Chương 15 Những nguyên tố dấy lên sự điên rồ
Robert Lowell đại diện cho mẫu nghệ sĩ điên khùng, nhưng trong cộng đồng vẫn còn một dạng người với tâm lý bất thường nữa: nhà khoa học điên. Các nhà khoa học điên của bảng tuần hoàn ít gào rú với công luận hơn các nghệ sĩ điên và thường cũng không có đời tư “tai tiếng” lắm. Tâm lý của họ khó thấy hơn, và những sai lầm của họ là điển hình cho một loại bệnh thần kinh kỳ lạ gọi là “khoa học ảo tưởng”*. Và cũng thật tò mò rằng sự điên rồ đó lại có thể tồn tại song song với sự sáng suốt trong cùng một tâm trí.
Không giống hầu như toàn bộ giới khoa học trong cuốn sách này, William Crookes – sinh năm 1832, con trai của một thợ may ở London – chưa từng nghiên cứu tại trường đại học. Là anh cả của 15 đứa em (bản thân ông sau này cũng có tới 10 đứa con), ông nuôi gia đình đông đúc bằng cách viết cuốn sách nổi tiếng về kim cương và biên tập cho tạp chí tin tức khoa học “lá cải” Chemical News . Thế nhưng Crookes – đeo kính, râu ria xồm xoàm – đã có những nghiên cứu khoa học đẳng cấp thế giới về các nguyên tố như selen và tali. Ông được bầu vào Hội Hoàng gia – câu lạc bộ khoa học hàng đầu nước Anh – khi mới 31 tuổi. Một thập kỷ sau, ông suýt thì bị đuổi ra khỏi Hội.
Ông bắt đầu tuột dốc vào năm 1867, khi em trai Philip bỏ mạng trên biển.* Tuy – hoặc có lẽ chính vì – gia đình quá đông anh em nên William cùng những người khác gần như phát điên vì đau buồn. Thời bấy giờ, Thuyết thông linh 1 du nhập từ Mỹ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến giới quý tộc và dân buôn trên khắp nước Anh. Ngay cả Arthur Conan Doyle (cha đẻ của nhân vật thám tử Sherlock Holmes) siêu duy lý cũng phải nhường một chỗ để xác nhận thuyết này là thật trong tâm khảm rộng rãi. Là sản phẩm của thời đại ấy, nhà Crookes – chủ yếu là dân buôn không được đào tạo về khoa học hay có bản năng khoa học – thường tham dự tập thể các buổi lễ để tự an ủi và trò chuyện với linh hồn của Philip tội nghiệp.
1 . Thuyết thông linh (spiritualism) là quan điểm cho rằng người đã mất vẫn tồn tại ở thế giới bên kia và có thể giao tiếp với người còn sống. Thuyết này phát triển và đạt tới cực thịnh từ khoảng năm 1840 đến năm 1920, đặc biệt mạnh ở các nước nói tiếng Anh. (BTV)
Không rõ tại sao một tối nọ, William lại tới buổi lễ cùng gia đình. Có lẽ vì tinh thần đoàn kết. Hoặc vì một người em của ông là quản lý sân khấu cho cô đồng. Cũng có thể để khuyên mọi người đừng quay lại – trong nhật ký của mình, ông cho rằng những “liên kết” tâm linh như vậy là chỉ là trò lừa đảo hào nhoáng. Nhưng kẻ hồ nghi là ông đã rất kinh ngạc khi thấy cô đồng chơi đàn accordion mà không cần dùng tay và “các thông điệp tự hiện lên” theo kiểu bàn cầu cơ (Ouija) chỉ bằng một bút trâm và tấm bảng. Lòng phòng bị dần buông xuống, và khi cô đồng bắt đầu chuyển các thông điệp lảm nhảm của Philip từ thế giới bên kia, William đã bật khóc. Ông tham dự nhiều buổi hơn, thậm chí còn phát minh ra một thiết bị để tìm kiếm những linh hồn lang thang trong các phòng đầy ánh nến. Không rõ “máy dò” mới của ông – gồm một quả cầu thủy tinh chân không, bên trong có một chong chóng gió cực nhạy – có thực sự tìm được Philip hay không (chúng ta chỉ có thể đoán). Nhưng William không thể gạt bỏ những cảm xúc khi nắm tay các thành viên trong gia đình tại buổi lễ. Từ đó, ông tham dự thường xuyên hơn.
Sự duy tâm này đã khiến Crookes trở thành thiểu số (hoặc thậm chí là chỉ có mình ông) trong Hội Hoàng gia, nơi đa phần theo chủ nghĩa duy lý. Hiểu được điều này, vào năm 1870, Crookes quyết định che giấu thiên kiến của mình khi công bố một nghiên cứu về Thuyết thông linh. Hầu hết các thành viên của Hội Hoàng gia đều vui mừng, cho rằng ông sẽ đả phá hoàn toàn chủ thuyết này trong một nghiên cứu ồn ào. Nhưng đời không như là mơ. Sau ba năm tụng niệm và gọi hồn, Crookes đã xuất bản Notes of an Enquiry in the Phenomena Called Spiritual (Những ghi chú khi nghiên cứu hiện tượng tâm linh) năm 1874 trong tạp chí Quarterly Journal of Science mà ông sở hữu. Ông tự coi mình là một Marco Polo của những lĩnh vực huyền bí, chuyên đi thám hiểm những vùng đất mới về tâm linh. Nhưng thay vì công kích tất cả chiêu trò tâm linh – “sự thăng thiên”, “bóng ma”, “tiếng gõ”, “cái bóng lập lòe”, “bàn ghế tự lơ lửng” – ông kết luận rằng trò lừa bịp hay thuật thôi miên tập thể cũng không thể (ít nhất là hoàn toàn ) lý giải được mọi điều ông thấy. Crookes cũng không tỏ ta mình ủng hộ mù quáng, nhưng ông tuyên bố rằng mình đã tìm thấy “tàn dư” chứng minh thế lực siêu nhiên có thật.*
Việc Crookes ủng hộ Thuyết thông linh – dù không quá nhiệt tình – đã gây sốc cho tất cả mọi người ở Anh, ngay cả những người theo thuyết này. Họ bắt đầu hò reo để tán thưởng Crookes. Đến tận ngày nay, một số “thợ săn ma” vẫn viện dẫn nghiên cứu lỏng lẻo của ông như là “bằng chứng” cho thấy người thông minh sẽ thay đổi quan điểm về Thuyết thông linh nếu họ là người có tâm trí khoáng đạt. Đồng nghiệp của Crookes trong Hội Hoàng gia cũng ngạc nhiên không kém, nhưng họ càng kinh hãi nhiều hơn. Họ cho rằng Crookes đã bị các mánh khóe lừa bịp, bị đám đông lôi kéo và bị đám cô đồng đạo sư đồng bóng mê hoặc. Họ cũng phá tan lớp men khoa học bóng bẩy mà ông phủ lên báo cáo. Chẳng hạn: Crookes đã ghi lại các “dữ liệu” không liên quan về nhiệt độ và áp suất khí quyển bên trong phòng thông linh, như thể những sinh vật vô hình có thể sẽ không thò đầu ra nếu thời tiết không thuận lợi. Chuyện càng tệ hơn khi những người bạn cũ công kích Crookes, gọi ông là kẻ nhà quê, đồ cò mồi. Nếu các nhà tâm linh ngày nay đôi khi vẫn trích dẫn lời Crookes, thì một số nhà khoa học lại không thể tha thứ cho ông vì đã mở màn cho 135 năm ngớ ngẩn của phong trào Kỷ nguyên Mới. Họ còn trích dẫn công trình về các nguyên tố hóa học trước đó để chứng minh rằng ông đã phát điên.
Số là khi còn trẻ, Crookes đã đi tiên phong trong nghiên cứu về selen. Mặc dù là một dưỡng chất vi lượng thiết yếu ở mọi loài động vật (sự cạn kiệt selen trong máu của bệnh nhân AIDS là dấu hiệu báo tử khá chính xác), selen lại độc hại ở liều lượng lớn. Những người chăn thả gia súc biết rất rõ điều này. Nếu không được trông nom cẩn thận, gia súc của họ sẽ ăn phải cỏ điên – một loại cỏ thuộc họ đậu cố định selen từ đất. Chúng sẽ loạng choạng, ngã rồi sốt, lở loét và chán ăn – một loạt triệu chứng của bệnh “loạng choạng mù”. Nhưng chúng lại thích cảm giác kích thích đó. Dấu hiệu rõ rệt nhất cho thấy selen làm chúng điên là khi chúng nghiện ăn cỏ điên và bỏ bê mọi thứ, mặc kệ những tác dụng phụ khủng khiếp. Đây chính là ma túy của động vật. Một số nhà sử học giàu trí tưởng tượng còn cho rằng George Armstrong Custer thua Trận Little Bighorn vì ngựa của ông đã ăn cỏ điên trước đó. Nhìn chung thì điều này cũng khá phù hợp vì cái tên “selen” xuất phát từ selene (tiếng Hy Lạp nghĩa là “Mặt Trăng”) có liên quan đến từ luna (từ nguyên của lunaticus, nghĩa là “mất trí” và “điên dại”) trong tiếng Latin.
Với sự độc hại đó, dường như là có lý khi đổ tội cho selen trong quá khứ về những ảo tưởng của Crookes. Tuy nhiên, một số sự thật lại không ủng hộ phỏng đoán này. Độc tố của selen thường phát tác trong vòng một tuần; còn Crookes trở nên ngờ nghệch khi đã trung niên – rất lâu sau khi ông ngừng nghiên cứu về selen. Hơn nữa, sau nhiều thập kỷ mà những người chăn nuôi gia súc nguyền rủa nguyên tố thứ 34 mỗi khi một con bò loạng choạng, nhiều nhà hóa sinh hiện nay cho rằng các chất khác trong cỏ điên cũng đóng góp phần lớn vào tình trạng điên rồ và nhiễm độc. Cuối cùng, một bằng chứng chắc chắn là râu Crookes chưa từng rụng – một triệu chứng điển hình của nhiễm độc selen.
Như một số người nhận định, râu không rụng cũng minh chứng việc ông trở nên ngờ nghệch không liên quan tới tali, vì “chất độc của những kẻ hạ độc” cũng làm rụng lông tóc. Crookes phát hiện ra tali ở tuổi 26 (một khám phá dường như chắc chắn đã đưa ông vào Hội Hoàng gia) và tiếp tục nghiên cứu nó trong phòng thí nghiệm suốt một thập kỷ. Nhưng rõ ràng lượng tali mà ông hít phải còn không đủ để một sợi ria mép rụng. Hơn nữa, liệu có ai bị trúng độc tali (hay selen) mà vẫn có được một trí tuệ sắc bén như vậy khi về già? Crookes thực sự đã rút khỏi giới thông linh sau năm 1874, tái cống hiến cho khoa học và cho ra đời những khám phá lớn. Ông là người đầu tiên đề xuất sự tồn tại của đồng vị. Ông cũng chế tạo một thiết bị mới quan trọng và xác nhận sự hiện diện của heli trong đá – dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự tồn tại của nó trên Trái Đất 1 . Năm 1897, vị hiệp sĩ mới được tấn phong William Crookes chuyên tâm vào phóng xạ. Ông thậm chí còn phát hiện ra (dù không hề hay biết) nguyên tố protactini năm 1900.
1 . Các nhà khoa học lần đầu tiên biết tới sự tồn tại của heli khi quan sát quang phổ của Mặt Trời vào năm 1868. Ngày 26/3/1895, nhà hóa học Scotland William Ramsay lần đầu tiên phân lập được heli trên Trái Đất. Nó được Norman Lockyer và William Crookes xác nhận là heli (BTV).
Có lẽ cách lý giải tốt nhất việc Crookes sa lầy vào Thuyết thông linh là tâm lý đau đớn khi mất em trai. Ông đã sa vào “khoa học ảo tưởng” trước cả khi thuật ngữ này ra đời.
Để hiểu được thuật ngữ này, tốt nhất ta cần xóa bỏ mọi quan niệm sai lầm về từ “ảo tưởng”, và nói rõ những gì không phải là khoa học ảo tưởng. Nó không mang tính lừa đảo vì những tín đồ của khoa học ảo tưởng tin rằng họ đúng, chỉ là người khác không hiểu được. Nó không phải ngụy khoa học, những lĩnh vực giả danh khoa học nhưng từ chối dùng các phương pháp khoa học. Nó cũng không phải là khoa học đã được chính trị hóa, khi mọi người thề trung thành với một khoa học sai lầm vì các mối đe dọa hoặc ý thức hệ lệch lạc. Cuối cùng, nó không phải là sự điên rồ lâm sàng hay niềm tin đơn thuần. Nó là một sự điên rồ đặc biệt, một ảo tưởng tỉ mỉ và khoa học. Các nhà “khoa học ảo tưởng” chọn một hiện tượng ngoài lề, không liên quan, lôi cuốn họ vì lý do gì đó và sử dụng tất cả sự nhạy bén khoa học để chứng minh sự tồn tại của nó. Nhưng cách này đã sai ngay từ đầu: nó chỉ phục vụ nhu cầu cảm xúc cá nhân để thỏa mãn đức tin. Bản thân Thuyết thông linh không phải là khoa học ảo tưởng nhưng chính Crookes đã biến nó thành như vậy qua những “thí nghiệm” cẩn thận của ông và sự gọt giũa mang tính khoa học mà ông đưa ra.
Và trên thực tế, khoa học ảo tưởng không phải lúc nào cũng nảy sinh từ các lĩnh vực bên lề. Nó cũng phát triển mạnh trong các lĩnh vực chính thống nhưng mang tính phỏng đoán, chỉ có rất ít dữ liệu và bằng chứng rất khó diễn giải. Ví dụ điển hình là phân ngành liên quan đến việc tái tạo khủng long và các sinh vật tuyệt chủng khác của cổ sinh vật học.
Trên một số phương diện, chúng ta hầu như chẳng biết gì về các sinh vật đã tuyệt chủng: một bộ xương hoàn chỉnh đã hiếm, dấu vết các mô mềm lại càng hiếm hơn. Có một câu nói đùa của những người tái tạo động vật tiền sử là: nếu loài voi cũng đã tuyệt chủng từ trước, thì bất cứ ai đào được bộ xương voi ma mút ngày nay sẽ hình dung ra một con chuột hamster khổng lồ có ngà chứ không phải là một loài thú lông lá da dày và có vòi. Chúng ta cũng chỉ biết rất ít về các đặc điểm của các loài động vật khác: vằn, dáng đi, môi, bụng, mõm, diều, dạ cỏ hay bướu; còn chưa kể đến lông mày, mông, móng guốc, má, lưỡi và vú. Tuy nhiên, bằng cách so sánh các rãnh và vết lõm trên xương hóa thạch với xương của các sinh vật hiện đại, người trong ngành có thể hình dung ra cơ bắp, kích thước, dáng đi, răng, thậm chí cả tập tính giao phối của các loài tuyệt chủng. Các nhà cổ sinh vật học chỉ cần thật cẩn thận, tránh ngoại suy quá xa.
Khoa học ảo tưởng sẽ lợi dụng sự thận trọng đó. Về cơ bản, các tín đồ của nó sử dụng chính sự mơ hồ về bằng chứng làm bằng chứng cho mình. Họ cho rằng các nhà khoa học không thể biết tuốt, nên vẫn có chỗ cho lý thuyết riêng của bản thân mình. Đó chính là những gì đã xảy ra với nguyên tố mangan và megalodon.*
Câu chuyện bắt đầu năm 1873, khi tàu nghiên cứu HMS Challenger khởi hành từ Anh để khám phá Thái Bình Dương. Rất thô sơ, thủy thủ đoàn đã quăng xuống biển hàng loạt xô khổng lồ gắn với sợi thừng dài gần 5 km để vét đáy đại dương. Ngoài các loài cá và sinh vật chưa từng thấy trước đây, họ đã kéo lên hàng tá tảng đá có dạng giống như khoai tây hay kem ốc quế hóa thạch. Những tảng đá chủ yếu chứa mangan này xuất hiện ở khắp các đại dương, nghĩa là phải có hàng tỷ tảng đá như vậy rải rác khắp thế giới.
Đó chỉ là khúc dạo đầu. Điều ngạc nhiên thứ hai đến khi thủy thủ đoàn dập vỡ các tảng đá: mangan đã kết tụ xung quanh răng cá mập khổng lồ. Răng cá mập lớn nhất, kỳ dị nhất ngày nay chỉ dài tối đa khoảng 7 cm. Còn những chiếc răng được mangan bao bọc đó ít nhất cũng dài 13 cm. Chúng có thể nghiền nát xương dễ như ăn kẹo. Sử dụng các kỹ thuật cơ bản tương tự như với các hóa thạch khủng long, các nhà cổ sinh vật xác định (chỉ từ răng!) rằng loài mà sau này được đặt tên là megalodon dài khoảng 15 m, nặng xấp xỉ 50 tấn và có thể bơi với tốc độ khoảng 80 km/h. Bộ hàm 250 răng của nó hẳn phải có lực ngoạm lên tới ngàn tấn, nó chủ yếu ăn cá voi nguyên thủy ở vùng nước nông nhiệt đới. Loài cá mập này có lẽ đã tuyệt chủng khi con mồi di cư vĩnh viễn đến vùng nước lạnh hơn, sâu hơn – một môi trường không phù hợp với sự trao đổi chất cao và cơn đói dữ dội của nó.
Tất cả đều là khoa học chân chính, nhưng mangan đã khởi động “ảo tưởng”.* Răng cá mập la liệt ở dưới đáy đại dương vì chúng dường như là hợp chất sinh học cứng nhất và cũng là duy nhất của xác cá mập đã được biết tới là có thể tồn tại dưới áp suất ở đáy đại dương (hầu hết cá mập có bộ xương sụn). Trong rất nhiều kim loại tan trong nước biển, không rõ tại sao mangan lại kết tụ quanh răng cá mập, nhưng các nhà khoa học biết sơ sơ về tốc độ tích lũy của nó: khoảng 0,5 đến 1,5 mm mỗi thiên niên kỷ. Từ tốc độ đó, họ xác định rằng phần nhiều răng thu được ít nhất cũng có từ 1,5 triệu năm trước, nghĩa là megalodon có thể đã tuyệt chủng trong khoảng thời gian đó.
Nhưng một số răng megalodon lại có lớp màng mangan mỏng một cách bí ẩn, chỉ tương đương khoảng 11.000 năm. Và đây chính là lỗ hổng mà một số người theo khoa học ảo tưởng bấu víu vào. Đối với quá trình tiến hóa, 11.000 năm là một khoảng thời gian rất ngắn. Và thực sự không có gì đảm bảo rằng các nhà khoa học sẽ không thể tìm thấy một mẫu vật từ 10.000 năm trước, thậm chí là 8.000 năm trước hay còn gần đây hơn nữa.
Dễ thấy suy nghĩ này sẽ dẫn ta đến đâu. Vào những năm 1960, một số nhà nghiên cứu nghiệp dư với trí tưởng tượng như phim Công viên kỷ Jura tin chắc rằng loài megalodon vẫn sống lẩn khuất trong các đại dương. Họ hò reo “Megalodon vẫn còn kìa!”. Và giống như lời đồn về Khu vực 51 hay vụ ám sát Tổng thống Kennedy, những giai thoại về megalodon vẫn được truyền tụng tới tận ngày nay. Câu chuyện phổ biến nhất là megalodon đã tiến hóa để tồn tại dưới đáy biển sâu, và hiện đang chiến đấu với các loài thủy quái ở độ sâu thăm thẳm. Giống như những hồn ma bóng quế của Crookes, megalodon hẳn là đang lẩn tránh và đó là lý do phù hợp biện bạch cho việc ngày nay ta hiếm khi thấy loài cá mập siêu lớn đó.
Có lẽ ai cũng hy vọng rằng megalodon vẫn đang lảng vảng đâu đó giữa biển khơi. Thật không may, ý tưởng này không thể đứng vững khi được xem xét kỹ lưỡng. Đáng chú ý, những chiếc răng với lớp mangan mỏng chủ yếu rời ra từ đá nền dưới đáy đại dương (không thể tích tụ mangan), và chỉ tiếp xúc với nước gần đây. Chúng hẳn phải “già” hơn 11.000 năm tuổi rất nhiều. Tất cả nhân chứng nói từng tận mắt nhìn thấy quái thú đều là các thủy thủ vốn hay thêu dệt; và megalodon trong những câu chuyện của họ có kích thước và hình dạng khác nhau. Một con cá mập trắng dài tới 90 m, như trong tiểu thuyết Moby Dick! (Thật buồn cười khi không ai nghĩ đến việc chụp ảnh nó.) Nhìn chung, những câu chuyện như vậy quá mức chủ quan, cũng như lời tuyên bố của Crookes về những sinh vật siêu nhiên vậy. Nếu không có bằng chứng khách quan nào thì khó mà kết luận rằng megalodon (dù chỉ là vài con) có thể thoát khỏi tấm lưới săn bắt của Tiến hóa.
Nhưng điều thật sự khiến cho cuộc săn lùng megalodon trở thành ảo tưởng chính là nghi ngờ từ giới nghiên cứu lại củng cố thêm niềm tin cho mọi người. Thay vì bác bỏ trực tiếp những lập luận về lớp mangan mỏng của giới khoa học nghiêm túc, những người tin vào khoa học ảo tưởng phản công bằng những trường hợp “nổi loạn” chống lại lý thuyết khoa học chính thống. Họ luôn nhắc tới cá vây tay cổ: loài cá biển sâu nguyên thủy này xuất hiện tại một chợ cá ở Nam Phi vào năm 1938, dù được cho là đã tuyệt chủng 80 triệu năm trước. Theo logic đó, vì các nhà khoa học đã sai về cá vây tay cổ nên họ cũng có thể sai về megalodon. Và “có thể” là tất cả những gì một người yêu thích megalodon cần. Lý thuyết của họ về sự tồn tại hiện nay của loài này không dựa trên bằng chứng khoa học thực sự mà chỉ là cảm xúc: hy vọng, nhu cầu tin rằng điều phi thường là sự thực.
Những cảm xúc như vậy thể hiện rõ nhất trong trường hợp tiếp theo. Đây chính là trường hợp khoa học ảo tưởng vĩ đại nhất, là “người trong mộng” của các nhà tương lai học, thủy quái hydra trong giới khoa học: phản ứng hợp hạch lạnh.
Pons và Fleischmann. Fleischmann và Pons. Họ đáng nhẽ là bộ đôi khoa học vĩ đại nhất từ thời Watson và Crick, thậm chí là tính cả từ Marie và Pierre Curie. Nhưng rốt cuộc, danh tiếng của họ lại trở thành tai tiếng. Ngày nay, cái tên B. Stanley Pons và Martin Fleischmann chỉ gợi nhớ đến những kẻ mạo danh, lừa đảo và gian lận (dẫu có hơi bất công).
Có thể nói thí nghiệm xây dựng và hủy hoại danh tiếng của Pons và Fleischmann đơn giản tới không tưởng. Năm 1989, hai nhà hóa học của Đại học Utah này đã đặt một điện cực paladi trong bồn nước nặng và cho dòng điện chạy qua. Điện phân nước thường sẽ phân tách nó thành khí hydro và khí oxy. Điện phân nước nặng cũng tương tự như vậy, chỉ khác là hạt nhân hydro trong nước nặng có thêm một neutron. Vì vậy, thay vì phân tử h1 thông thường, Pons và Fleischmann lại thu được phân tử khí hydro nặng (deuteri) có thêm một neutron trong hạt nhân của mỗi nguyên tử.
Điều làm cho thí nghiệm này đặc biệt là sự kết hợp giữa hydro nặng với paladi – một kim loại ánh bạc có đặc tính gây sửng sốt: nó có thể hấp thụ lượng khí hydro nhiều gấp 900 lần thể tích bản thân. Điều này tương đương với một người đàn ông ngót nghét 120 kg nuốt được một tá voi đực châu Phi* mà vòng bụng không hề to thêm một centimet nào. Và khi điện cực paladi trong nước nặng bắt đầu hấp thụ deuteri, con số trên nhiệt kế và các dụng cụ khác của Pons và Fleischmann đã tăng vọt. Nước ấm hơn nhiều so với khả năng chuyển hóa thành nhiệt của dòng điện đang dùng để điện phân. Pons nói rằng: có lần nước nóng tới nỗi đã làm thủng một lỗ từ cốc xuống bàn thí nghiệm bên dưới nó và tới tận sàn bê tông.
Hoặc ít nhất thì nói nhiệt độ cũng tăng vọt vài lần. Nhìn chung, thử nghiệm rất thất thường; và với cùng một cách bố trí cũng như thực hiện, kết quả thu được lại không phải luôn luôn giống nhau. Nhưng thay vì tìm hiểu ở chỗ paladi, hai nhà khoa học này lại cho rằng họ đã phát hiện ra phản ứng hợp hạch lạnh ở nhiệt độ phòng, không cần tới nhiệt độ và áp lực cực lớn tại tâm các ngôi sao. Vì paladi có thể hấp thụ rất nhiều deuteri, họ đoán rằng nó đã hợp hạch proton và neutron thành heli (bằng cách nào đó) và giải phóng năng lượng trong quá trình đó.
Pons và Fleischmann đã nôn nóng mở một cuộc họp báo để công bố kết quả của họ, cơ bản ngụ ý rằng các vấn đề năng lượng của thế giới đã kết thúc. Thời đại của nguồn năng lượng rẻ và sạch đã tới. Và giống như chính paladi, giới truyền thông lập tức “hấp thụ” tuyên bố vĩ đại này. (Nhà vật lý Steven Jones – đồng nghiệp của họ ở Đại học Utah – cũng theo đuổi các thí nghiệm hợp hạch tương tự. Tuy nhiên, Jones không được chú ý vì ông đưa ra những tuyên bố khiêm tốn hơn.) Pons và Fleischmann lập tức nổi tiếng và sự cuồng nhiệt của dư luận có vẻ cũng ảnh hưởng cả giới khoa học. Trong một cuộc họp của Hội Hóa học Mỹ ngay sau công bố, bộ đôi này đã được hoan nghênh nhiệt liệt.
Nhưng có một số điều quan trọng cần lưu ý. Khi hoan nghênh Fleischmann và Pons, nhiều nhà khoa học có lẽ đang nghĩ về chất siêu dẫn. Cho đến năm 1986, các chất siêu dẫn được cho là không thể tồn tại ở nhiệt độ cao hơn -240°C. Đột nhiên, hai nhà nghiên cứu người Đức đã phát hiện ra chất siêu dẫn hoạt động ở nhiệt độ cao hơn. (Họ đã giành giải Nobel trong thời gian ngắn kỷ lục: chỉ một năm sau đó.) Các nhóm nghiên cứu khác tiếp tục phát hiện ra các chất siêu dẫn ytri “nhiệt độ cao” ở -173°C chỉ sau đó vài tháng. (Kỷ lục hiện nay là chất siêu dẫn ở -139 C.) Tuy nhiên, những nhà khoa học dự đoán sự bất khả thi của các chất siêu dẫn như vậy lại thấy bẽ bàng. Câu chuyện này trong vật lý siêu dẫn cũng giống như việc tìm ra cá vây tay cổ còn đang sống nhăn răng. Và giống như mơ mộng về megalodon, những tín đồ của phản ứng hợp hạch lạnh vào năm 1989 vin vào sự điên rồ của chất siêu dẫn khi đó, và buộc các nhà khoa học đối lập không vội vã quyết định. Thật vậy, tín đồ của phản ứng hợp hạch lạnh đã phát cuồng trước cơ hội lật đổ nền khoa học cũ – sự mê muội điển hình của khoa học ảo tưởng.
Tuy nhiên, vài người hoài nghi (đặc biệt là tại CalTech – Viện Công nghệ California) đã sôi lên. Phản ứng hợp hạch lạnh đã kích động bản năng khoa học của họ, còn sự kiêu ngạo của Pons và Fleischmann lại chọc giận sự khiêm tốn của họ. Hai người đó đã bỏ qua quá trình bình duyệt thông thường khi công bố kết quả. Một số người còn cho rằng họ là bọn bịp bợm muốn trục lợi, đặc biệt là sau khi trực tiếp kêu gọi Tổng thống George H. W. Bush đầu tư ngay 25 triệu đô la Mỹ cho quỹ nghiên cứu. Pons và Fleischmann cũng tự khiến hình ảnh của bản thân xấu đi khi không trả lời các câu hỏi về thiết bị paladi và quy trình thử nghiệm của họ, như thể cho rằng hỏi như vậy là xúc phạm. Họ tuyên bố không muốn ý tưởng của mình bị đánh cắp, nhưng điều này càng khiến họ trông như thể đang che giấu điều gì đó.
Mặc dù vấp phải sự bác bỏ của gần như toàn bộ giới khoa học trên thế giới, Stanley Pons và Martin Fleischmann vẫn tuyên bố đã tạo ra phản ứng hợp hạch ở nhiệt độ phòng. Thiết bị của họ gồm một bể nước nặng với các điện cực làm từ nguyên tố paladi. (Nguồn: Khoa Sưu tập Đặc biệt, Thư viện J. Willard Marriott, Đại học Utah, Mỹ)
Tuy nhiên, giới khoa học đầy hồ nghi trên thế giới (trừ Ý, nơi đã xuất hiện thêm một tuyên bố phản ứng hợp hạch lạnh) đã làm đúng như những gì Stanley Pons và Martin Fleischmann công bố nhằm tái lặp kết quả của thí nghiệm về paladi và deuteri, và bắt đầu vả vào mặt bộ đôi của Đại học Utah những kết quả là số không tròn trĩnh. Vài tuần sau, trong nỗ lực hẳn phải mạnh mẽ nhất từ thời Galileo nhằm phản đối hoặc bôi xấu giới khoa học, hàng trăm nhà hóa học và vật lý đã tổ chức mít tinh chống lại Pons và Fleischmann ở Baltimore. Họ đã chứng minh bộ đôi này phạm phải sai lầm rất thô thiển và đáng xấu hổ: sử dụng kỹ thuật đo lường sai và bỏ qua các lỗi thực nghiệm. Một nhà khoa học cho rằng hai người đã để khí hydro tích tụ, và những đỉnh “hợp hạch” lớn nhất thực ra là vụ nổ hóa học giống như đã xảy ra ở thảm họa Hindenburg 1 vậy. (Đỉnh được cho là hợp hạch tạo ra các lỗ trên bàn thí nghiệm xảy ra trong đêm, khi không có ai xung quanh.) Thông thường phải mất nhiều năm để tìm ra một lỗi khoa học (hoặc ít nhất là để giải quyết một câu hỏi gây tranh cãi), nhưng phản ứng hợp hạch lạnh đã chết trong “ghẻ lạnh” chỉ sau vỏn vẹn 40 ngày kể từ lần đầu công bố. Một người tham dự hội nghị đã tóm tắt lại câu chuyện ầm ĩ này bằng những vần thơ châm biếm, tuy còn hơi lạc điệu:
Anh em ơi,
Hàng chục triệu đô vừa đặt vào canh bạc
Bởi lẽ có mấy cha làm khoa học
Đặt nhiệt kế vào chỗ này thay vì chỗ khác.
Nhưng những hiệu ứng tâm lý thú vị của câu chuyện vẫn tiếp diễn. Nhu cầu tin vào năng lượng sạch, rẻ của thế giới quá mãnh liệt và mọi người khó có thể bình tâm. Và đây là nơi khoa học biến thành ảo tưởng. Giống như trong ngoại cảm, dường như chỉ có cô đồng mới có khả năng mang lại các kết quả then chốt và chỉ trong những điều kiện không công khai được. Chính vì vậy, giới đam mê phản ứng hợp hạch lạnh không những không dừng lại, mà còn khuyến khích giới đam mê nghiệp dư. Pons và Fleischmann cũng không thoái lui, và những người ủng hộ nói đỡ rằng hai người (và cả chính mình) là những “kẻ nổi loạn” quan trọng: những người duy nhất hiểu chuyện . Sau năm 1989, một số nhà phê bình khoa học phản bác bằng các thí nghiệm của chính họ, nhưng các tín đồ của phản ứng hợp hạch lạnh luôn có khả năng thanh minh cho mọi kết quả tồi tệ (có khi còn giỏi hơn cả những gì họ thể hiện trong công trình khoa học ban đầu). Các nhà phê bình cuối cùng đã bỏ cuộc. Nhà vật lý David Goodstein của CalTech tóm tắt mọi vấn đề trong một bài luận xuất sắc về phản ứng hợp hạch lạnh: “Vì nhóm Hợp hạnh Lạnh coi bản thân họ là một cộng đồng đang bị bủa vây nên những phê bình nội bộ không xuất hiện nhiều. Các thử nghiệm và lý thuyết thường được chấp nhận từ đầu bởi nỗi lo sợ rằng thông tin sẽ đến tai các nhà phê bình (nếu họ có để tâm nghe ngóng). Trong trường hợp này, những kẻ gàn dở sẽ khua môi múa mép và khiến cho mọi thứ trở nên tệ hơn với những ai tin rằng ở đây họ đang làm khoa học nghiêm túc”. Khó có thể mô tả súc tích về khoa học ảo tưởng hơn thế.*
1 . Thảm họa Hindenburg (6/5/1937) là sự kiện diễn ra khi tàu bay khinh khí nổi tiếng LZ 129 Hindenburg bị bắt lửa tại cột mốc kéo và đâm đầu xuống cháy rụi tại New Jersey (Mỹ). Vụ tai nạn kinh hoàng này khiến 35 người thiệt mạng trong số 97 người trên tàu, và đã kết thúc kỷ nguyên của tàu bay khinh khí. (BTV)
Lời giải thích bao dung nhất về Pons và Fleischmann là họ không phải lũ lừa đảo biết hợp hạch lạnh bất khả thi nhưng muốn nhanh ghi điểm. Họ sẽ bị bắt, bởi bấy giờ không còn là năm 1789 – thời mà có thể lừa từ thị trấn này sang thị trấn khác – nữa. Có thể họ đã hồ nghi nhưng lại bị tham vọng làm mờ mắt và muốn được cả thế giới tôn sùng, dù chỉ trong khoảnh khắc. Hoặc chỉ đơn giản là hai người bị lừa bởi một tính chất kỳ quặc của paladi. Tới nay cũng không ai biết paladi hấp thụ được nhiều hydro đến thế bằng cách nào. Nhằm vớt vát các nghiên cứu của Pons và Fleischmann (tuy loại bỏ quan điểm của họ), một số nhà khoa học thực sự nghĩ rằng có điều kỳ quặc đang diễn ra trong các thí nghiệm với nước nặng và paladi. Những bong bóng kỳ lạ xuất hiện trong paladi, còn các nguyên tử của nó tự sắp xếp lại theo những cách mới lạ. Có lẽ thậm chí đã xảy ra một số tương tác hạt nhân yếu. Dù sao, Pons và Fleischmann đã tiên phong trong lĩnh vực này. Tên của hai người sẽ được khắc ghi vào lịch sử khoa học, chỉ là không theo cách mà họ thích.
Dĩ nhiên, không phải mọi nhà khoa học điên đều chìm đắm trong khoa học ảo tưởng. Crookes đã thức tỉnh và tiếp tục có những nghiên cứu tuyệt vời. Cũng có những trường hợp hiếm hoi khi mà khoa học chân chính ban đầu lại chẳng khác gì khoa học ảo tưởng. Nhờ Wilhelm Röntgen gắng hết sức để chứng minh bản thân sai – một tín điều của phương pháp khoa học – khi theo đuổi một khám phá căn bản về các bức xạ vô hình nhưng không thể, nhà khoa học có tinh thần mong manh này đã mãi mãi lưu danh sử sách.
Vào tháng 11 năm 1895, Röntgen đang trong phòng thí nghiệm ở miền trung nước Đức với một ống Crookes – công cụ mới quan trọng để nghiên cứu các hiện tượng ở cấp độ hạ nguyên tử. Được đặt theo tên người phát minh ra nó (nhà-khoa-học-mà-bạn-biết-là-ai-đấy), ống Crookes bao gồm một bóng chân không thủy tinh với hai tấm kim loại đặt ở hai đầu. Khi có dòng điện chạy qua, một chùm tia sẽ bắn ra dọc khoảng không giữa hai tấm. Các nhà khoa học hiện nay đều biết đó là chùm tia electron, nhưng Röntgen và giới khoa học năm 1895 thì không. Họ đã phải cố gắng tìm ra đó là gì.
Một đồng nghiệp của Röntgen đã phát hiện ra khi ông sử dụng một ống Crookes có lá nhôm nhỏ (gợi nhớ đến lá titan mà Per-Ingvar Brånemark hàn vào xương thỏ sau đó), chùm tia sẽ xuyên qua lá kim loại vào không khí quanh ống. Nó bị không khí dập tắt khá nhanh nhưng lại có thể thắp sáng một màn hình lân quang cách xa vài centimet. Röntgen kích động đến nỗi quyết lặp lại tất cả các thí nghiệm (dù là nhỏ nhất) của mọi đồng nghiệp. Vì thế ông đã tự mình thiết kế thí nghiệm này vào năm 1895, nhưng với một số thay đổi. Thay vì để ống Crookes trần, ông phủ nó bằng giấy đen để chùm tia chỉ thoát qua lá kim loại. Và thay vì chất lân quang mà đồng nghiệp sử dụng, ông đã sơn các tấm kính ảnh bằng một hợp chất bari phát quang.
Kể từ đây, câu chuyện bắt đầu tam sao thất bản. Khi Röntgen đang chạy một số thử nghiệm nhằm đảm bảo rằng chùm tia truyền giữa các điện cực đúng cách, một hiện tượng lạ thu hút sự chú ý của ông. Hầu hết các dị bản đều nói rằng đó là một miếng bìa cứng được phủ muối bari mà ông dựng trên bàn gần đó. Lại có đồng nghiệp nói rằng đó là một mảnh giấy mà một sinh viên tinh nghịch lấy tay vẽ chữ A hay S bằng muối bari. Dù gì đi nữa, Röntgen – vốn bị mù màu – cũng chỉ nhìn thấy một vệt trắng nhảy múa qua khóe mắt. Nhưng mỗi khi ông bật điện, tấm bìa có muối bari (hoặc chữ cái) lại phát sáng.
Röntgen xác nhận rằng không có ánh sáng nào thoát ra khỏi ống Crookes đã được bọc đen. Phòng thí nghiệm rất tối nên ánh nắng mặt trời cũng không thể gây phát quang được. Nhưng ông cũng biết chùm tia Crookes không thể tồn tại đủ lâu trong không khí để nhảy đến tận tấm kính ảnh hay tờ giấy. Sau này, ông thừa nhận từng nghĩ rằng mình bị ảo giác: chùm tia rõ ràng phát ra từ ống, nhưng ông không biết thứ gì có thể xuyên qua tờ giấy đen bọc quanh ống.
Vì vậy, Röntgen đã dựng lên một tấm chắn phủ muối bari và đặt một cuốn sách gần ống để chặn chùm tia. Trước sự thất kinh của ông, hình viền của chiếc chìa khóa đang đánh dấu trang xuất hiện trên tấm chắn. Có vẻ ông đã nhìn xuyên qua vật. Ông thử đặt đồ vật vào các hộp gỗ kín nhưng vẫn nhìn thấy vật trong hộp. Nhưng khoảnh khắc đáng sợ nhất là khi ông cầm một thanh kim loại và nhìn thấy xương bàn tay của chính mình. Đến lúc ấy, Röntgen không cho đó là ảo giác nữa mà nghĩ mình đã phát điên rồi.
Ngày nay, ta hẳn sẽ bật cười khi thấy ông quá tỉ mỉ trong quá trình phát hiện ra tia X, nhưng hãy bàn đến thái độ đáng lưu ý của ông. Thay vì vội vã kết luận rằng mình đã phát hiện ra một điều hoàn toàn mới, Röntgen cho rằng ông đã phạm sai lầm ở đâu đó. Xấu hổ và quyết tâm tìm ra sai lầm ấy, ông nhốt mình trong phòng thí nghiệm suốt bảy tuần. Ông cho các trợ lý nghỉ, chỉ dùng bữa cho có và càu nhàu còn nhiều hơn trò chuyện với gia đình. Không giống như Crookes, đám người mê megalodon hay Pons và Fleischmann, Röntgen đã miệt mài làm việc để phát hiện của mình phù hợp với nền vật lý đã biết. Ông không muốn tạo ra một cuộc cách mạng.
Trớ trêu thay, dù đã làm mọi thứ để tránh khoa học ảo tưởng, các ghi chép của Röntgen cho thấy ông không thể rũ bỏ được suy nghĩ rằng mình đã phát điên. Hơn nữa, việc luôn lẩm bẩm kèm tính khí thất thường cũng khiến người khác nghi ngờ sự tỉnh táo của ông. Ông nói đùa với vợ là Bertha rằng: “Việc tôi đang làm sẽ khiến mọi người phải thốt lên ‘Thằng cha Röntgen phát điên rồi!’” Khi đó ông đã tới tuổi ngũ tuần, và vợ ông hẳn cũng tin ít nhiều.
Tuy nhiên, ống Crookes vẫn thắp sáng các tấm có muối bari, bất kể ông không muốn tin thế nào đi nữa. Vì vậy, Röntgen bắt đầu ghi lại hiện tượng này. Một lần nữa, không như ba trường hợp ảo tưởng ở trên, ông bác bỏ mọi tác động thoáng qua hoặc thất thường, mọi yếu tố được coi là chủ quan. Ông chỉ tìm kiếm kết quả khách quan: như các tấm kính ảnh. Sau khi tự tin hơn một chút, một chiều nọ, ông đưa Bertha vào phòng thí nghiệm và chiếu tia X lên tay vợ. Bà đã hoảng hốt khi nhìn thấy xương của mình, nghĩ rằng đó là điềm báo tử. Bà từ chối quay lại phòng thí nghiệm “bị ma ám” của ông, nhưng phản ứng của bà đã giúp Röntgen trút bỏ được gánh nặng trong lòng. Có lẽ đây sẽ là hành động yêu thương lớn nhất mà bà Bertha làm cho ông, vì điều này chứng minh rằng ông không hề tưởng tượng ra mọi thứ.
Sau đó, Röntgen rời phòng thí nghiệm với vẻ hốc hác và thông báo cho các đồng nghiệp trên khắp châu Âu về “tia röntgen”. Và tất nhiên là họ nghi ngờ ông như nghi ngờ Thuật thông linh của Crookes, hay những nhà khoa học sau này sẽ bác bỏ ý tưởng cho rằng megalodon còn sống và phản ứng hợp hạch lạnh vậy. Nhưng Röntgen rất kiên nhẫn và khiêm tốn: mỗi khi có người phản đối, ông đáp trả rằng mình đã kiểm tra khả năng đó, cho đến khi không còn ai phản đối nữa. Đây là ngoại lệ hiếm hoi bên cạnh những câu chuyện thường có kết cục không mấy tốt đẹp của khoa học ảo tưởng.
Các nhà khoa học rất khắt khe với những ý tưởng mới. Bạn có thể tưởng tượng ra họ đang thắc mắc: “Chùm tia bí ẩn vô hình nào lại có thể xuyên qua giấy đen và chụp được xương trong cơ thể ông vậy, Wilhelm?”
Ảnh chụp tia X thời đầu này cho thấy xương và chiếc nhẫn đáng ngưỡng mộ của bà Bertha Röntgen, vợ Wilhelm Röntgen. Vốn cho rằng mình đã phát điên, Wilhelm nhẹ cả người khi vợ ông cũng nhìn thấy xương bàn tay bà trên một tấm kính ảnh phủ muối bari. Vợ ông thì không được vui vẻ như vậy và nghĩ rằng đó là điềm báo tử.
Nhưng khi ông đưa ra bằng chứng vững chắc, các thí nghiệm lặp lại nhiều lần, hầu hết đã vứt bỏ định kiến và chấp nhận ý tưởng của ông. Từ một giáo sư thường thường bậc trung, Röntgen đã trở thành người hùng khoa học lừng danh. Năm 1901, ông giành giải Nobel Vật lý đầu tiên. Hai thập kỷ sau, nhà vật lý Henry Moseley đã sử dụng thí nghiệm tia X tương tự để cách mạng hóa việc nghiên cứu bảng tuần hoàn. Mãi cho tới cả thế kỷ sau, vào năm 2004, người ta vẫn mến mộ ông tới mức đặt cho nguyên tố thứ 111 lớn nhất trên bảng tuần hoàn lúc bấy giờ (khi đó tạm gọi là “unununi”) cái tên “roentgeni”.