NHỮNG ĐỒNG ÊQUY CỦA CỤ ARNƠ TẠI NHÀ GIÁO SĨ XỨ XONBERGA -
Thời vua Frêđêrich đệ nhị, nước Đan Mạch còn trị vì xứ Bôhuxlăng, có một bác hàng cá nghèo tên là Tôraranh sinh sống ở Marxt'răng. Bác ta người gầy còm, yếu ớt. Một cánh tay bác bị tê liệt nên bác không chèo thuyền và đánh cá được. Bác không thể kiếm ăn trên mặt biển như mọi người dân khác trên quần đảo, nhưng bác đi khắp các miền trên cạn để bán cá muối, cá khô. Quanh năm bác đi từ làng này sang làng khác với cỗ xe chở cá, vì thế rất ít khi bác có mặt ở nhà.
Một ngày tháng hai, Tôraranh đánh chiếc xe trượt băng đi từ khu Kungxan tới giáo khu Xonberga. Mặt trời đang lặn. Con đường thật vắng vẻ. Không một người qua lại. Nhưng không vì thế mà Tôraranh phải im lặng. Trong xe, bên cạnh bác là một người bạn tốt mà bác có thể chuyện trò. Đó là một con cún mực, lông xù. Tôraranh đặt tên cho nó là Grim. Grim hầu như lúc nào cũng nằm im, đầu ghểnh lên hai chân trước, và chỉ nhấp nháy con mắt khi nghe chủ nói. Thế nhưng chỉ cần nghe thấy một tiếng động không vừa ý là nó đứng phắt dậy trong cỗ xe, hếch mũi đánh hơi và tru lên khủng khiếp hơn cả chó sói.
- Grim này, tao phải kể cho mày nghe những tin quan trọng tao vừa hay nhé, - Tôraranh nói, - Ở Kungxan cũng như ở Karêbi, người ta kể với tao rằng biển đã đóng băng rồi. Dạo này trời đẹp và yên tĩnh, chắc mày biết rõ điều đó hơn ai hết vì ngày nào mày chẳng ở trên đường. Biển đóng băng không những trong các vịnh, các eo, mà còn đến tận Katơgat. Tàu bè không thể qua lại giữa các đảo được nữa. Khắp nơi toàn những băng cứng chắc, người ta có thể đi ngựa, đi xe đến tận Macxt'răng và dùng đá ngầm Patenôxte.
Con chó nghe chủ nói có vẻ thích thú. Nó nằm yên cạnh Tôraranh, nhấp nháy đôi mắt.
- Xe chúng ta hết cá rồi, - Tôraranh nói tiếp với giọng của một người muốn thuyết phục. - Nếu đến ngã tư tới, chúng ta đổi hướng, rẽ sang hướng tây về phía bờ biển thì mày thấy thế nào? Chúng ta sẽ đi qua nhà thờ Xonberga để tới Ôtxmanxkin, từ đấy tao cho rằng không quá tám dặm nữa là về đến Marxt'răng thôi. Kể ra có lần trở về nhà mà không phải đi tàu bè thì cũng thật trứ danh đấy nhỉ.
Tôraranh và con chó vượt qua cái truông rộng Karêbi, và mặc dầu trời lặng gió, một làn hơi lạnh tràn qua truông tạt vào mặt, làm hai thầy trò đi rất vất vả.
- Có lẽ thiên hạ thấy chúng ta trở về nhà vào lúc công việc rất thuận lợi, sẽ bảo chúng ta là đồ lười, - Tôraranh vừa nói vừa vung tay cho đỡ lạnh. Nhưng tao với mày lang thang trên đường đã mấy tuần rồi, vậy chúng ta cũng phải được ngồi bên lò sưởi vài hôm để xua tan cái lạnh thấu tận xương tủy chứ.
Thấy con chó vẫn im lặng, Tôraranh càng vững dạ. Bác vui vẻ nói tiếp:
- Mẹ tao ở nhà một mình suốt thời gian qua, bà ta rất mong chúng ta về. Vả lại sống ở Marxt'răng vào mùa đông thì thật thích thú, Grim nhỉ, phố lớn, phố nhỏ đều tấp nập những dân chài và những lái buôn nước ngoài, và trong nhà các dân chài, tối nào cũng có khiêu vũ: trong các quán rượu bia tuôn như suối. Mày không thể tưởng tượng được đâu.
Sau bài diễn thuyết đó, Tôraranh cúi xuống xem con chó có nghe mình nói không.
Con chó không ngủ và chẳng tỏ ra có một dấu hiệu phản đối nào cả, vì thế Tôraranh rẽ vào con đường đầu tiên chạy về hướng tây ra biển. Bác quất roi da vun vút bên tai con ngựa để thúc nó đi cho nhanh.
- Chúng ta sắp đi qua nhà giáo sĩ xứ Xonberga, - Tôraranh nói, - tao phải vào đó để hỏi xem có đúng là đóng băng đến tận Marxt'răng không. Ở đó chắc là họ biết đấy.
Tôraranh nói nhỏ, không để ý xem con chó có nghe thấy hay không. Nhưng bác vừa dứt lời, con chó đã chồm dậy, tru lên kinh khủng.
Con ngựa nhảy sang một bên và ngay cả Tôraranh cũng hoảng hốt quay đầu nhìn lại xem có chó sói đuổi theo không. Nhưng khi nhìn thấy chính là Grim đang tru lên, bác tìm cách trấn tĩnh nó.
- Grim thân yêu, - bác nói - tao với mày đã vào nhà giáo sĩ xứ Xonberga biết bao nhiêu lần rồi còn gì. Tao không rõ cụ Arnơ có biết tình hình đóng băng ra sao không, nhưng tao biết chắc cụ ấy sẽ thết chúng ta một bữa ngon lành trước khi chúng ta đi lên mặt biển đóng băng.
Song, những lời của Tôraranh chẳng làm yên lòng con chó. Nó vẫn hếch mũi đánh hơi và càng tru lên kinh khủng hơn khiến chẳng mấy chốc Tôraranh bắt đầu thấy khó chịu.Trời đã nhá nhem tối, song Tôraranh vẫn nhận ra nhà thờ Xonberga nằm giữa cánh đồng mênh mông có những ngọn đồi cây cối um tùm che chở về phía đất liền và có những vách đá trơ trụi bao bọc về phía biển. Đi một mình trong khoảng trống bao la trắng xóa này, Tôraranh cảm thấy mình nhỏ xíu như một sinh vật bé nhất, trong khi những yêu quái chui từ khu rừng tối xẫm, từ những ngọn đồi hoang vu ra và đi lởn vởn trên khoảng đất trống nhân lúc tối trời. Và trên khắp bình nguyên này, chúng chẳng thấy một ai để vồ cả, ngoài Tôraranh.
Tuy vậy, Tôraranh vẫn tìm cách trấn an con chó.
- Thôi đi Grim, có điều gì khiến mày không thích cụ Arnơ như vậy. Cụ là người giàu có nhất vùng này. Cụ thuộc dòng dõi quý tộc, nếu cụ không làm mục sư thì chắc cụ đã là một lãnh chúa có thế lực rồi.
Con chó vẫn không chịu nghe. Thế là Tôraranh sốt ruột, nắm lấy cổ nó và quẳng nó xuống đất.
Con chó không chạy theo xe. Nó dừng lại trên đường, tiếp tục tru lên cho tới khi chiếc xe đến trước cái cổng đen ngòm của nhà giáo sĩ, rồi tiến vào trong sân có bốn căn nhà gỗ thấp, dài bao quanh.
2
Tại nhà giáo sĩ xứ Xonberga, cụ Arnơ đang ngồi ăn bữa tối với cả nhà. Ngoài Tôraranh, trong phòng không có một khách lạ nào khác.
Mục sư là một cụ già tóc bạc, nhưng trông còn cường tráng, tuổi già chưa làm còng nổi thân hình cao lớn của cụ. Bà vợ của cụ ngồi bên cụ, bà bị ảnh hưởng của tuổi tác nhiều hơn. Đầu và hai bàn tay bà cứ run rẩy liên hồi, còn tai bà thì đã nghễnh ngãng. Ngồi phía bên kia mục sư là ông phó mục sư, một người còn trẻ với khuôn mặt xanh xao đầy vẻ ưu tư. Ông ta có vẻ không gánh nổi mớ kiến thức mà ông đã thu thập được hồi còn đi học ở Vittăngbe.
Ba nhân vật này ngồi ở phía đầu bàn ăn kê cao cao có vẻ tạo thành một nhóm riêng. Tôraranh ngồi ở phía dưới, rồi tiếp đến các gia nhân, hầu hết đã có tuổi. Ba lão bộc đều đầu hói, lưng còng, mắt hấp háy và đầy nước mắt. Chỉ có bầu ngực già là còn tương đối trẻ và nhanh nhẹn hơn đôi chút. Tuy vậy, những tật nhược của tuổi già cũng làm cho họ trông yếu ớt và cứng nhắc.
Ngồi phía đầu bàn bên kia là hai cô gái. Một cô là cháu gọi cụ Arnơ bằng ông. Cô ta chưa quá mười bốn tuổi. Tóc vàng, người thon thả, khuôn mặt còn nét trẻ con, nhưng chắc cô sẽ trở thành một thiếu nữ xinh đẹp. Bên cạnh cô là một cô gái nghèo mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống trong nhà giáo sĩ. Hai cô bé ngồi sát vào nhau, rõ là một đôi bạn chí thân.
Mọi người ngồi ăn, hoàn toàn im lặng. Tôraranh hết nhìn người này đến người khác, nhưng chẳng ai muốn nói chuyện trong bữa ăn cả.
Mấy cụ già nghĩ bụng: "Thật là phúc lớn cho ta, ta được nuôi ăn và không phải chịu cảnh đói nghèo như ta đã nhiều lần trải qua trong cuộc đời. Trong khi ăn, ta chẳng nên nghĩ tới điều gì khác ngoài việc biết ơn Chúa nhân từ."
Tôraranh chẳng có ai để nói chuyện, nên đưa mắt nhìn khắp căn phòng. Bác nhìn từ chiếc lò sưởi lớn nhiều tầng xây sát tường, gần cửa ra vào, tới chiếc giường có tán che đặt trong góc phòng đối diện. Bác cũng nhìn những chiếc ghế dài kê dọc quanh tường và những cái cửa qua đó khói thoát ra ngoài, đồng thời cũng do đó mà khí lạnh mùa đông tràn vào cuồn cuộn. Ngắm nghía tất cả những cái đó, bác hàng cá Tôraranh, vốn sống trong túp lều bé nhỏ nhất, nghèo nàn nhất quần đảo nghĩ bụng: "Nếu như mình là một người có quyền thế, như cụ Arnơ, mình sẽ không chịu ở trong một căn phòng cổ lỗ sĩ chỉ có mỗi một phòng như thế này. Mình sẽ cho xây một tòa nhà có đầu hồi cao, có nhiều phòng như nhà của ngài thị trưởng và ngài thẩm phán Marxt'răng".
Song, vật làm cho Tôraranh luôn luôn chú ý đến nhiều nhất là cái rương bằng gỗ sồi đặt dưới chân chiếc giường có tán. Thiên hạ đồn rằng cụ Arnơ cất cả gia tài trong đó: những đồng bạc nhiều đến nỗi chất đầy đến tận miệng rương.
Và Tôraranh, con người đáng thương rất ít khi có nổi một đồng bạc trong túi, nghĩ: "Mình thật chẳng muốn có đống của cải này. Thiên hạ đồn rằng cụ Arnơ lấy nó trong các tu viện lớn ở xứ này ngày trước, và các tu sĩ già tiên đoán rằng số tiền của đó sẽ gây tai họa cho cụ".
Trong khi Tôraranh suy nghĩ như vậy, bác thấy bà cụ chủ nhà đưa tay lên tai để nghe cho rõ hơn, rồi quay lại bảo cụ Arnơ và hỏi: "Sao họ lại mài dao ở Branơhốc nhỉ?"
Trong phòng đang yên lặng như tờ, nên mọi người rùng mình và ngước mắt nhìn lên, hoảng hốt khi nghe bà cụ có vẻ đang lắng nghe cái gì, mọi người đặt thìa xuống và cũng gắng lắng nghe.
Mọi tiếng động đều bặt đi trong phòng, trong một lúc, nhưng bà chủ dường như càng lo lắng hơn. Bà đặt tay mình lên tay cụ Arnơ và nhắc lại: "Tôi không hiểu sao tối nay ở Branơhốc người ta cứ mài dao hoài vậy?"
Tôraranh thấy cụ Arnơ vuốt ve bàn tay vợ để trấn tĩnh bà, nhưng cụ không trả lời vợ và vẫn bình tĩnh ngồi ăn.
Nhưng bà cụ vẫn lắng tai nghe, nước mắt trào ra, đầu và tay bà càng run rẩy hơn vì sợ hãi.
Thế là hai cô gái ở đầu bàn bên kia cũng bắt đầu khóc vì sợ.
- Thế không ai nghe thấy tiếng mài ken két và tiếng giũa à? - Bà hỏi. - Không ai nghe thấy tiếng thép rít lên à?
Cụ Arnơ vẫn ngồi bình tĩnh và luôn luôn vuốt tay vợ. Cụ chưa lên tiếng thì chẳng một ai dám hé môi cả. Nhưng mọi người đều nghĩ rằng bà chủ đã cảm nhận thấy một tiếng động ghê rợn, báo trước những điềm bất hạnh lớn. Máu như ngừng chảy trong mạch máu. Chẳng còn ai ăn nữa, trừ cụ Arnơ.
Mọi người nghĩ rằng trước đây bà cụ chủ là người trông nom nhà cửa, bà luôn luôn ở nhà săn sóc một cách khôn khéo và hiền hậu, con cháu, đầy tớ, của cải, súc vật nên tất cả mọi việc đều tốt đẹp. Tuy bây giờ bà đã già yếu, chắc chắn bà là người trước tiên thấy được mối nguy đang đe dọa cả nhà.
Bà chủ mỗi lúc một kinh hãi thêm. Hai tay chắp lại, bà nức nở vì tuyệt vọng, nước mắt chảy dòng dòng trên gò má nhăn nheo.
- Arnơ Arnexông, thế mình không cần biết vì sao tôi sợ hãi đến thế à? - Bà rên rỉ.
Lúc đó cụ Arnơ nghiêng đầu về phía bà và nói:
- Tôi không biết vì sao mình lại hoảng hốt như vậy.
- Tôi sợ những con dao dài mà bọn chúng đang mài ở Branơhốc.
- Làm sao mà mình lại nghe được tiếng mài dao ở tận Branơhốc? - Cụ Arnơ bật cười nói. - Cái ấp đó cách gần một dặm cơ mà. Thôi mình hãy cầm lấy thìa và ăn nốt cho xong bữa đi.
Bà chủ cố nén sợ, cầm lấy thìa định múc sữa trong bát, xong thìa va vào miệng bát vì tay bà cứ run bắn lên.
Mọi người đều nghe thấy tiếng va chạm, và bà chủ vội vàng đặt thìa xuống nói: "Làm sao tôi có thể ăn nổi, tôi chỉ nghe thấy tiếng ken két, rin rít thôi!".
Lúc này, cụ Arnơ đẩy bát sữa ra và chắp hai tay lại. Mọi người làm theo, và ông phó mục sư bắt đầu đọc bài kinh tối. Kinh đọc xong, cụ Arnơ nhìn những người ngồi quanh bàn, thấy mặt họ tái xanh và hoảng hốt, cụ nổi giận, và bắt đầu kể về thời kỳ cụ mới đặt chân tới xứ Bôhuxlăng để thuyết giáo về cuộc cải cách của Luyte. Cụ và các môn đệ phải trốn phe cánh của giáo hoàng La Mã, chúng truy lùng cụ như lùng thú rừng.
- Thế chúng ta chẳng đã trông thấy kẻ thù rình mò khi chúng ta tới cửa Chúa đó sao? Thế chúng ta chẳng đã bị đuổi khỏi giáo khu và phải nương thân trong rừng như những kẻ không có tổ quốc đó sao? Vậy mà bây giờ chúng ta lại điên đầu lên chỉ vì một điềm gở hay sao?
Cụ Arnơ nói với vẻ mặt của một chủ tướng khiến mọi người lấy lại được can đảm.
- Đúng như vậy đấy, - họ nói với nhau. - Chúa đã che chở cho cụ Arnơ trong những cơn nguy nan nhất. Bàn tay chúa bảo vệ cụ. Chúa sẽ không để cho kẻ tôi tớ của Người bị chết đâu.
3
Tôraranh vừa ra đến đường cái là con Grim chạy ngay lại và nhảy lên xe trượt. Nhưng thấy con chó đã đứng đợi bác trước nhà giáo sĩ, Tôraranh lại cảm thấy lo lắng.
- Grim này, sao mày lại đứng ngoài cửa suốt buổi tối thế, sao mày không vào nhà để họ cho ăn? - Bác nói với con chó. - Một tai họa đang đe dọa cụ Arnơ chăng? Phải chăng đây là lần cuối tao gặp cụ ấy? Song một chiến sĩ quả cảm như cụ cũng có ngày phải chết. Cụ sắp tròn chín mươi tuổi rồi còn gì.
Tôraranh đánh ngựa vào con đường đi qua ấp Branơhốc để đến Ôtxmanxkin.
Vừa tới ấp Branơhốc, bác thấy trong sân có nhiều xe trượt. Ánh sáng trong nhà lọt qua những lá cửa chớp khép kín. Tôraranh nói với con Grim:
"Ở đây họ chưa ngủ đâu, tao vào hỏi họ xem tối nay ở đây có ai mài dao không?"
Bác đánh xe áp sát khu nhà chính. Khi bác đẩy cửa bước vào, bác thấy ở đây đang có một cuộc họp mặt đông vui. Các cụ già ngồi uống bia trên những ghế dài kê dọc tường, thanh niên vui chơi ca hát ở giữa phòng.
Nhìn lướt qua, Tôraranh biết ngay ở đây chẳng ai định chuẩn bị vũ khí để làm chuyện đổ máu cả. Bác bèn khép cửa lại, định bỏ đi, song ông chủ nhà đã chạy theo mời bác nghỉ chân một lát, vì dù sao bác cũng tới Branơhốc rồi. Ông ta dẫn bác quay lại trong phòng.
Tôraranh tán chuyện với mấy người nông dân một lúc lâu. Họ thật là vui tính, ngay bác cũng cảm thấy vui vẻ, quên cả những linh cảm đen tối lúc trước.
Nhưng bác vẫn chưa phải là người khách cuối cùng đến dự cuộc vui này. Sau khi bác vào một lúc lâu, có hai người, một đàn ông, một đàn bà, xuất hiện trên ngưỡng cửa. Họ ăn mặc xoàng xĩnh, rụt rè đứng trong góc tường giữa lò sưởi và cửa ra vào.
Ông chủ nhà vồn vã tới đón những người khách mới, cầm tay dắt họ vào trong phòng, vừa đi vừa nói với mọi người.
- Người ta thật có lý khi nói rằng, những kẻ ở gần nhất lại thường đến chậm nhất. Đây là những người hàng xóm gần nhất của tôi. Chúng tôi là những người nông dân duy nhất ở Branơhốc đấy.
- Phải nói bác là người nông dân duy nhất mới đúng, - người đàn ông nói, - bác đừng coi tôi là nông dân, tôi chỉ là một người đốt than nghèo được bác cho ở nhờ trên đất của bác thôi.
Người đàn ông ngồi xuống bên Tôraranh, và hai bên nói chuyện với nhau. Người khách mới kể cho Tôraranh biết vì sao bác ta đến muộn. Vợ chồng bác có khách lạ đến nhà nên không dám đi đâu. Đó là ba người thợ thuộc da, họ đã ở đậu nhà bác suốt cả ngày. Sáng sớm họ đến, trông họ ốm yếu và kiệt sức. Họ kể rằng họ đã ở trong rừng suốt cả tuần. Nhưng sau khi ăn uống ngủ nghê, họ đã lại sức. Đến chiều, họ hỏi xem ấp nào lớn nhất, giàu có nhất vùng này, họ muốn tới đó may ra kiếm được việc làm, bác gái đã trả lời rằng nhà giáo sĩ Arnơ là nơi sang trọng nhất. Thế là mấy người khách ấy rút ngay trong sắc ra những con dao dài và bắt đầu mài. Họ mài mất một lúc lâu. Trong khi mài nét mặt họ lộ vẻ hung ác đến nỗi vợ chồng bác không dám đi đâu khỏi nhà.
- Tôi như còn thấy họ ngồi mài dao ken két, - bác nói, - trông họ thật ghê gớm với bộ râu dài lâu ngày không sửa, với bộ áo da thú rách rưới bẩn thỉu - Tôi tưởng như có ba con yêu tinh đang ở nhà mình. Cuối cùng, khi họ ra đi, tôi thấy nhẹ cả người.
Sau khi nghe câu chuyện trên, đến lượt Tôraranh kể cho người đốt than nghe cảnh bác được chứng kiến tại nhà giáo sĩ.
- Vậy thì đúng rồi, tối nay người ta có mài dao ở Branơhốc thật, - bác vừa cười vừa kết luận. Bác đã uống nhiều rượu. Khi tới đây, lòng bác rất buồn rầu băn khoăn, nên bác đã tìm cách để mụ mẫm đi và để cố khuây khỏa.
- Thế là tôi thấy hoàn toàn phấn chấn hẳn lại - bác nói - bây giờ thì tôi rõ rồi, linh cảm của bà cụ giáo sẽ chỉ là do ba người thợ thuộc da kia mài dụng cụ của họ thôi.
4
Quá nửa đêm một lúc lâu, một vài người trong ấp Branơhốc bước ra thắng ngựa để về nhà.
Ra tới sàn, họ nhìn thấy một đám cháy lớn sáng rực trời ở hướng bắc.
Họ vội vã quay lại và kêu lớn: "Dậy đi, dậy đi, nhà giáo sĩ xứ Xonberga cháy rồi!"
Khách ở Branơhốc rất đông, những người có ngựa thì nhảy ngay lên yên; phóng như bay về phía nhà giáo sĩ, còn những người khác cũng vội vàng chạy bộ theo, và tới nơi không chậm hơn mấy tí.
Tại nhà giáo sĩ, chẳng thấy ai động đậy gì cả. Dường như tất cả đều đang ngủ yên trong nhà, mặc dù ngọn lửa bốc lên dữ dội.
Căn nhà không bén lửa. Nhưng ở cạnh tường nhà có kẻ xếp một đống củi và rơm, và đã châm lửa vào đó trước đấy không lâu. Ngọn lửa chỉ mới gây thiệt hại là hun đen những cây xà nhà bằng gỗ tốt và làm tan tuyết trên mái. Nhưng nó đang bắt đầu bén vào mái rơm.
Mọi người đều đoán biết ngay đây là một vụ đốt nhà gây tội ác. Không hiểu vợ chồng cụ Arnơ vẫn còn ngủ hay đã gặp bất hạnh.
Song, trước khi vào trong nhà, những người đến chữa cháy phải dùng những cây sào dài gạt đống lửa đang cháy đùng đùng cạnh tường. Họ trèo lên mái nhà, giật những đám rơm đã bốc khói sắp sửa bùng cháy.
Rồi một vài người chạy tới cửa ra vào, định vào đánh thức cụ Arnơ dậy. Nhưng vừa đến ngưỡng cửa, người đi đầu vội đứng tránh sang một bên, nhường chỗ cho người đi sau. Người tới sau, bước lên một bước, nhưng vừa nắm lấy cái then cửa, anh ta cũng lại vội tránh sang một bên dành chỗ cho người tới sau.
Ngay dưới cái ngưỡng cửa đã làm mọi người khiếp sợ này, một suối máu chảy lênh láng, cả cái then cửa cũng vấy máu.
Bỗng nhiên, cánh cửa bật mở, ông phó mục sư đâm bổ ra ngoài. Ông ta lảo đảo chạy về phía những người đang đứng chen chúc bên tường. Bị một vết chém sâu vào đầu, người ông bê bết máu. Ông đứng lặng một lát, giơ tay ra hiệu im lặng, rồi nói hổn hển:
- Đêm nay, cụ Arnơ và cả nhà cụ đã bị ba tên cướp giết hại, chúng trèo vào trong nhà qua lỗ hổng mái nhà phía trên lò sưởi. Chúng mặc áo bằng da thú có lông dài. Chúng lao vào chúng tôi như bầy thú dữ và giết chúng tôi.
Ông ta không còn đủ sức nói thêm, gục xuống chết ngay dưới chân mọi người.
Ai nấy đi vào nhà, thấy mọi điều đều đúng khớp như lời ông phó mục sư.
Chiếc rương gỗ sồi to tướng mà cụ Arnơ dùng để cất tài sản không còn đó nữa. Bọn lưu manh đã đánh cắp con ngựa của cụ Arnơ buộc trong chuồng và chiếc xe trượt băng đặt trong nhà chứa xe.
Dấu xe trượt in từ sân ra phía biển, xuyên qua cánh đồng của giáo xứ.
Hai mươi người lao theo dấu vết bọn sát nhân. Còn những phụ nữ thì vào nhà chăm lo những người tử nạn, khiêng họ từ trong ngôi nhà ngập máu ra ngoài sân phủ tuyết trắng tinh.
Họ không tìm thấy đủ số lượng người trong nhà. Cô gái nghèo được cụ Arnơ nuôi không có trong số người chết. Phải chăng cô đã trốn thoát, hay bọn kẻ cướp đã bắt cô đi rồi? Mọi người ngạc nhiên hỏi nhau.
Nhưng khi lục soát kỹ lại căn phòng, họ tìm thấy cô trốn trong khe hở giữa lò sưởi lớn và bức tường. Cô đã nép mình trong đó khi xảy ra cuộc tàn sát. Tuy không bị vết thương nào, cô vẫn kinh hoàng đến nỗi không còn nói nói một câu, trả lời nổi một tiếng.