Chương 14 Những nguyên tố nghệ thuật
Khi khoa học ngày càng trở nên phức tạp, các chi phí đi kèm cũng sẽ tăng theo. Từ đó, tiền, rất nhiều tiền bắt đầu quyết định cách thức, thời điểm cũng như sự tồn vong của lĩnh vực này. Ngay từ năm 1956, tiểu thuyết gia người Anh gốc Đức Sybille Bedford đã chiêm nghiệm được rằng* thời điểm “con người có thể dễ dàng nắm bắt các quy luật của vũ trụ trong nhà xưởng được dựng sau chuồng ngựa” đã trôi qua từ rất lâu.
Tất nhiên rất ít người – chủ yếu là các quý ông giàu có – đủ khả năng xây dựng một nhà xưởng nhỏ để nghiên cứu khoa học trong thế kỷ 18 và 19 mà Bedford nhắc đến. Chắc chắn không phải là sự trùng hợp khi những người khám phá ra các nguyên tố mới thường thuộc tầng lớp quý tộc, vì chẳng ai ngoài họ đủ rảnh để ngồi một chỗ tranh luận về thành phần tạo nên những tảng đá cả.
Bạn có thể dễ dàng nhận ra dấu ấn của tầng lớp quý tộc lưu lại trên bảng tuần hoàn mà không cần có kiến thức về hóa học. Tầng lớp quý tộc châu Âu đều nhận được nền giáo dục nặng gốc Hy Lạp – La Mã, và tên của các nguyên tố như ceri, thori, prometi đều bắt nguồn từ các huyền thoại cổ xưa. Những cái tên thực sự ngộ cũng vậy: praseodymi, molypden và dysprosi là sự pha trộn của tiếng Latin và tiếng Hy Lạp. Dysprosi nghĩa là “nguyên tố nhỏ ẩn dật”, do việc tách nó ra khỏi các nguyên tố anh em không hề dễ. Praseodymi nghĩa là “người anh màu lục” vì những lý do tương tự (nửa còn lại là neodymi, nghĩa là “người em mới mẻ”). Đa số tên của các loại khí trơ nghĩa là “người lạ” hoặc “không hoạt động”. Ngay cả những người Pháp kiêu hãnh đến tận những năm 1880 cũng không chọn “France” (nước Pháp) và “Paris” để đặt tên nguyên tố mới, mà lại dùng các tên cổ xưa tương ứng là “Gallia” (gali) và “Lutetia” (luteti), như thể muốn nịnh bợ Julius Caesar vậy.
Ngày nay, chuyện này dường như rất lạ – rằng các nhà khoa học lại giàu kiến thức về cổ ngữ hơn là, ờ, khoa học – nhưng trong nhiều thế kỷ trước, khoa học chưa phải là sự nghiệp mà chỉ là một thú vui* cho những kẻ nghiệp dư (giống như việc sưu tầm tem). Khoa học chưa được toán học hóa nên vẫn còn dễ tiếp cận, và một quý tộc tầm cỡ như Johann Wolfgang von Goethe có thể chen chân vào thảo luận khoa học, dù đủ tiêu chuẩn hay không.
Ngày nay Goethe được nhớ đến như một tác gia có sức ảnh hưởng và khả năng truyền tải cảm xúc chỉ kém Shakespeare. Ngoài sự nghiệp văn chương, ông có vai trò chính trường mạnh mẽ và tham gia các cuộc tranh luận chính sách ở hầu hết mọi lĩnh vực. Nhiều người vẫn xếp ông là người Đức vĩ đại nhất, thông thái nhất lịch sử. Nhưng phải thừa nhận, ấn tượng đầu tiên của tôi về Goethe là ông hơi... khốn nạn.
Một mùa hè nọ, khi còn học đại học, tôi làm việc cho một giáo sư vật lý không bao giờ thiếu chuyện hay để kể nhưng luôn thiếu các dụng cụ cơ bản như dây cáp điện. Điều đó nghĩa là tôi phải đến phòng thiết bị của khoa ở tầng hầm để xin. Tay “quản hầm” là một người đàn ông nói tiếng Đức. Để phù hợp với công việc kiểu Quasimodo này 1 , ông thường không cạo râu, để tóc dài ngang vai và xoăn lại, cánh tay rộng và khuôn ngực lớn khiến ông dường như cao hơn chiều cao thực.
1 . Nhân vật thằng gù ở nhà thờ Đức Bà trong tiểu thuyết của Victor Hugo. (BTV)
Tôi luôn run mỗi khi gõ cửa, không biết phải nói gì khi ông nheo mắt lại và hỏi với vẻ giễu cợt: “Ông ấy khônk có zợi dây cáp lào ư?”.
Mối quan hệ của chúng tôi đã được cải thiện trong học kỳ tiếp theo khi tôi tham gia một khóa học (bắt buộc) mà ông đồng giảng dạy. Đó là một khóa thí nghiệm; đồng nghĩa với việc lắp ráp và đấu nối đơn điệu buồn chán, và trong khoảng “thời gian chết” đó, chúng tôi đã nói chuyện về văn học một đôi lần. Một hôm, ông nhắc đến Goethe – người mà tôi không biết. Ông giải thích: “Hắn là Shakezpeare của Đức. Nũ người Đức trết tiệt lúc nào cũng trích dẫn hắn. Tỡm thật. Rồi họ còn nói: ‘Hă? Anh khônk biết Goethe ư?’”.
Ông đã đọc thơ Goethe bằng tiếng Đức gốc và thấy tầm thường. Lúc đó tôi còn rất trẻ và dễ bị ấn tượng bởi những quan điểm mạnh mẽ. Lời buộc tội kia đã khiến tôi nghi ngờ về vị thế nhà tư tưởng lớn của Goethe. Nhiều năm sau, khi đã hiểu biết hơn, tôi mới đánh giá cao tài năng văn chương của Goethe. Nhưng tôi phải thừa nhận rằng thầy mình có lý về sự tầm thường của Goethe trong một số lĩnh vực. Dù là một tác gia lừng lẫy có tầm ảnh hưởng lớn tới thế giới, Goethe vẫn không kiềm chế được việc phát biểu “lấn sân” sang triết học và khoa học. Ông làm vậy với tất cả nhiệt thành và khả năng của một người nghiệp dư.
Vào cuối thế kỷ 18, Goethe nghĩ ra một cơ chế màu sắc để bác bỏ lý thuyết của Isaac Newton. Chỉ có điều lý thuyết của Goethe dựa cả vào thơ ca và khoa học, bao gồm cả luận điểm kỳ dị “Sắc màu kia là cả kỳ công và khổ đau của ánh sáng”. Tôi không muốn hậm hực với giọng điệu thực chứng nhưng câu đó hoàn toàn vô nghĩa. Ông cũng chất đầy cuốn tiểu thuyết Elective Affinities (Tương hợp chọn lọc) ý tưởng giả dối rằng hôn nhân cũng giống như phản ứng hóa học. Nếu cặp AB tiếp xúc với cặp CD, việc ngoại tình tất yếu sẽ xảy ra và tạo thành các cặp đôi mới giống như phản ứng hóa học vậy: AB + CD → AD + BC, mà chẳng hề hàm ý hay ẩn dụ gì: các nhân vật đã thực sự thảo luận về phép giao hoán cuộc đời trên. Dù tiểu thuyết này còn những ưu điểm khác (đặc biệt là khi miêu tả về niềm đam mê), Goethe vẫn không nên lấn sân sang khoa học.
Ngay cả kiệt tác Faust của Goethe cũng chứa đựng những suy đoán xưa cũ về thuật giả kim (ít ra nó còn thú vị), và tệ hơn là một cuộc đối thoại vô vị kiểu Socrates giữa các “Neptunist” (người theo thuyết Thủy thành) và “Plutonist” (người theo thuyết Hỏa thành)* về việc các tảng đá hình thành như thế nào. Người theo thuyết Thủy thành như Goethe cho rằng đá được kết tủa từ các khoáng chất trong lãnh địa của Thần Biển; họ đã sai. Người theo thuyết Hỏa thành (được đặt theo tên vị thần địa ngục Pluto) đã đưa ra một luận điểm trong lời của chính (mà đúng) Satan trong Faust – có thể nói là một ngụ ý rõ ràng – rằng hầu hết đá đều được tạo ra bởi núi lửa và nhiệt nằm sâu trong lòng đất. Như mọi khi, Goethe vẫn chọn bên thua cuộc bởi điều này khiến óc thẩm mỹ của ông mãn nguyện. Giống như Frankeinstein, Faust vẫn luôn là một câu chuyện có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ viết về sự cao ngạo trong khoa học. Nhưng sau khi qua đời năm 1832, Goethe hẳn phải rất thất vọng dưới suối vàng nếu biết rằng tính khoa học và triết lý của tác phẩm này đã sớm tan rã và giờ người ta chỉ đọc nó vì giá trị văn học mà thôi.
Tuy nhiên, Goethe đã có một đóng góp cuối cùng đáng kể cho khoa học nói chung và bảng tuần hoàn nói riêng khi ông bảo trợ cho một người. Năm 1809, với tư cách là quốc vụ khanh, Goethe có trách nhiệm chọn một nhà khoa học cho vị trí còn trống trong khoa hóa học tại Đại học Jena. Sau khi nghe bạn bè giới thiệu, Goethe đã có một quyết định xuất sắc. Ông lựa chọn một người trùng tên với mình: Johann Wolfgang Döbereiner. Döbereiner là một người tỉnh lẻ không có bằng hóa học và lý lịch kém, chỉ đến với hóa học sau khi thất bại trong ngành công nghiệp dược, dệt may, nông nghiệp và sản xuất bia. Tuy nhiên, những công việc đó dạy Döbereiner những kỹ năng thực tế trong thời đại công nghiệp nhảy vọt mà một quý tộc như Goethe không bao giờ được học và rất ngưỡng mộ. Goethe mau chóng có thiện cảm với chàng thanh niên này. Họ thường ngồi hàng giờ liền và bàn về những vấn đề nóng hổi trong hóa học như: tại sao bắp cải đỏ làm xỉn thìa bạc, và các thành phần trong kem đánh răng Madame de Pompadour. Nhưng tình bạn không thể xóa bỏ sự khác biệt lớn về xuất thân và giáo dục. Từ đầu, Goethe được hưởng một nền giáo dục đậm chất cổ điển, và đến ngày nay ông vẫn thường được ca ngợi là người biết tuốt cuối cùng (có hơi cường điệu). Điều này từng đúng khi nghệ thuật, khoa học và triết học chưa có sự tách biệt rõ ràng. Ông cũng đã ngao du khắp thế giới. Khi được Goethe đề cử cho vị trí ở Jena, Döbereiner thậm chí còn chưa từng rời khỏi Đức; và các trí thức quý tộc như Goethe vẫn chiếm lĩnh giới khoa học thay vì anh chàng quê mùa như Döbereiner.
Vậy nên không có gì lạ khi đóng góp lớn nhất cho khoa học của Döbereiner đến từ stronti, một nguyên tố hiếm mà cái tên không bắt nguồn từ Hy Lạp và cũng chẳng dính dáng gì tới La Mã. Stronti là nguyên tố đầu tiên dự báo về sự tồn tại của bảng tuần hoàn. Một bác sĩ đã phát hiện ra nó trong phòng thí nghiệm của bệnh viện ở “phố đèn đỏ” London vào năm 1790, không xa nhà hát Hoàn Cầu cũ của Shakespeare. Ông đặt tên cho nó theo nguồn gốc của các khoáng sản đang nghiên cứu: Strontian – một làng khai mỏ ở Scotland. Döbereiner đã tiếp tục nghiên cứu này 20 năm sau đó. Nghiên cứu của Döbereiner tập trung (chú ý đến tính thực tiễn) tìm kiếm phương pháp để “cân” chính xác nguyên tử khối của các nguyên tố. Lúc đó, stronti là một nguyên tố mới và hiếm: một thách thức thực sự. Với sự khuyến khích của Goethe, ông bắt đầu nghiên cứu các đặc điểm của nó. Khi xử lý các số liệu thu được từ thí nghiệm với stronti, ông nhận thấy một điều kỳ quặc: nguyên tử khối của nó nằm chính xác giữa của canxi và bari. Hơn nữa, tính chất hóa học của stronti rất giống bari và canxi. Bằng cách nào đó, stronti là sự pha trộn của hai nguyên tố – một nhẹ hơn và một nặng hơn – kể trên.
Bị hấp dẫn, Döbereiner bắt đầu “cân” chính xác nhiều nguyên tố hơn để tìm kiếm các bộ ba khác. Clo-brom-iốt; lưu huỳnh-selen-telu bắt đầu xuất hiện và còn nhiều nữa. Trong mỗi bộ ba kể trên, nguyên tử khối của nguyên tố thứ hai nằm giữa các nguyên tố còn lại. Tin chắc rằng đây không phải là sự trùng hợp, Döbereiner bắt đầu gộp các bộ ba này thành các nhóm – tiền thân của những cột trong bảng tuần hoàn ngày nay. Thật vậy, các nhà hóa học gây dựng nên những bảng tuần hoàn đầu tiên 50 năm sau đó đều bắt đầu từ các cột của Döbereiner.*
Nguyên nhân bảng tuần hoàn phải chờ thêm 50 năm nữa mới ra đời (khi Dmitri Mendeleev công bố) là vì việc nghiên cứu về các bộ ba nguyên tố đã đi chệch hướng. Thay vì sử dụng stronti và các nguyên tố láng giềng để tìm kiếm quy luật sắp xếp nguyên tố phổ quát, các nhà hóa học (chịu ảnh hưởng của đạo Kitô giáo, thuật giả kim và niềm tin của trường phái Pythagoras rằng những con số là hiện thân của hiện thực siêu hình bằng cách nào đó) nhìn đâu cũng thấy “bộ ba” và cắm đầu vào nghiên cứu “Thần số bộ ba”. Họ tính toán chỉ để tìm cho ra bộ ba. Chỉ cần tìm ra được một mối quan hệ như vậy, họ vẫn sẽ cố biến nó thành một điều thiêng liêng, bất kể quá trình có mệt mỏi đến mức nào. Tuy nhiên, nhờ có Döbereiner, stronti là nguyên tố đầu tiên được đặt chính xác trong sơ đồ phổ quát lớn hơn của các nguyên tố. Döbereiner sẽ không bao giờ tìm ra tất cả những điều này nếu không có sự tin tưởng và sau đó là sự hỗ trợ của Goethe.
Sau đó, Döbereiner một lần nữa chứng minh Goethe đã không nhìn nhầm người: năm 1823, ông phát minh ra “bật lửa” bỏ túi đầu tiên. Chiếc bật lửa này dựa vào khả năng rất đáng tò mò là hấp thụ được (nhờ đó lưu trữ) một lượng lớn khí hydro dễ cháy của bạch kim. Trong thời đại mà từ nấu ăn tới sưởi ấm đều cần lửa, lợi ích kinh tế của phát minh này là không thể đo đếm được. Chiếc bật lửa (được gọi là “đèn Döbereiner”) đã giúp Döbereiner nổi tiếng toàn cầu chẳng kém gì Goethe.
Vậy nên dù các công trình khoa học của Goethe còn cẩu thả, nhưng các tác phẩm của ông đã giúp lan truyền ý tưởng rằng khoa học là cao quý, và sự bảo trợ của ông đã thúc đẩy sự ra đời của bảng tuần hoàn. Ít nhất thì ông vẫn xứng đáng có một vị trí danh dự trong lịch sử khoa học (điều hẳn sẽ làm ông hài lòng). Tôi cũng xin được trích câu nói của chính đại thi hào Goethe (xin lỗi người thầy ở phòng thí nghiệm hồi đại học của tôi!): “Lịch sử của khoa học chính là khoa học.”
Goethe coi trọng vẻ đẹp trí tuệ của khoa học, và những người giống như ông thường sẽ say sưa trong tính đối xứng của bảng tuần hoàn và sự lặp lại có chút biến tấu của nó (như nhạc của Bach vậy). Tuy nhiên, không phải mọi nét đẹp của bảng tuần hoàn đều trừu tượng. Bảng tuần hoàn truyền cảm hứng nghệ thuật dưới mọi hình thức. Bản thân vàng, bạc, bạch kim vốn rất đẹp, và các nguyên tố như cadimi và bitmut cũng tạo ra màu sắc sặc sỡ trong khoáng chất hay sơn dầu. Các nguyên tố cũng có vai trò to lớn trong thiết kế để tạo ra các vật dụng đẹp đẽ hằng ngày. Các loại hợp kim mới thường có sự cải thiện tinh tế về độ bền hay tính linh hoạt, giúp một thiết kế đang từ tiện dụng trở nên phi thường. Nếu pha trộn đúng nguyên tố, ngay cả cây bút máy hết sức bình thường cũng có thể trông đầy uy nghiêm* (câu này quả thật không hề ngoa, ít nhất là với những người thích bút).
Vào cuối những năm 1920, nhà thiết kế huyền thoại người Hungary (sau này là người Mỹ) László Moholy-Nagy đã tạo ra sự khác biệt mấu chốt giữa “lỗi thời cưỡng bức” và “lỗi thời nhân tạo”. Lỗi thời cưỡng bức là quá trình tất yếu của công nghệ, xuất hiện đầy rẫy trong lịch sử: lưỡi cày nhường đường cho máy gặt, súng hỏa mai nhường đường cho súng máy Gatling, vỏ tàu chuyển từ gỗ sang thép. Ngược lại, Moholy-Nagy cho rằng lỗi thời nhân tạo đã thống trị thế kỷ 20 và sẽ còn hơn nữa. Mọi người từ bỏ hàng tiêu dùng không phải vì chúng hết hạn sử dụng, mà bởi có các thiết kế mới lạ hơn. Là một nghệ sĩ và cũng được coi là triết gia về thiết kế, Moholy-Nagy cho rằng lỗi thời nhân tạo là thực dụng, ấu trĩ và “băng hoại đạo đức”. Thật khó tin, nhưng cây bút máy cực kỳ bình thường từng là điển hình về khát khao tham lam của con người về bất kỳ một thứ gì cao cấp và tân thời.
Cuộc phiêu lưu của cây bút bắt đầu từ năm 1923 từ một người, như thể Nhẫn Chúa trong tay Frodo. Năm 28 tuổi, Kenneth Parker đã thuyết phục được ban giám đốc của công ty gia đình mình tập trung đầu tư vào một thiết kế mới của anh: cây bút Duofold xa xỉ. (Anh đã thông minh đợi đến khi cha mình – chủ công ty – lên đường chu du trên biển quanh châu Phi và châu Á để không bị ai phủ quyết.) Mười năm sau, trong những ngày tồi tệ nhất của Đại Khủng hoảng, Parker đã lần nữa “tất tay” với một mẫu bút xa xỉ khác: bút Vacumatic. Và chỉ vài năm sau đó, Parker (khi đó đã trở thành ông chủ) lại khao khát một thiết kế mới nữa. Ông đã đọc và tiếp thu các lý thuyết về thiết kế của Moholy-Nagy, nhưng thay vì để sự chỉ trích nặng tính đạo đức của “lỗi thời nhân tạo” gặm nhấm mình, Parker đã nhìn nó theo phong cách rất Mỹ: cơ hội hốt được bộn tiền. Nếu thấy một thứ tốt hơn cái mà mình đang có, người ta sẵn sàng mua ngay cả khi không cần đến. Và vì thế, vào năm 1941, ông đã giới thiệu thứ được công nhận là cây bút vĩ đại nhất lịch sử: Parker 51. Nó được đặt tên theo tuổi đời của Công ty Bút Parker tính tới khi mẫu bút tuyệt vời và hoàn toàn phù phiếm này xuất hiện tại các cửa hàng.
Đây là mẫu bút rất thanh lịch. Nắp bút được mạ vàng hoặc crom, kẹp bút có hình mũi tên vàng óng. Thân bút thuôn tròn, thôi thúc người ta cầm lên như một điếu xì gà và có các màu sắc sang trọng như: Xanh Tuyết tùng, Xanh Nassau, Ca cao, Mận và Đỏ Đam mê. Đầu bút có màu Đen Ấn như đầu một chú rùa vươn lên thon nhọn, phần họng bút tạo thành kiểu bút thư pháp đẹp mắt của phương Tây. Từ đầu bút nhô ra một cái ngòi màu vàng tí hon (trông như một chiếc lưỡi đang cuộn lại) tuôn mực ra khi viết. Bên trong lớp vỏ mượt mà đó, thân bút làm bằng loại nhựa Lucite mới nhận bằng sáng chế, và một ống mực hình trụ cũng mới nhận bằng sáng chế để chứa một loại mực cũng vừa mới nhận bằng sáng chế – lần đầu tiên trong lịch sử, mực không khô nhờ bay hơi trên mặt giấy mà xuyên qua thớ giấy, lập tức khô nhờ thấm hút. Ngay cả cách nắp chụp lên thân bút cũng nhận được hai bằng sáng chế. Các kỹ sư của Parker quả là thiên tài chế tạo bút.
Dân chơi bút thường nói Parker 51 là cây bút vĩ đại nhất lịch sử và là một trong những thiết kế lịch lãm nhất ở mọi lĩnh vực. Ngòi bút được chế tạo từ nguyên tố ruteni hiếm và bền. (Nguồn: Jim Mamoulides, www.PenHero.com)
Tỳ vết duyên dáng duy nhất trên tuyệt tác này là phần ngòi vàng thực sự chạm vào tờ giấy. Vàng là một kim loại dẻo và dễ biến dạng nếu ấn mạnh khi viết. Ban đầu, Parker bọc ngòi bút bằng một vòng osimiridi – hợp kim của iridi và osimi. Tuy độ cứng rất phù hợp cho mục đích trên nhưng hai kim loại này khan hiếm, đắt tiền và khó tìm được nguồn nhập khẩu. Một sự thiếu hụt hoặc tăng giá đột ngột có thể làm hỏng thiết kế. Vì vậy, công ty Parker đã thuê một học giả chuyên ngành luyện kim từ Đại học Yale để tìm vật liệu thay thế. Chỉ trong một năm, công ty đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế khác cho ngòi bút ruteni – nguyên tố mà khi ấy chỉ khá hơn phế liệu. Nhưng cuối cùng, đó lại là một lựa chọn xứng đáng và ruteni bắt đầu xuất hiện trong ngòi bút của Parker 51 từ năm 1944.*
Thành thật mà nói, dù có kỹ thuật chế tác vượt trội thì Parker 51 vẫn chỉ là một cây bút với chức năng cơ bản là viết lên giấy. Nhưng như nhà thiết kế huyền thoại Moholy-Nagy từng dự đoán: cái đẹp đã đập bẹp cái nết. Với ngòi bút mới, quảng cáo của công ty Parker thuyết phục người tiêu dùng rằng dụng cụ viết của con người đã đạt đến mức hoàn mỹ, khiến mọi người bắt đầu vứt bỏ các mẫu Parker trước đó để mua nó. Parker 51 – “cây bút được thèm muốn nhất thế giới” – đã trở thành biểu tượng của địa vị: cây bút duy nhất mà các chủ ngân hàng, người môi giới và chính trị gia hàng đầu dùng để ký séc, hóa đơn và thẻ ghi điểm golf. Ngay cả các tướng Dwight D. Eisenhower và Douglas MacArthur cũng sử dụng Parker 51 để ký các hiệp ước chấm dứt Thế Chiến II ở châu Âu và Thái Bình Dương vào năm 1945. Nhờ được quảng cáo rộng rãi và niềm hân hoan vì chiến tranh kết thúc tràn ngập thế giới, doanh số bút đã tăng vọt. Từ 440.000 chiếc vào năm 1944 đến 2,1 triệu vào năm 1947: một kỳ tích tuyệt vời khi giá của Parker 51 đã tăng từ 12,5 đô la Mỹ (năm 1941) lên tới 50 đô la Mỹ (tương đương mức tăng từ khoảng 100 đô la Mỹ tới khoảng 400 đô la Mỹ thời nay). Hơn nữa, hộp mực và ngòi ruteni bền cũng có nghĩa là chẳng ai phải thay bút cả.
Ngay cả Moholy-Nagy cũng phải trầm trồ về Parker 51 (mặc dù sẽ thấy đau khổ khi thấy lý thuyết của mình lại được áp dụng vào mục đích marketing lộ liễu). Sự cân bằng, vẻ ngoài, khả năng tiết mực láng mịn như kem của nó đã khiến Moholy-Nagy ngất ngây; ông từng nói nó là một thiết kế hoàn hảo. Ông thậm chí còn cố vấn cho công ty Parker từ năm 1944. Có tin đồn suốt nhiều thập kỷ rằng Moholy-Nagy chính là người đã thiết kế mẫu bút này. Công ty Parker tiếp tục bán nhiều phiên bản khác nhau của mẫu này cho đến năm 1972. Và dù đắt gấp đôi mẫu bút có giá đứng thứ hai, nó bán chạy hơn mọi cây bút từng xuất hiện cho đến lúc bấy giờ, thu về 400 triệu đô la Mỹ doanh thu (tương đương vài tỷ đô la Mỹ ngày nay).
Không lâu sau khi Parker 51 “quy ẩn”, thị trường bút cao cấp bắt đầu teo lại. Lý do khá hiển nhiên: dù Parker 51 được chi tiền phát triển mạnh tay để vượt trội hơn các cây bút khác, bút mực vẫn dần bị “lỗi thời cưỡng bức” khi máy chữ xuất hiện. Nhưng có một câu chuyện châm biếm trong “vụ chuyển giao” đó: với sự góp mặt của văn hào Mark Twain và vẫn liên quan tới bảng tuần hoàn.
Sau khi nhìn thấy một mẫu máy chữ vào năm 1874, Twain đã lập tức mua một cái với giá cực đắt: 125 đô la Mỹ (tương đương 2.400 đô la Mỹ ngày nay), bất chấp suy thoái kinh tế toàn cầu. Chỉ trong một tuần, ông đã bắt đầu dùng nó để viết thư (máy chỉ viết được chữ hoa, không viết được chữ thường) về việc ông mong tống khứ nó đi như thế nào: “QUÁ MỆT ĐẦU”, ông than thở. Đôi khi khó mà phân biệt được những lời phàn nàn thực sự với tính cách cấm cảu của ông, nên có thể ông đang nói quá. Nhưng đến năm 1875, ông đã đem cho chiếc máy chữ ấy và mua hai cây bút máy mới, rồi giới thiệu chúng cho bạn mình. Sự đam mê của ông với những cây bút đắt tiền không bao giờ giảm, ngay cả khi “phải vừa viết vừa chửi thì nó mới ra mực”. Rõ là chúng không phải Parker 51.
Tuy nhiên, chính Twain lại đóng góp cho chiến thắng chung cuộc của máy chữ trước bút cao cấp nhiều hơn bất cứ ai. Ông gửi Life on the Mississippi (Cuộc sống trên sông Mississippi) – bản thảo đánh máy đầu tiên – cho một nhà xuất bản vào năm 1883. (Nó được đọc cho thư ký đánh máy chứ không phải Twain.) Và khi công ty máy chữ Remington đề nghị ông đưa ra lời chứng thực cho máy của họ (bởi Twain đã phải miễn cưỡng mua một chiếc máy khác), ông đã gửi một lá thư từ chối cộc lốc. Remington vẫn cho in bức thư này.* Chỉ riêng việc Twain – người nổi tiếng nhất ở Mỹ lúc bấy giờ – có chiếc máy đã là một lời bảo chứng tuyệt vời rồi.
Những câu chuyện về việc nguyền rủa những cây bút mình yêu và dùng máy đánh chữ mình ghét đã khắc họa sự mâu thuẫn trong Twain. Dù ông là sự tương phản với Goethe về mặt văn chương, nhưng cả hai người đều có sự mâu thuẫn khi nói về công nghệ. Twain không có mong ước thực hành khoa học, nhưng cả ông và Goethe đều bị khoa học cuốn hút. Đồng thời, họ nghi ngờ loài Homo sapiens liệu có đủ thông minh để sử dụng công nghệ đúng cách. Goethe thể hiện nghi ngờ này trong Faust . Còn Twain đã viết ra những điều mà ngày nay ta xếp vào khoa học viễn tưởng. Thật đó. Trái ngược với những cuốn tiểu thuyết du hành trên thuyền thuở thiếu thời của mình, ông đã viết những truyện ngắn về các phát minh, công nghệ, những vùng đất phản địa đàng và du hành không-thời gian. Thậm chí, câu chuyện gây sửng sốt Sold to Satan (Bán linh hồn cho Satan) còn nói tới những hiểm họa của bảng tuần hoàn.
Bối cảnh của câu chuyện dài 2.000 từ này bắt đầu vào khoảng năm 1904, ngay sau tình huống vỡ bong bóng cổ phiếu thép giả định. Vì đã chán ngấy việc sục sạo kiếm tiền nên nhân vật chính quyết định bán linh hồn bất tử của mình cho Satan. Nhằm thương lượng và chốt được hợp đồng này, anh và Satan gặp nhau trong một cái hang vào lúc nửa đêm, uống một chút rượu toddy và thảo luận về mức giá bèo bọt cho những linh hồn. Nhưng chẳng mấy chốc, anh bất giác thất kinh khi nhận ra rằng cơ thể Satan hoàn toàn làm bằng radi.
Sáu năm trước khi Twain viết câu chuyện này, Marie Curie đã khiến giới khoa học kinh ngạc bằng các nguyên tố phóng xạ. Tin tức này khá mới mẻ, nhưng Twain hẳn đã thâm nhập khá sâu vào giới khoa học để viết nên các tình tiết cợt nhả cho tác phẩm này. Tính phóng xạ của radi làm không khí xung quanh nhiễm điện nên nhân vật chính hết sức thích thú khi thấy Satan phát sáng màu xanh lục. Ngoài ra, tia phóng xạ khiến radi luôn nóng hơn môi trường xung quanh, giống như một khối đá mang dòng máu nóng vậy. Lượng radi càng nhiều thì nhiệt càng cao. Do đó, Satan của Twain – một khối radi cao 1,85 m và nặng hơn 400 kg – có thể châm xì gà chỉ bằng một đầu ngón tay. (Satan nhanh chóng dập nó đi, cốt “để dành nó cho Voltaire”. Nghe thấy vậy, nhân vật chính buộc hắn phải mang thêm 50 điếu nữa cho các danh nhân, trong đó có Goethe.)
Sau đó, câu chuyện đi vào một số chi tiết của quy trình làm giàu các kim loại phóng xạ. Đây không phải là tác phẩm xuất sắc nhất của Twain, nhưng nó cũng có khả năng tiên tri giống như các tác phẩm viễn tưởng hay nhất. Để tránh thiêu rụi những người mà hắn gặp, cơ thể radi của Satan được bao phủ bởi lớp da poloni – cũng là một nguyên tố mới do Marie Curie phát hiện – bảo vệ. Điều này là vớ vẩn về mặt khoa học: một lớp poloni “trong suốt, mỏng như màng gelatin” không thể kìm giữ được sức nóng của một khối radi lớn tới như vậy. Nhưng có thể du di cho Twain vì poloni phục vụ tình tiết then chốt: nó cho Satan một lý do để đe dọa. “Nếu ta lột bỏ lớp da này, thế giới sẽ bị thiêu thành tro bụi. Mặt Trăng dù có ngủ yên cũng phải chịu chung số phận: nó sẽ tan thành tro bụi và trôi dạt trong không gian vô định như một cơn bão tuyết xám màu tàn tro!”.
Twain vẫn là Twain, ông không thể để cái ác chiến thắng. Nhiệt lượng khổng lồ từ radi bị kìm giữ đã khiến Satan phải nhanh chóng thừa nhận trong cay đắng: “Nó đang thiêu sống ta từ bên trong”. Nhưng nếu nhìn nhận một cách nghiêm túc thì Twain đã lo sợ về sức mạnh khủng khiếp của năng lượng hạt nhân ngay từ năm 1904. Nếu có thể sống tới năm 1945, ông chắc chắn sẽ lắc đầu ngán ngẩm (dù chẳng mấy ngạc nhiên) khi thấy con người thèm khát tên lửa hạt nhân thay vì coi nó là một nguồn năng lượng dồi dào. Không giống như Goethe thường lấn sân sang những ngành hóc búa, chúng ta vẫn có thể dễ dàng đọc hiểu các tác phẩm khoa học của Twain nếu được hướng dẫn.
Những nguyên tố thuộc phần dưới của bảng tuần hoàn đã khiến Twain thất vọng. Nhưng trong tất cả các câu chuyện về các nghệ sĩ và nguyên tố hóa học, không có gì buồn và khắc nghiệt hơn cuộc phiêu lưu của nhà thơ Robert Lowell với một nguyên tố nằm ở đầu bảng tuần hoàn: liti.
Khi còn học tại một trường dự bị đại học vào đầu những năm 1930, bạn bè đã đặt biệt danh cho Lowell là “Cal” trong Caliban – nhân vật xấu xa tột cùng trong vở kịch The Tempest (Tạm dịch: Bão tố). Nhiều người khác lại cho rằng biệt danh đó được đặt theo tên bạo chúa Caligula. Dù gì đi nữa, cái tên này phù hợp với người thi sĩ tự bạch có chung đặc điểm với các nghệ sĩ điên khùng – như Van Gogh hay Edgar Allan Poe – có tài năng xuất chúng tuôn ra từ những cõi riêng trong tâm thức mà hầu hết chúng ta còn không hiểu được, chứ đừng nói là khai thác để làm nghệ thuật. Không may là Lowell không thể giữ cho sự điên rồ chỉ ở trong những bài thơ, mà đổ cho nó vương vãi ra đời thường. Có lần ông xuất hiện ở cửa nhà một người bạn, lắp bắp nói với niềm tin rằng mình chính là Đức Mẹ Maria. Một lần khác, tại Bloomington (bang Indiana), ông tin mình có thể dừng xe chạy trên cao tốc chỉ bằng cách dang tay ra như Chúa Jesus. Trong các lớp mình dạy, ông đã lãng phí hàng giờ để lảm nhảm và viết lại những bài thơ của từng học sinh lúng túng theo phong cách Tennyson hoặc Milton lỗi thời. Khi 19 tuổi, ông bỏ rơi vị hôn thê và lái xe từ Boston đến một ngôi nhà nông thôn ở Tennessee để gặp nhà thơ mà Lowell hy vọng sẽ cố vấn cho mình. Ông nghĩ người đó sẽ cho mình ở nhờ. Nhà thơ ấy ân cần giải thích rằng nhà ông không còn phòng trống, và đùa rằng Lowell sẽ phải cắm trại trên bãi cỏ nếu muốn ở lại. Lowell gật đầu và rời đi. Ông đến Sears mua một cái lều con và quay lại dựng lều trên bãi cỏ.
Giới yêu văn chương thích thú với những câu chuyện này. Và trong những năm 1950 và 1960, Lowell là nhà thơ xuất sắc ở Mỹ, giành nhiều giải thưởng, bán được hàng ngàn cuốn sách. Mọi người đều cho rằng Lowell đã bị một nàng thơ tưởng tượng nào đó làm loạn trí. Dược tâm lý học – một lĩnh vực xuất hiện trong thời đại đó – có cách giải thích khác: Cal bị mất cân bằng hóa học, khiến ông bị hưng trầm cảm. Công chúng chỉ thấy một người hoang dã, mà không phải là những cảm xúc đen tối đã hủy hoại tinh thần và vắt kiệt tài sản của ông. May thay, chất ổn định tâm lý thực sự đầu tiên – có chứa liti – đã có mặt ở Mỹ vào năm 1967. Lowell – lúc ấy mới nhập viện tâm thần, nơi bác sĩ phải tịch thu thắt lưng và dây giày của ông – đã đồng ý chữa bệnh trong cơn bĩ cực.
Thật kỳ lạ, dù rất có tiềm năng để làm thuốc nhưng liti lại không có vai trò sinh học bình thường. Nó không phải là một khoáng chất thiết yếu (như sắt hay magie) hay dưỡng chất vi lượng như crom. Trong thực tế, liti nguyên chất hoạt động hóa học mạnh tới mức đáng sợ. Những túi áo đầy rẫy lông bụi được cho là đã bốc cháy khi chìa khóa (hay tiền xu) làm đoản mạch pin liti cầm tay (gây đánh lửa) khi chúng đang leng keng theo từng bước chân. Liti (ở dạng thuốc là muối Li 2 CO 3 ) cũng không hoạt động theo cách ta mong đợi ở một loại thuốc. Chúng ta dùng thuốc kháng sinh khi bị nhiễm trùng nặng để diệt vi khuẩn. Nhưng dùng liti khi có cơn hưng hoặc trầm cảm nặng lại không giải quyết được vấn đề. Liti chỉ ngăn chặn các cơn bệnh tiếp theo tái phát. Và mặc dù các nhà khoa học đã biết về tác dụng của liti từ năm 1886, nhưng ngay cả tới bây giờ, họ vẫn không hiểu tại sao nó lại hiệu quả.
Liti điều chỉnh nhiều chất làm thay đổi tâm trạng trong não và tác dụng của nó rất phức tạp. Thú vị nhất là liti dường như có thể tái thiết nhịp sinh học của cơ thể. Ở người bình thường, điều kiện môi trường xung quanh – đặc biệt là Mặt Trời – quyết định sự vui vẻ và xác định khi nào chúng ta kiệt sức. Chu kỳ sinh học của người bình thường kéo dài hai-mươi-bốn-giờ. Chu kỳ sinh học của người rối loạn lưỡng cực lại độc lập với Mặt Trời. Khi khỏe, bộ não họ tràn ngập chất kích thích thần kinh tích cực và việc thiếu ánh nắng mặt trời sẽ không tắt được các hưng phấn ấy. Một số người gọi đó là “phấn khích bệnh lý”: những người như vậy hầu như không cần ngủ, và tự tin đến mức một người đàn ông Boston trong thế kỷ 20 như thế tin rằng Chúa Thánh Thần đã chọn anh ta làm hiện thân của Chúa Jesus dưới trần gian. Cuối cùng, những đợt hưng phấn đó khiến não bộ suy kiệt và làm cơ thể gục ngã. Những người bị hưng trầm cảm khi chuyển sang pha trầm cảm thường nằm lỳ trên giường hàng tuần lễ.
Liti điều chỉnh các protein điều khiển đồng hồ sinh học của cơ thể. Thật kỳ lạ, “đồng hồ” này phụ thuộc vào ADN ở các tế bào thần kinh đặc biệt nằm sâu trong não. Các protein đặc biệt gắn vào ADN mỗi sáng, rồi bị phân hủy và rơi ra sau một khoảng thời gian cố định. Ánh sáng mặt trời tái thiết các protein nhiều lần nên chúng có thể đính vào ADN lâu hơn nhiều. Trên thực tế, các protein chỉ rơi ra lúc trời tối: khi não bộ “nhận ra” các protein đó không còn gắn vào ADN nữa, nó sẽ ngừng sản xuất chất kích thích. Quá trình này không được như vậy ở những người hưng trầm cảm: các protein vẫn gắn với ADN ngay cả khi thiếu ánh sáng mặt trời. Bộ não không nhận ra rằng không nên hoạt động “hết sức” nữa. Liti giúp tách protein khỏi ADN để người bệnh có thể thư giãn. Cần lưu ý rằng: bất chấp sự có mặt của liti, ánh sáng mặt trời vẫn thiết lập lại các protein khi trời sáng; chỉ khi đêm xuống thì liti mới gỡ bỏ protein khỏi ADN. Không như “ánh nắng đóng viên”, liti hoạt động như “chất phản nắng”. Về mặt thần kinh học, nó đảo ngược tác động của ánh sáng mặt trời và đưa đồng hồ sinh học trở lại nhịp 24 giờ, tránh hình thành các bong bóng hưng phấn dẫn đến những pha “vỡ mộng” – như ngày Thứ ba Đen tối châm ngòi cho Đại Khủng hoảng vậy.
Lowell lập tức phản ứng tốt với liti. Cuộc sống của ông dần ổn định hơn (mặc dù không có nghĩa là ổn định hoàn toàn), và có lúc ông tuyên bố rằng mình đã khỏi bệnh. Khi tinh thần ổn định hơn, ông đã nhìn lại cuộc sống cũ: đầy rẫy ẩu đả, rượu chè bê tha và các cuộc ly hôn – cũng đã làm tổn hại đến rất nhiều người. Trong tất cả những dòng thơ chân thực và giàu cảm xúc của mình, không gì chua xót và mô tả xúc động sự cân bằng hóa học mong manh của con người hơn là lời bộc bạch của Lowell với nhà xuất bản Robert Giroux, sau khi ông bắt đầu được điều trị bằng thuốc chứa liti.
Ông nói: “Bob ạ, thật khủng khiếp khi nghĩ rằng tất cả những gì tôi phải chịu đựng, tất cả những đau khổ mà tôi gây ra đều xuất phát từ việc thiếu một chút muối trong não”.
Lowell thấy liti đã giúp cuộc sống của ông tốt hơn nhiều, nhưng hiệu quả của liti đối với các tác phẩm của ông rất đáng tranh cãi. Cũng như Lowell, hầu hết nghệ sĩ cảm thấy việc chuyển từ chu kỳ hưng trầm cảm sang chu kỳ 24 giờ giúp họ làm việc hiệu quả mà không bị phân tâm bởi sự hưng phấn hay trầm cảm. Tuy nhiên, luôn luôn có những tranh luận về việc liệu các tác phẩm của họ có bị ảnh hưởng sau khi “lành bệnh” hay không – khi họ bị mất kết nối với phần tâm trí mà hầu hết chúng ta không bao giờ nhìn thấy.
Nhiều nghệ sĩ cho biết họ cảm thấy mình chững lại và trở nên trầm lặng sau khi sử dụng liti. Một trong những người bạn của Lowell nói rằng ông trông giống như một con thú bị nuôi nhốt. Và thơ ông chắc chắn đã thay đổi sau năm 1967: ngày càng “xù xì” và ít trau chuốt hơn thấy rõ. Thay vì viết ra những dòng thơ từ tâm trí hoang dại, ông bắt đầu trích những dòng thơ từ những lá thư riêng, làm tổn thương những người mà ông trích dẫn. Lowell đã giành giải Pulitzer năm 1974 cho tác phẩm như vậy nhưng nó không tồn tại được lâu. Ngày nay chẳng ai đọc nó, khác hẳn các tác phẩm mà ông viết khi còn “trẻ trâu”. Với tất cả những gì mà bảng tuần hoàn đã truyền cảm hứng cho Goethe, Twain và những người khác, liti đã mang lại cho Lowell sức khỏe nhưng đã đè nén tài năng nghệ thuật, biến một thiên tài điên rồ thành người bình thường.