả hai cùng đinh ninh hứa với nhau trước khi ra về.
[1] Döji-göshi: Một thiết kế với các dải dày và mỏng đan xen nhau.
[2] Còn gọi là hannya: Một mặt nạ dùng trong kịch nô, vẽ hình khuôn mặt phụ nữ bị biến dạng vì đau khổ, ghen tị, và giận dữ.
[3] Diều được làm để “chiến” bằng cách kéo căng dây giữ thăng bằng ở giữa để nó có thể vừa bay vừa giật mạnh. Chiếc diều loại này có thể di chuyển nhanh chóng.
13Hè đến, chúng tôi tiêu phí cuộc sống vô lo của mình bằng cách bắt ve. Bởi vì dùng bẫy chim sẽ làm hỏng cánh của chúng, nên chúng tôi lấy một chiếc gậy, buộc một gói đựng đường ở đầu gậy rồi từ vườn nhà đi tới nghĩa trang để tìm ve. Xung quanh có rất nhiều cây, nên chỉ cần đi một chuyến là chúng tôi thấy vô số. “Ve chiên dầu[1]” chỉ biết ồn ào mà hình dáng lại không đẹp, nên bắt chúng cũng không có gì thú vị. “Ve min min[2]” béo tròn và có tiếng kêu hài hước. “Ve tu sĩ[3]” có giọng hát hay; hơn nữa, nếu bạn đuổi chúng, chúng sẽ chạy rất nhanh như thể hai bên là kẻ thù của nhau vậy. Với “ve hoàng hôn[4]” thì không thể làm gì được. “Ve câm[5]” dù có giãy dụa trong túi bạn cũng không kêu lấy một tiếng, khiến bạn thất vọng.
Ngoài ra, vào từng mùa chúng tôi còn đi từ cây ăn quả này tới cây ăn quả khác như chim kiếm mồi. Sau khi cây mận rụng xuống những bông hoa màu xanh nhạt, chúng tôi nôn nóng chờ nó ra quả và phình to ra từng ngày, từ lúc chúng chỉ to cỡ hạt đậu cho đến khi lớn bằng quả trứng chim sẻ, rồi bằng trứng bồ câu và có màu phớt vàng, rồi phớt hồng như màu má, khi ấy các cành cây cũng bắt đầu bị kéo thấp xuống đất. Sau đó, mặc dù bạn biết mình sẽ được phép ăn “miễn là đừng có để bị đau bụng đấy,” nhưng bạn vẫn âm thầm và liên tục hái quả xuống ăn cho đến khi ợ ra mùi mận. Dù bạn ăn nhiều như vậy nhưng mận vẫn không hết, và những quả chín quá sẽ chuyển sang màu tím cùng với những vết lốm đốm. Lũ quạ sẽ đến ăn chúng, vừa mổ vừa lắc lắc cái đuôi ra điệu ghét bỏ.
Thứ mà chúng tôi trông chờ là hạt dẻ chín cây. Một đứa cầm cây gậy tre, đứa kia mang giỏ đựng, rồi cả hai đi tới nghĩa trang “với cặp mắt diều hâu.” Thật vui khi tìm thấy những quả chín như thể chúng sắp rụng xuống như hạt sương. Bạn lấy đầu gậy gõ nhẹ vào quả, và chúng sẽ lúc lắc như lời mời chào vô cùng ngon miệng. Thế là bạn đập thật mình. Những hạt dẻ rơi xuống. Bạn chạy lại nhặt chúng lên và ăn ít nhất một trong ba quả để thử. Những quả dâu. Những quả hồng vàng.
Mận yusura và táo ta không ngon lắm, nhưng vì tham lam vô độ mà bạn không chừa lại dù chỉ một quả trên cành. Cây mộc qua trổ hoa đẹp dịu dàng khác với thân cây xù xì, và ra quả xù xì khác với hoa. Quả khi rụng xuống chỉ kêu độp độp, và mặc dù có mùi dễ chịu nhưng quả lại sần sùi, hơn nữa chúng còn cứng như đá vậy, răng trẻ con không thể là đối thủ của chúng.
Những luống hoa nằm rải rác ở nhiều nơi trong khu vườn rộng lớn và cây cối mọc khắp nơi không bao giờ ngừng trổ hoa, mỗi loài tùy theo mùa mà nở rộ. Hoa loa kèn, hoa hướng dương, cúc mắt bò, cúc bách nhật, hoa dền. Hoa của cây cọ gai dầu trông giống hệt chùm trứng cá.
Vào đầu mùa hè, quang cảnh thiên nhiên ở khu vườn này khiến tôi yêu thích nhất. Thời tiết cuối xuân làm người ta cảm thấy ngột ngạt vì sương mù và bồn chồn không yên - gió nam và gió bắc thay nhau thổi, trời không lạnh, không nóng, ban ngày trời không quang, và không có cơn mưa nào kéo dài. Khi mùa đó qua đi, đất trời trở thành lãnh địa của mùa hè sớm sủa, trẻ trung, và rực rỡ. Bầu trời trở nên trong suốt như nước, ánh nắng mặt trời tràn trề khắp nơi, những làn gió mát thổi qua, những bóng râm lay động, và ngay cả cây thông đen u tối dường như trông cũng sáng sủa lạ thường. Lũ kiến làm tổ ở khắp nơi, những con côn trùng có cánh từ trong tổ bay ra rầm rộ như thể toàn bộ thế giới này là của chúng, những con nhện con đáng yêu bắt đầu nhảy múa dưới các cành cây, các mái hiên nhà. Chúng tôi dùng bấc nến khều ấu trùng ra, lấp tổ của lũ ong bắp cày và lắng nghe âm thanh chói tai của chúng, tìm xác ve, hay đi loanh quanh chọc đám sâu bướm. Tất cả mọi thứ đều thật trẻ trung, vui vẻ, và sống động. Không có gì để mà ghét bỏ cả.
Vào những lúc như vậy tôi thích đứng dưới bóng râm gần như bóng tối của cây thông đen mà nhìn về phía những ngọn núi xa xa đang lặng lẽ tối dần. Tôi có thể trông thấy những cánh đồng lúa xanh xanh, khu rừng, tôi có thể nghe được âm thanh của guồng nước và tiếng ếch kêu mà những làn gió mang tới bên tai. Và từ chỗ đám cây trên ngọn đồi phía trước, một tiếng chuông vọng đến nơi tôi đứng nghe thật rõ ràng, trong trẻo.
Hai đứa chúng tôi thường đứng xem một đàn diệc đêm uyển chuyển vỗ cánh bay dưới mặt trời buổi chiều muộn vẫn còn nán lại trên bầu trời và hát, “Ánh sáng buổi chiều tà, thật rực rỡ thật đáng yêu”. Thi thoảng một con diệc trắng cũng xoải chân lướt qua.
[1] Abura-zemi (Graptopsaltria nigrofuscata): Một chi trong loài ve, có cánh trong suốt. Tên gọi “ve chiên dầu” xuất phát từ việc tiếng kêu của nó nghe giống âm thanh khi chiên dầu trên chảo.
[2] Minmin-zemi (Oncotympana maculaticollis): Một chi trong loài ve. Tên gọi này là từ tượng thanh mô phỏng tiếng kêu của nó.
[3] Höshi-zemi (Meimuna opalifera): Một chi trong loài ve. Tên gọi này bắt nguồn từ Trung Quốc.
[4] Higurashi (Tanna japonensis): Một loài ve có tiếng kêu trong trẻo rất được ưa thích, thường kêu vào sáng sớm và chiều muộn.
[5] Oshizemi: Ve cái, loài này không kêu.
14Trong khi làn sương mù nhiệt bàng bạc đang bao bọc những bông hoa trong những giấc mơ ấm áp và khiến chúng nở nụ cười tươi rạng rỡ, thì giống như nữ vương của đất nước mơ mộng này, những đóa mẫu đơn nở rộ ở khắp nơi trên những luống hoa với đủ màu sắc, nào là màu trắng, đỏ tươi, hay màu tía. Và cũng như trong những giấc mơ, những con bướm đủ mọi hình dáng rập rờn vờn quanh những bông hoa, còn lũ bọ rùa đốm khắp người phủ đầy phấn hoa thì đang phát cuồng vì mật. Vào khoảng thời gian này, cánh cửa trượt của chiếc am nằm biệt lập một góc vốn quanh năm hầu như đóng chặt và im lìm nay bỗng nhiên mở ra, từ ngoài nhìn vào có thể thấy một vị sư già đang ngồi đặt tay trên tay vịn của ghế. Ở phía trước am có trồng một cây mẫu đơn già mà ông rất mực trân quý, lúc này những đóa hoa mẫu đơn màu phớt hồng đang nở bung, cánh hoa trĩu nặng mùi hương. Nhìn từ chính điện, chiếc am này nằm ở quá cây cầu cong bắc ngang qua một khoảng sân trong hẹp. Dưới mái hiên tràn ngập ánh sáng là một cây thu hải đường khỏe mạnh. Ở lề đường đi mé tay trái là một cây hồng có lá màu xanh thẫm và ở lề bên tay phải là một cây tuyết thơm, cả hai đều phủ xuống bóng mát. Vị sư già năm ấy đã bước sang tuổi 77, ông sống khép mình ở đó và rất mực yên lặng, ngoại trừ hai khóa đọc kinh sáng và chiều. Phán đoán dựa theo mùi hương thi thoảng theo những khe hở thoát ra ngoài, chúng tôi chỉ biết rằng trong am có một người sống tĩnh lặng như đá. Cũng có khi ông rung chuông nghe giống tiếng kêu của con ve hoàng hôn để báo người pha trà giúp. Nếu không có ai nghe thấy tiếng chuông, ông sẽ cầm một tách trà như thể đang bưng chiếc bát khất thực nhỏ rồi chậm chạp bước lên cầu để tới nơi lấy trà.
Có khi ông được mời đi tham dự một buổi lễ nào đó, những lúc ấy ông sẽ ra ngoài một mình, chiếc mũ trùm đầu được kéo hếch lên, một bên tay cầm tràng hạt, và tay kia chống gậy. Trông thấy ông ăn mặc đơn sơ như vậy, không ai có thể nghĩ rằng cũng chính người này, khi khóa lễ yêu cầu, sẽ mặc một chiếc áo cà sa màu đỏ. Thực ra, ông sống cách biệt với thế giới này một cây cầu, tĩnh tại và dửng dưng như thể ông không biết bất kỳ điều gì ngoại trừ một điều duy nhất rằng, khi mùa hè đến, những cây mẫu đơn sẽ nở hoa. Không lâu sau, mặc dù vẫn còn là một đứa trẻ, nhưng tôi dần trở nên sùng kính vị sư già và bắt đầu nghĩ đến chuyện tìm đến ông nhờ giúp đỡ. Khi đó tôi đã khá quen thuộc với những người sống trong ngôi chùa, và dù Sada-chan có nhà hay không, hầu như ngày nào tôi cũng qua đó để chơi và chống tay bên hông đi dạo quanh vườn như một ông cụ hay đi một vòng tới nghĩa trang lạnh lẽo - thi thoảng tôi còn bật khóc vì chợt nghĩ đến số phận của những người khác hay số phận của chính mình... Tôi có thói quen vừa đi vừa cúi gằm mặt nhìn xuống chân và đăm chiêu suy nghĩ, lúc ấy tôi cảm thấy mình giống như một tù nhân đang bị xiềng chân và xấu hổ vì sự xuất hiện của mình.
15Một hôm, khi Sada-chan không có nhà và tôi vẫn đến chùa tự chơi, tiếng chuông “ve hoàng hôn” quen thuộc vang lên từ am nhỏ biệt lập. Chỉ là, tiếng chuông ấy đã xuất hiện đúng thời điểm, bởi vì không có ai ở trong nhà ăn cả. Vì thế tôi lấy hết can đảm để tự tiến về phía am. Trong căn phòng mờ tối ở ngay chân cầu có một cái mắc áo để treo đồ như chiếc áo thụng và tràng hạt, và trong không khí phảng phất mùi trầm hương. Tới đó, tôi đột nhiên thấy bồn chồn và ngập ngừng. Vì nặng tai nên có lẽ vị sư già không nghe thấy tiếng bước chân tôi, bởi vì ông lại rung chuông lần nữa. Cuối cùng, tôi đẩy cánh cửa trượt và đặt hai tay lên chiếc chiếu tatami. Ông cứ thế đưa ra một chiếc bát lớn, nhưng khi trông thấy tôi, ông nói, “Ôi, chà, ôi chà.”
Mí mắt tôi giật giật, tôi cúi đầu chìa tay nhận chiếc bát, rồi trong tâm trạng xấu hổ hoặc vui sướng như thể một điều ước lớn lao vừa được đáp ứng, tôi chạy ra nhà ăn rót trà bancha vào bát như cách tôi từng trông thấy người ta làm, và mang bát quay trở về am. Cây cầu đã mục nát và đung đưa, khiến tôi suýt làm đổ trà. Khi tôi cúi đầu đưa bát cho ông, ông lại nói, “Ôi, chà, ôi chà.”
Tôi lặng lẽ khép cánh cửa trượt, thở phảo một hơi rồi đi qua cầu quay trở về chỗ cũ. Sau lần đó, thi thoảng tôi lại tới chỗ của vị sư già, nhưng mặc dù niềm hy vọng duy nhất của tôi chỉ là tìm cơ hội để nói chuyện với ông, một lần tôi đứng trước ông mà lại lúng búng không biết nói gì. Tôi chỉ yên lặng nhận chiếc bát, yên lặng mang nó trở lại, và chạy đi. Ông cũng chỉ lặp đi lặp lại câu nói “Ôi, chà, ôi chà” như thể ông là một con cú hoặc thứ gì đó và chẳng buồn nói chuyện với tôi. Một lần, trong lúc tôi đang cầm chiếc bát sơn màu đen của ông đi ngang qua cây cầu, một con chim chào mào đang ăn quả nam thiên trúc ở gần đó đột ngột vội vàng vỗ cánh bay lên, khiến tôi làm đổ trà. Cũng có những dịp khác, vào những buổi tối sáng trăng, những bông hoa sà xuống cây cầu. Mặc dù đã đi qua đi lại cây cầu này rất nhiều lần, nhưng tôi vẫn không có cách nào bắt chuyện được với vị ẩn sĩ tựa như một cái cây chết này. Tuy nhiên, một lần, khi tiếng chuông quen thuộc lại vang lên lần nữa, tôi lại tới lấy bát và mang về đặt trước mặt ông như thường lệ rồi chuẩn bị rời đi, thì đột nhiên ông gọi với sau lưng tôi.
“Ta sẽ vẽ cho cháu. Hãy mua ít giấy mang đến đây.”
Cảm thấy như thể mình bị một con cáo đánh lừa, tôi mua giấy tàu và mang đến đặt trước mặt ông. Ông đứng dậy khỏi chiếc ghế nơi ông vẫn hay ngồi như bám rễ, và dẫn tôi tôi sang căn phòng kế bên sáng sủa hơn. Mọi thứ trong căn phòng này đều có màu nâu bồ hóng và trên tường có treo một bức thư pháp đóng khung viết chữ Đại Xuân[1]. Vì phải ngồi gần ông hơn thường lệ, nên cả người tôi đổ mồ hôi ngay cả trong lúc đang quan sát kỹ lưỡng - như thể đang được xem một điều gì đó thật bí ẩn - mọi cử động của người mà trước đó tôi vẫn nghĩ là ông chỉ rung chuông đến hết đời và bất động như một bức tượng Phật bằng đá.
Vị sư già lấy ra một cái nghiên lớn rồi bảo tôi mài mực, sau đó ông cầm lấy cọ vẽ và vẽ một quả mướp hương với dáng vẻ thuần thục, dễ dàng: một chiếc lá, một cành dây leo, và một quả mướp hương. Bên trên ông viết:
Coi thế giới này không hơn gì một quả mướp hương, tôi vẫn không thể kiếm sống, cứ mãi lửng lơ[2]
Sau đó ông vẽ thứ gì đó trông giống như chiếc ấm đun nước, rồi ngắm nghía bức tranh từ mọi hướng khác nhau, và đột nhiên ông bật cười - tiếng cười vang vọng nhưng khô khan.
“Bây giờ, ta tặng cháu bức này. Hãy mang nó đi đi.”
Nói rồi ông cất nghiên mực lên giá, đi rửa cọ vẽ, và nhanh chóng quay trở lại kim cương tọa[3] quen thuộc để biến mình thành một pho tượng Phật bằng đá như thường lệ. Giống như chú khỉ bị ngã khỏi cành cây, tôi tiu nghỉu mang bức tranh vẽ quả mướp hương ra về.
Khoảng ba năm sau, vị sư già qua đời. Tôi lên sơ trung, còn Sada-chan cũng rời nhà để đi ở cho nhà người khác, vì thế sợi dây liên hệ của tôi với ngôi chùa cũng dần dần bị chặt đứt. Nhưng đột nhiên một hôm có người tới thông báo vị sư già vừa mất, vì thế tôi theo bố đi viếng. Người ta nói với chúng tôi rằng ông không mắc bệnh, chỉ là đã sống hết tuổi thọ mà thôi. Trong những ngày cuối cùng của ông, các học trò trước đây, bây giờ đã trở thành những vị sư sinh sống ở nhiều ngôi chùa khác nhau, thay phiên nhau tới chăm nom. Sau một khoảng thời gian dài, tôi lại bước đi trên cây cầu lưu giữ nhiều kỷ niệm. Chiếc am nhỏ cô quạnh dày đặc khói hương, nhiều vị sư mà tôi từng quen mặt trong những buổi cầu kinh Đại Trí Tuệ đang tụ tập ở đó trò chuyện với nhau. Trong chiếc ghế dùng cho các dịp tế lễ ở căn phòng nơi ông từng ngồi vẽ quả mướp hương cho tôi, vị sư già ngồi tĩnh tọa, hai chân xếp lại, trên người khoác một bộ áo thêu kim tuyến vàng, một tay cầm cây phất trần, trông ông vẫn giống hệt pho tượng Đức Phật bằng đá như xưa. Và cũng giống như ngày xưa, tôi đến trước mặt ông, cúi đầu, và dâng hương. Vị sư đầu gồ ghề mà ngày trước chúng tôi đặt cho biệt danh là Abbot Henjö[4] đang ăn bánh mỳ chợt gật gù nói, “Thật là một sự tái sinh tuyệt vời, thật là một sự tái sinh tuyệt vời.” Tôi lại càng cảm thấy mình giống chú khỉ vừa bị ngã khỏi cành cây hơn.
[1] Đại Xuân: Hình ảnh ẩn dụ chỉ sự trường thọ. Theo Trang Tử: “Thời thượng cổ có một cây xuân lớn, lấy 8000 năm làm mùa xuân, lấy 8000 năm làm mùa thu.”
[2] Một bài thơ được cho là của thiền sư Ikkyü (1394-1481).
[3] Nơi Phật Thích Ca ngồi khi thành đạo.
[4] Tên một vị thiền sư.