← Quay lại trang sách

TRÊN BẾN TÀU

Tôraranh đưa cô gái đáng thương vừa thoát chết về nhà mình. Bác rất thương cô, nên nuôi cô trong căn lều chật chội của mẹ con bác. Bác nghĩ:

"Đó là việc duy nhất mình còn có thể làm được để tỏ lòng biết ơn đối với cụ Arnơ, người hay mua cá của mình và cho phép mình ngồi ăn cùng bàn. Dù mình nghèo khổ đến thế nào chăng nữa, mình cũng phải đưa cô bé ra thành phố với mình, hơn là để cô ấy ở lại đây với những người làm ruộng. Ở Marxt'răng có khối nhà tư sản kếch vù, cô bé có thể tìm việc làm ở một nhà nào đấy, và kiếm sống một cách đáng trọng"

Trong những ngày mới tới thành phố, cô gái nhỏ khóc từ sáng tới đêm. Cô than vãn đã mất tất cả những người thân yêu nhất. Song cô khóc người chị nuôi nhiều nhất, cô nói cô chỉ muốn chết theo chị cô và tiếc rằng mình đã trốn sau lò sưởi.

Khi Tôraranh ở nhà, mẹ bác im lặng lắng nghe cô gái than vãn. Nhưng sau khi bác lại ra đi, một buổi sáng bà nói với cô:

- Enxalin này, bà không có đủ tiền để nuôi cháu ăn cháu mặc đâu, trong khi cháu cứ ngồi không để nghĩ tới nỗi đau thương của mình. Cháu hãy đi với bà ra bến tàu và tập mổ cá nhé.

Từ đó, Enxalin theo bà cụ ra bến tàu và làm việc suốt ngày với mấy chị hàng cá. Phần đông họ còn trẻ và vui tính; họ hỏi Enxalin vì sao cô lại buồn rầu và ít nói. Enxalin bèn kể cho họ nghe những sự kiện mà cô vừa chứng kiến cách đây ba hôm. Cô kể chuyện về ba tên cướp đã lọt vào nhà qua lỗ hổng trên mái nhà và đã giết tất cả những người thân yêu của cô.

Nhưng lúc cô đang nói, một bóng đen bỗng hắt xuống mặt bàn làm việc của cô. Ngước mắt lên, cô thấy đứng trước mặt cô là ba chàng quý tộc đội mũ rộng vành có gài lông chim, mặc quần áo nhung, phồng to,viền toàn bằng lụa và vàng.

Một người có vẻ là bề trên của hai người kia. Anh ta có bộ mặt xanh xao, không để râu, mắt chõm sâu. Có vẻ như anh ta vừa ốm dậy. Mặt khác, anh ta lại tỏ ra là một kỵ sĩ vui tính và mạnh dạn, đi dạo trên bến tàu ngập nắng như chỉ để cho mọi người ngắm bộ quần áo sang trọng và khuôn mặt điển trai của mình.

Enxalin ngừng tay làm việc và ngừng luôn cả câu chuyện đang kể. Cô há miệng, mở to đôi mắt ngắm chàng thanh niên lạ mặt. Còn anh ta thì mỉm cười với cô.

- Không phải chúng tôi đến đây cốt để làm cô sợ đâu, cô em xinh đẹp ạ, - anh ta nói. - Nhưng xin cô cho phép chúng tôi cùng được nghe câu chuyện của cô.

Tội nghiệp cho Enxalin! Cả đời cô đã bao giờ được gặp một chàng trai như vậy! Cô đành im lặng và cúi xuống làm việc.

Song chàng trai lạ mặt lại nói tiếp:

- Cô em đừng sợ. Chúng tôi là những người Xcốtlen. Nhưng đến đây, chúng tôi lại thấy tất cả các vịnh và các eo biển đều bị đóng băng, thế là bọn tôi phải dừng lại và chờ. Chúng tôi chẳng có việc gì làm cả, vì thế chúng tôi đi dạo chơi trên bến để gặp gỡ mọi người. Chúng tôi rất sung sướng nếu được nghe cô kể chuyện cô.

Enxalin hiểu anh ta nói vậy là để cô có đủ thời gian bình tĩnh lại, rồi cô tự nhủ: "Mình phải cố gắng tỏ ra là mình không đến nỗi quá ngu độn khi nói chuyện với một chàng quý tộc. Chẳng phải mình xuất thân từ một gia đình sang trọng chứ không phải từ một gia đình ngư dân đó sao."

- Tôi đang kể vụ tàn sát khủng khiếp ở nhà giáo sĩ xứ Xonberga - cô nói, - nhưng nhiều người khác cũng có thể kể lại sự việc.

- Đúng, - chàng trai lạ trả lời, - nhưng đến bây giờ tôi mới biết rằng vẫn còn có người nhà cụ Arnơ sống sót cơ đấy.

Enxalin bèn kể lại lần nữa những hành vi tàn bạo của bọn hung đồ. Cô thuật lại những việc đám gia nhân quây lại che chở cho cụ Arnơ, và việc cụ giật kiếm treo trên tường rồi nhảy xổ vào lũ sát nhân, nhưng bọn này thắng tất cả mọi người. Bà cụ chủ nhà vồ lấy thanh kiếm của chồng, xông vào bọn ác ôn, nhưng chúng chế giễu bà và đánh bà ngã ngã gục bằng một thanh củi. Sau khi giết hết đàn ông, chúng đã lôi đám phụ nữ trốn trên lò sưởi xuống và giết họ. Người bị giết sau cùng là chị nuôi yêu quý của tôi, - Enxalin nói - chị ấy van xin chúng tha chết cho chị, hai tên trong bọn cướp muốn bằng lòng, song tên thứ ba nói rằng cần phải thủ tiêu tất cả mọi người, rồi hắn đâm dao vào tim chị nuôi của tôi.

Trong lúc Enxalin kể lại cuộc tàn sát ba chàng quý tộc không nói một tiếng. Họ không hề đưa mắt nhìn nhau, nhưng tại họ căng ra chừng như nghe chăm chú lắm, mắt họ nẩy lửa, đôi lúc môi họ hé mở để lộ hàm răng sáng loáng.

Mắt rưng rưng lệ, Enxalin không hề nhìn lên một lần nào trong lúc kể chuyện, nên cô không thấy người thanh niên đứng trước mặt cô có đôi mắt và hàm răng của chó sói. Chỉ sau khi kể xong, cô mới lau nước mắt. Nhưng khi gặp ánh mắt Enxalin, anh ta liền thay đổi ngay nét mặt.

- Này cô gái xinh đẹp, cô đã nhìn rõ bọn sát nhân, vậy nếu cô gặp lại chúng, chắc cô sẽ dễ dàng nhận ra chúng nhỉ?

- Tôi chỉ trông thấy chúng qua ánh lửa của những cây củi đang cháy mà chúng rút từ trong lò sưởi để soi sáng trong lúc chúng giết người. - Enxalin trả lời. - Nhưng tôi tin rằng Chúa sẽ giúp tôi nhận ra chúng. Và tôi ngày đêm xin Chúa cho tôi gặp lại chúng.

- Cô nói gì vậy? - Người thanh niên nói. - Chẳng phải là bọn khát máu đã chết rồi sao?

- Vâng, rất có thể như vậy, theo lời thiên hạ kể, - Enxalin trả lời, - Các nông dân đuổi theo chúng đã thấy dấu vết của chúng đi từ nhà giáo sĩ tới một cái hố trên mặt băng. Đến chỗ đó, họ thấy vết xe trượt, vết móng ngựa và vết giày đinh lớn. Nhưng qua lỗ hổng đó thì chẳng còn dấu vết gì trên mặt băng nữa, vì thế họ tin rằng ba tên sát nhân đã chết.

- Còn cô, cô có tin không? - Người lạ mặt hỏi.

- Có chứ. Tôi cho rằng chúng đã chết đuối. - Enxalin đáp. - Tuy vậy, tôi vẫn ngày ngày cầu xin Chúa cho chúng còn sống. Tôi muốn chúng còn sống để tôi có thể rút trái tim chúng ra khỏi lồng ngực của chúng. Tôi muốn chúng còn sống để tôi được thấy thân thể chúng bị cắt ra từng mảnh và trói vào bánh xe cực hình.

- Nhưng cô làm thế nào để đạt được mục đích đó, trong khi cô chỉ là một cô gái yếu ớt?

- Nếu chúng còn sống, - Enxalin kêu lên, - tôi sẽ tìm được cách để chúng không thoát khỏi trừng phạt. Tôi thà chết còn hơn để chúng thoải mái. Chúng có thể mạnh hơn tôi, nhưng dù sao chúng sẽ không thoát khỏi tay tôi đâu.

Người lạ mặt phá lên cười giễu cợt, nhưng Enxalin dậm chân nói:

- Nếu chúng còn sống, tôi sẽ nhớ rằng chúng đã phá tan tổ ấm của tôi, cho tôi thành một cô gái khốn khổ phải ra mổ cá ngoài bến tàu lạnh giá. Tôi sẽ nhớ rằng chúng đã giết tất cả những người thân yêu của tôi, nhất là chúng đã kéo chị nuôi tôi ra khỏi chỗ nấp, đã giết chị ấy, một người rất tốt đối với tôi.

Nhưng trước cơn giận dữ của cô gái nhỏ yếu này, ba người lính chiến Xcôtlen lại cười ầm ĩ. Họ cảm thấy vui đến nỗi phải bỏ đi ngay để Enxalin khỏi bực mình vì niềm vui ấy. Họ rời bến tàu, đi vào một ngõ hẹp dẫn tới chợ. Họ đã đi khuất từ lâu mà Enxalin vẫn còn nghe thấy tiếng cười giễu cợt chói tai của họ.

NỮ THIÊN SỨ

Tám ngày sau khi bị giết hại, cụ Arnơ được an táng tại nhà thờ Xônberga, và cũng hôm đó, người ta triệu tập một cuộc họp lớn tại quảng trường Branơhốc để mở cuộc điều tra về vụ tàn sát.

Cụ Arnơ rất có danh tiếng ở Bôhuxlăng, nên đám tang của cụ rất đông, cả người ở quần đảo lẫn người trên đất liền đều đến, cứ như một đội quân tập hợp quanh vị chỉ huy của mình. Đám người đi lại trên đường từ nhà thờ Xônberga tới Branơhốc đông đến nỗi không có tấc đất nào mà tuyết không bị dẫm nát.

Đến khuya, khi mọi người đã giải tán, bác bán cá Tôraranh đánh xe vào con đường chạy từ Xônberga đến Branơhốc.

Ngày hôm ấy, Tôraranh đã nói chuyện với rất nhiều người. Bác đã kể đi kể lại nhiều lần hoàn cảnh cụ Arnơ bị giết. Bác đã được thết đãi no nê tại cuộc họp, và đã uống rất nhiều bia với những người khách xa.

Tôraranh thấy mệt mỏi, bèn nằm xuống trong xe. Bác cảm thấy buồn bã vì cụ Arnơ đã ra đi. Và khi tới gần nhà giáo sĩ, những ý nghĩ càng ưu sầu hơn ám ảnh bác.

- Grim ơi, - bác nói, nếu như tao tin vào những tiếng mài dao báo trước mà bà chú nhà nghe thấy thì tao đã ngăn chặn được tai họa rồi. Tao cứ nghĩ đến chuyện đó hoài, Grim ạ, và tao rất khổ tâm, cứ như là tao đã góp phần đẩy cụ Arnơ sang thế giới bên kia ấy. Mày hãy nhớ lời tao nói với mày bây giờ; lần sau, nếu như tao nhận thấy một điềm báo trước như thế, tao sẽ tin ngay và tao sẽ ra tay.

Trong khi Tôraranh nằm nửa thức nửa ngủ trong xe, con ngựa được kéo xe đi tự do, và khi tới nhà giáo sĩ Xonberga, theo thói quen, nó vượt qua cổng chắn trước ngôi nhà rồi đi thẳng về phía chuồng ngựa. Tôraranh vẫn không biết gì. Mãi tới khi con ngựa đứng lại, bác mới ngồi nhỏm dậy nhìn xung quanh. Bác rùng mình thấy mình đang ở trong sân cái nhà mà cách đây mới một tuần, bao nhiêu người đã bị giết hại.

Bác vội túm lấy dây cương, định gò cho con ngựa phải quay lại đường cái, nhưng lúc ấy, một người vỗ vào vai bác làm cho bác quay đầu lại. Sau lưng bác là ông lão mã phu làm việc tại nhà giáo sĩ từ lâu lắm rồi.

- Có việc gì vội mà bác phải ra đi ngay tối nay vậy, bác Tôraranh? - Người đầy tớ già nói. - Hãy vào trong phòng đi, cụ Arnơ đang đợi bác đấy.

Không biết cơ man nào là ý nghĩ bỗng tràn ngập đầu óc Tôraranh. Bác mơ hay tỉnh đây? Lão mã phu Ôlôp mà bác đang thấy trước mặt bác đây, tươi tỉnh khỏe mạnh, mới tuần trước chính bác nhìn thấy lão nằm chết bên cạnh nhiều người khác, với một vết chém toang hoác nơi cổ.

Tôraranh càng nắm chặt dây cương. Tốt nhất là chạy khỏi nơi đây cho thật nhanh, bác nghĩ. Song bàn tay lão mã phu Ôlôp vẫn đặt trên vai và lão vẫn khẩn khoản mời bác vào nhà.

Tôraranh nôn nóng tìm cớ để từ chối: "Tôi không định đến quấy rầy cụ Arnơ trong lúc đêm khuya khoắt này, - bác nói, - đó là tại con ngựa của tôi tự đi vào sân nhà mà tôi không biết. Tôi cần phải đi ngay để tìm chỗ ngủ lại đêm nay. Nếu cụ Arnơ muốn gặp tôi thì ngày mai tôi sẽ trở lại."

Nói rồi, Tôraranh vươn người lên phía trước và đập dây cương vào con ngựa, giục nó đi tiếp. Song vô ích, ngay lúc ấy, lão đầy tớ đã đứng bên đầu ngựa, nắm chặt hàm chiếc, bắt nó phải đứng yên.

- Đừng có bướng bỉnh vậy Tôraranh - lão nói, - Cụ Arnơ vẫn chưa đi ngủ đâu. Cụ đang đợi bác đấy. Bác hẳn biết rõ ở đây, bác sẽ có một chỗ nghỉ tốt chẳng kém gì ở bất kì nơi nào khác trong giáo khu này.

Tôraranh muốn phân trần bác không thích nghỉ đêm trong một ngôi nhà không có mái. Nhưng trước khi nói, bác ngước mắt nhìn về phía ngôi nhà, và lạ thay, ngôi nhà cổ thấp vẫn đứng sừng sững trước mặt bác, nguyên vẹn và đẹp đẽ, y như trước khi xảy ra vụ hỏa hoạn.

Bác giương to đôi mắt, giụi đi giụi lại, nhưng chẳng thể nghi ngờ gì được cả, ngôi nhà của giáo sĩ vẫn nguyên lành với mái rơm phủ đầy tuyết. Một ngọn khói vẫn luồn qua lỗ trống và những tàn lửa vẫn tóe lên. Qua những lá cửa chớp không khép kín, ánh sáng trong phòng lọt ra in trên nền tuyết bên ngoài.

Đối với một người khách đã lang thang rất lâu trên đường băng giá, chẳng có gì êm ái hơn là được trông thấy ánh lửa từ một căn phòng ấm áp soi rạng bóng tối bên ngoài. Nhưng nhìn thấy thế, Tôraranh càng sợ hãi. Bác quất vào con ngựa đang đá chân lồng lên, song không thể làm cho nó rời khỏi cửa chuồng ngựa lấy một bước.

- Thôi vào đi, Tôraranh, - lão đầy tớ lại nói. - Tôi cứ tưởng rằng không bao giờ bác lại muốn phải tự trách mình trong chuyện này nữa.

Thế là Tôraranh nhớ lại lời hứa của mình lúc ở trên đường, và, đang đứng vung roi giận dữ trên xe, bác bỗng trở nên hiền dịu như một con lừa.

- Thôi được, Olôp, tôi vào đây, - bác vừa nói vừa nhảy xuống xe. - Quả thật, tôi không muốn phải tự trách mình trong chuyện này nữa. Hãy dẫn tôi tới gặp cụ Arnơ.

Song, trong mọi chặng đường đã đi trong cuộc đời, Tôraranh chưa thấy chặng nào lại mệt nhọc vất vả bằng đoạn đường bác phải đi từ sân vào trong nhà này.

Khi cánh cửa mở ra, Tôraranh nhắm mắt lại để khỏi phải nhìn vào bên trong. Bác cố làm cho mình can đảm lên bằng cách nghĩ tới cụ Arnơ. "Cụ đã cho mình bao nhiêu bữa ăn ngon lành, cụ đã mua cá mình ngay cả khi trạn thức ăn của cụ còn đầy ắp. Lúc còn sống, bao giờ cụ cũng đối xử tốt với mình, vậy thì bây giờ khi đã chết, chắc cụ cũng chẳng muốn làm hại mình đâu. Có lẽ cụ muốn nhờ mình một việc gì chăng? Mình không nên quên rằng mình cần thể hiện lòng biết ơn của mình ngay cả với người đã chết".

Thế rồi, Tôraranh mở mắt nhìn xung quanh. Trong phòng, mọi vật vẫn y nguyên như khi bác đến thăm lần vừa rồi. Bác nhận ra cái lò sưởi lớn xây liền vào tường và những tấm thảm tự dệt lấy căng xung quanh căn phòng. Bác nhìn thật lâu những bức tường, trần nhà, và sàn nhà trước khi dám nhìn vào chiếc bàn và chiếc ghế mà cụ Arnơ vẫn thường ngồi.

Cuối cùng, bác quyết định nhìn vào đó, và bác thấy cụ Arnơ đang ngồi bên bàn, hoàn toàn khỏe mạnh, ở giữa bà vợ và ông phó mục sư, y như tám ngày trước đây. Cụ dường như vừa mới ăn xong, cụ đã đẩy đĩa thức ăn ra, và chiếc thìa của cụ vẫn còn nằm trên bàn, trước mắt cụ. Mấy lão bộc và vú già ngồi quanh cụ nhưng vắng mặt một trong hai cô gái trẻ.

Tôraranh dừng lại hồi lâu nơi ngưỡng cửa, nhìn những người ngồi quanh bàn ăn. Tất cả mọi người đều có vẻ buồn bã lo lắng. Ngay cả cụ Arnơ trông cũng u buồn như mọi người khác, cụ phải tựa đầu vào một bàn tay.

Rồi Tôraranh thấy cụ ngẩng đầu lên:

- Anh đưa khách vào phải không? Olôp?

- Vâng, - người đầy tớ trả lời. - Đó là bác bán cá Tôraranh hôm nay bác đã dự cuộc họp ở Branơhốc.

Cặp mắt cụ Arnơ ánh lên vẻ hài lòng, và Tôraranh nghe thấy cụ nói:

- Lại gần đây chút nữa, Tôraranh, bác hãy kể cho chúng tôi nghe tin tức về cuộc họp. Tôi ngồi đợi bác từ tối tới giờ đấy.

Mọi sự diễn ra rất thật, rất tự nhiên, nên đôi lúc Tôraranh dần dần cảm thấy vững tâm hơn. Bác mạnh dạn bước về phía cụ Arnơ và tự hỏi rằng phải chăng đó chỉ là một giấc mơ dữ dội khi bác tưởng rằng cụ Arnơ bị sát hại. Không còn nghi ngờ gì nữa, sự thật là bác đã nằm mơ.

Nhưng khi bước vào trong phòng, theo thói quen bác đưa mắt nhìn về phía cái giường có tán che, thường lúc nào cũng có cái rương lớn bên cạnh. Cái rương có đai sắt không còn ở đó nữa, và Tôraranh rùng mình khi nhận thấy nó đã biến mất.

- Tôraranh đến cho chúng tôi biết những điều đã được quyết định ở cuộc họp. - Cụ Arnơ nói.

Tôraranh cố làm cái việc mà mình được yêu cầu. Bác kể về cuộc họp, về cuộc điều tra, song vẫn không thể tự chủ giữ cho đôi môi khỏi lập bập, cho lưỡi khỏi cứng đờ. Bác ấp úng, lắp bắp.

Cụ Arnơ ngắt lời bác rất nhanh:

- Hãy nói cái chính thôi, Tôraranh ạ. Người ta đi tìm ra bọn sát hại chúng tôi và trừng trị chúng chưa?

Và Tôraranh đã dám trả lời:

- Thưa cụ chưa. Bọn sát nhân đã nằm dưới đá vịnh Hakơ rồi. Thế thì cụ bảo làm sao xuống đấy để tìm chúng được?

Nghe Tôraranh trả lời, cụ Arnơ có vẻ hơi hoạt bát lại như xưa. Đấm mạnh xuống bàn, cụ kêu lên:

- Bác nói gì vậy, Tôraranh? Có thật là ngài pháp quan ở Bôhu đã triệu tập một cuộc họp với các nhân viên pháp luật và viên lục sư của ngài, và chẳng một ai có thể thưa với ngài là có thể tìm thấy bọn hung thủ ở đâu không?

- Thưa cụ đúng như vậy, - Tôraranh trả lời. - Không có một người đang sống nào có thể nói với ngài pháp quan điều ấy!

Cụ Arnơ cau mày lại một lúc, mắt nhìn thẳng trước mặt. Rồi cụ lại quay về phía Tôraranh:

- Ta biết bác hết lòng với ta, Tôraranh ạ. Vậy bác có thể cho ta biết ta có thể trả thù bọn giết ta bằng cách nào không?

- Thưa cụ, Tôraranh đáp, - tôi hiểu rõ cụ muốn trả thù những kẻ độc ác đã cướp mất tính mệnh của cụ. Nhưng trong tất cả những người đang sống trên trái đất của Chúa này, chẳng ai có thể giúp cụ trong việc này được.

Nghe xong câu trả lời đó, cụ Arnơ ngồi trầm ngâm suy nghĩ, vẻ rầu rĩ. Hai người im lặng một lúc, rồi Tôraranh yêu cầu cụ Arnơ:

- Thưa cụ, tôi đã làm điều cụ mong muốn, tôi đã kể lại với cụ tình hình cuộc họp. Cụ không còn điều gì hỏi tôi nữa chứ, và cụ cho phép tôi cáo từ chứ ạ?

- Khoan đã, Tôraranh, - cụ Arnơ nói. - Trước khi đi, bác hãy cam đoan với tôi một lần nữa rằng trong số những người đang sống, không có ai có thể trả thù cho chúng tôi được.

- Nếu như tất cả mọi người ở Bôhuxlăng và Na Uy tập họp lại để đi tìm bọn sát nhân thì họ cũng không thể tìm thấy chúng đâu.

Nhưng cụ Arnơ nói:

- Thôi được, nếu những người đang sống không có khả năng giúp chúng tôi thì chúng tôi sẽ tự giúp mình vậy.

Rồi cụ cất tiếng to đọc kinh Lạy Cha không phải bằng tiếng Đan Mạch mà bằng tiếng La Tinh, như hồi xưa, mọi người trong nước quen làm.

Đọc một tiếng, cụ lại chỉ tay vào một người đang ngồi quanh bàn với cụ. Và cụ cứ làm như vậy cho đến lúc cụ cầu tiếng amen. Tới đây, ngón trở của cụ chỉ vào cô cháu nội của cụ.

Cô gái đứng lên ngay, và cụ nói với cô:

- Cháu biết việc cháu phải làm chứ?

Cô gái liền rên rỉ và nói:

- Xin ông đừng giao cho cháu một việc như vậy. Việc ấy quá sức một con bé yếu ớt như cháu.

- Sao lại không, chính cháu phải làm nhiệm vụ này, - cụ đáp, - cháu làm là đúng, bởi vì cháu có lý do hơn ai hết để đòi được trả thù. Trong chúng ta đây, không ai thiệt nhiều năm sống bằng cháu, vì cháu là người ít tuổi nhất.

- Cháu không đòi trả thù ai cả, - cô gái nói.

- Thôi lên đường ngay đi, - cụ nói tiếp, - cháu sẽ không đơn độc đâu, vì cháu biết rồi đấy: hai người tám hôm trước đây đã ngồi với chúng ta bên bàn này là ở trong số người đang sống.

Nghe xong vậy, Tôraranh đoán biết rằng cụ Arnơ chỉ định bác phải bước vào cuộc chiến đấu với bọn hung ác giết người. Bác kêu lên:

- Lạy Chúa, tôi van cụ, thưa cụ.

Ngay lúc đó, dường như bác trông thấy ngôi nhà và cụ Arnơ biến mất trong một đám mây mù. Bác cảm thấy mình rơi xuống từ một độ cao ngợp người, rồi ngất đi.

Lúc bác tỉnh lại thì trời đang rạng đông. Bác thấy mình nằm ngay trên mặt đất trong sân nhà giáo sĩ. Con ngựa và cỗ xe vẫn ở cạnh bác, còn con Grim thì đang ráng hết sức mà tru lên.

"Tất cả chỉ là một giấc mơ thôi, - Tôraranh tự bảo, - mình thấy rõ như vậy. Ngôi nhà này vắng vẻ và đang đổ nát. Mình chẳng hề nhìn thấy cụ Arnơ mà mình cũng chẳng thấy ai nữa cả. Nhưng giấc mơ làm mình kinh hãi đến nỗi ngã lăn xuống đất."

DƯỚI ÁNH TRĂNG

Nửa tháng sau khi cụ Arnơ bị giết có đôi ba đêm trăng đẹp. Một tối nọ, Tôraranh đánh xe đi trên những con đường ngập ánh trăng. Bác cứ phải luôn tay ghìm ngựa lại tựa hồ như bác rất khó định hướng đi.

Tuy vậy, không phải bác đi xuyên qua một cánh rừng hoang vu mà trước mặt bác hình như là một cánh đồng mênh mông trên đó rải rác những gò đá nhỏ.

Một lớp tuyết lấp lánh phủ khắp vùng. Vì lặng gió nên tuyết rơi rậm và đều, không cuốn thành lốc và cũng không dồn đống.

Nhìn hết tầm mắt, vẫn chỉ là một khoảng trống bao la trắng xóa, vẫn chỉ những gò đá nhỏ.

- Grim này, - Tôraranh lên tiếng, - nếu chiều nay, đây là lần đầu tiên chúng ta nhìn thấy vùng này, chắc chúng ta sẽ tưởng tượng là đang đi qua một vài cái truông lớn đấy. Nhưng cũng có thể chúng ta sẽ lấy làm lạ là tại sao mặt đất lại bằng phẳng đến thế, và trên đường lại không có những hòn đá hoặc mỏ đá nào. Chúng ta sẽ phải tự hỏi vùng này là vùng nào vậy mà không có hố, không có rào, không có lấy một bụi cây, một ngọn cỏ khô nào chồi lên mặt tuyết. Và tại sao không hề có một dòng sông, một con suối, trong khi ta vẫn thường nhìn thấy những dải nước xẫm cắt ngang những cánh đồng trắng xóa, ngay cả những lúc trời lạnh nhất.

Những ý nghĩ đó làm cho Tôraranh thấy rất vui và cả Grim cũng thấy hài lòng, nó nằm im không nhúc nhích trên xe, chỉ hấp háy đôi mắt. Nhưng Tôraranh vừa chấm dứt bài diễn văn của bác chưa được mấy chốc thì đã đến trước một cây hải tiêu.

- Nếu chúng ta không phải là dân vùng này, Grim ạ, - Tôraranh lại nói, - ắt chúng ta sẽ thắc mắc đấy là cái truông nào mà lại dựng những cái mốc như ta thường gặp trên mặt biển. Nói cho cùng thì đây không thể chỉ toàn là nước được. Thế nhưng tất cả những gò đá dường như nối liền với nhau này có phải là những hòn đảo lớn đảo nhỏ bị những đợt sóng động ngăn cách chăng? Không, chúng ta không thể tin như vậy được, phải không Grim?

Tôraranh cười, còn Grim thì vẫn nằm im. Tuy nhiên, trên đường đi tiếp, Tôraranh gặp một gò đá ngầm nhô cao, và bác phải đi vòng quanh. Bất chợt, bác kêu lên như nhìn thấy một cái gì kỳ diệu. Bác ngạc nhiên đến nỗi buông rơi dây cương và giơ hai tay lên trời.

- Grim ơi, mày không muốn tin rằng chúng ta đang đi trên mặt biển, vậy bây giờ chắc mày thấy rõ mày đang ở đâu chứ. Mày đứng dậy đi, mày sẽ nhìn thấy một chiếc tàu lớn ngay trước mặt chúng ta, mày không thể phủ nhận bằng chứng này, và mày sẽ phải thú nhận rằng chúng mình đang vượt biển.

Tôraranh còn dừng xe lại một lúc nữa để ngắm con tàu đang bị băng kìm giữ. Nó có vẻ như lạc đường giữa đồng bằng tuyết phủ này.

Nhìn thấy một cột khói nhẹ bốc từ boong mũi tàu, Tôraranh bèn đến bên con tàu và lên tiếng gọi thuyền trưởng, hy vọng sẽ bán được cá cho ông ta. Giờ bác chỉ còn vài con cá thu tươi dưới sàn xe, vì suốt cả ngày hôm ấy, bác đã đi một vòng tới mọi con tàu nhỏ bị mắc băng trong quần đảo, và bác đã bán hết xe cá.

Trền tàu, thuyền trưởng và các thủy thủ đang buồn đến chết được. Họ xô ra mua cả, không phải vì họ đang cần cá mà chỉ để có người nói chuyện.

Khi mọi người đã rời con tàu, đến bên Tôraranh, bác làm ra vẻ ngây thơ và nói chuyện về thời tiết.

- Từ xưa, chẳng có năm nào đẹp trời như năm nay, bác nói. - Đã gần ba tuần nay, trời rất lạnh mà không có gió, điều đó ít xảy ra ở quần đảo này.

Người thuyền trưởng, vốn đang bị mắc kẹt với con tàu chở đầy cá mòi trong một cái vịnh đóng băng gần Marxt'răng đúng vào lúc ông chuẩn bị ra khơi, bèn nhìn Tôraranh với vẻ mặt quàu quạu và vặn lại:

- Thật đấy chứ? Thế này mà gọi là đẹp trời à?

- Tôi nói khác thế nào được? - Tôraranh hỏi lại với vẻ hồn nhiên trẻ thơ. - Trời thì sáng và xanh, gió thì lặng, ban đêm cũng đẹp như ban ngày. Chưa bao giờ tôi có thể đánh xe đi trên băng hết tuần này sang tuần khác như thế này. Ít khi biển đóng băng tới tận đáy. Nếu như có năm nào biển đóng băng thì chỉ vài ngày sau là gió bão đã làm tan băng rồi.

Người thuyền trưởng vẫn u sầu rầu rĩ, ông chẳng đáp lại những lời ba hoa của Tôraranh.

Tôraranh bèn hỏi tại sao ông ta không đến Marxt'răng chơi, vì từ đây đến đó đi bộ không quá nửa giờ. Ông ta cũng không trả lời khiến Tôraranh đoán rằng ông ta không muốn rời con tàu, dù chỉ trong chốc lát, vì sợ không sẵn sàng nhổ neo ngay sau khi băng tan. "Thật ít khi mình thấy một người có đôi mắt lộ vẻ nhớ nhà đến u sầu như vậy". - Tôraranh nghĩ thầm.

Phải giam mình giữa những dãy núi ngầm bao nhiêu ngày nay, không thể giương buồm ra khơi và mất nhiều thời gian đắm chìm trong suy tư, người thuyền trưởng nói với Tôraranh:

- Bác đã đi khắp đất nước và được nghe mọi chuyện, vậy bác có biết tại sao năm nay Chúa lại đóng cửa mọi đường ra biển trong một thời gian dài và giam hãm chúng tôi như thế này không?

Nghe thấy thế Tôraranh không cười nữa, song làm như không hiểu và nói:

- Tôi không biết ông định nói gì?

- Thế này, - thuyền trưởng nói, - có một năm chúng tôi bị hãm lại ở cảng Berghen, suốt một tháng trời, ngày nào cũng có gió ngược đến nỗi không một chiếc tàu nào giương buồm ra khơi được. Đó là vì có một thằng ăn cắp của nhà thờ đang ẩn náu trong một chiếc tàu đang phải nằm lại đó, và nếu như không có bão to thì hắn đã thoát khỏi vòng pháp luật rồi. Cuối cùng người ta đã tìm ra nơi hắn trốn và người ta vừa mới dẫn hắn lên mặt đất là trời lập tức đẹp trở lại, và gió thuận lại thổi. Bây giờ chắc bác đã hiểu ý tôi khi hỏi bác tại sao Chúa lại đóng mọi cửa ra biển?

Tôraranh đứng lặng đi một lát. Có lúc bác đã định mạnh bạo nói lên sự thật, song bác lại đổi ý.

- Vì bị giam chân mãi giữa những tảng đá này nên ông mới có những ý nghĩ u sầu đó thôi, - bác nói. - Ông không đi Marxt'răng sao? Ở đó rất vui, ông cứ tin tôi đi. Hàng trăm người ngoại quốc đang ở đó, họ chẳng lo chuyện gì khác ngoài việc uống rượu và nhảy múa.

- Nhưng vì sao ở Marxt'răng người ta lại vui chơi dữ vậy? - Thuyền trưởng hỏi.

- Ồ, - Tôraranh đáp, ở đó dân đi biển đông như kiến, tàu của họ cũng bị kẹt giữa băng như tàu của ông ấy. Có cả nhiều dân chài vừa mới đánh cá mối xong nhưng chưa về nhà được vì trời lạnh. Hơn nữa, còn có rất nhiều người lính đánh thuê người Xcốtlen giải ngũ, đến Marxt'răng để đợi dịp trở về quê hương. Ông tưởng những con người lương thiện này đều mang bộ mặt đưa đám và không nhân dịp tốt để vui sống hay sao?

- Rất có thể những người đó sẵn lòng vui chơi, song về phần tôi, tôi cho rằng cứ nằm ở đây là tốt nhất, thuyền trưởng trả lời.

Tôraranh liếc nhìn ông ta rất nhanh. Thuyền trưởng người cao và gầy, đôi mắt ông ta trong suốt lộ vẻ buồn phiền.

"Chẳng có ai kể cả mình có thể làm cho con người này vui lên được." - Tôraranh tự nhủ.

Song thuyền trưởng nối lại câu chuyện một lần nữa:

- Những người Xcốtlen ấy có phải người tử tế không?

- Ông là người sẽ đưa họ về Xcốtlen chăng? - Tôraranh hỏi lại.

- Đúng, tôi chở hàng đi Ezimbuốc, vừa rồi có một người Xcốtlen tới đây đề nghị tôi chở anh ta và mấy người bạn. Nhưng tôi không muốn cho một bọn mọi rợ như vậy lên tàu. Vì thế tôi nói để suy nghĩ ít hôm đã. Bác có nghe nói gì về họ không? Theo ý bác, tôi có thể liều nhận họ lên tàu được không?

- Tôi chẳng nghe nói gì về họ cả, chỉ thấy thiên hạ khen họ là những chàng trai dũng cảm. Ông có thể yên tâm mà nhận họ.

Nhưng đúng vào lúc Tôraranh nói như vậy, con chó của bác nhổm dậy trong xe, hếch mũi lên trời và tru l ên. Tôraranh lập tức dừng lại không dám khen những người Xcốtlen nữa. Bác nói với con chó:

- Mày làm sao thế, Grim? Chắc mày thấy tao lần chần ở đây quá lâu, tán róc mất nhiều thời gian chứ gì?

Bác liền sửa soạn lên đường.

- Thôi, xin từ biệt các ông, - bác nói.

Tôraranh trở về Marxt'răng qua eo biển nằm giữa hai hòn đảo Klôvơrôn và Kôn. Khi về gần tới thành phố, bác nhận thấy không phải chỉ có mình bác trên mặt băng. Ánh trăng sáng ngời soi vào một người đàn ông có dáng hiên ngang bước đi trên tuyết. Tôraranh thấy anh ta đội một chiếc mũ gài lông chim và mặc bộ quần áo phồng sang trọng.

- Kìa, - Tôraranh nghĩ thầm, - đó chính là ngài Arsi, chỉ huy toán chiến binh Xcốtlen, chiều nay đã tới tận chiếc tàu kia để tổ chức chuyến đi trở về Xcốtlen.

Tôraranh đã đến sát bên Arsi. Chiếc xe trượt đã đuổi kịp cái bóng của anh ta đổ dài trên mặt đường, và con ngựa đã nện gót trên bóng chiếc mũ lông chim.

- Grim ơi, - Tôraranh nói, - liệu chúng ta có nên hỏi xem anh ta có muốn lên xe cùng về thành phố với chúng ta không?

Ngay lập tức, con chó chồm dậy, song Tôraranh đã đặt tay lên lưng nó:

- Yên nào, Grim thân mến, tao thấy màu không thích những người Xcốtlen.

Arsi vẫn không biết Tôraranh đã đến gần. Anh ta bước đi không hề ngoái lại phía sau. Tôraranh nhẹ nhàng cho xe lượn sang bên để vượt lên trước.

Lúc ấy, bác nhìn thấy phía sau người Xcốtlen sang trọng kia có một vệt gì giống cái bóng người khác nữa, một vật gì dài, mảnh, màu xám lướt nhẹ trên mặt tuyết, không để lại dấu chân mà cũng chẳng gây tiếng lạo xạo nào.

Anh chàng Xcốtlen bước những bước dài. Anh ta chẳng hề nhìn sang hai bên. Nhưng cái bóng xám mỗi lúc một sát vào người anh ta hơn, như muốn nói thầm vào tai anh ta.

Tôraranh cho xe chạy chậm lại để đi ngang với hai người kia. Và bác nhìn thấy rõ mặt người Xcốtlen dưới ánh trăng. Lông mày anh ta nhíu lại, nét mặt cau có, giận dữ, dường như anh ta đang bị những ý nghĩ phiền toái ám ảnh.

Tôraranh định vượt lên trước thì bỗng người Xcốtlen quay đầu lại như thể là hắn vừa nhận ra có người theo sau.

Tôraranh trông thấy rõ ràng một cô gái mặc bộ đồ lụng thụng đang lướt sau lưng Arsi, song Arsi không trông thấy cô ta. Cô ta đứng im lặng khi Arsi quay đầu lại, và cái bóng to lớn tối xẫm của anh ta chùm lên người cô ta.

Arsi lại tiếp tục bước thật nhanh, và cô gái lại đi theo anh ta, hình như có thì thầm điều gì đó vào tai Arsi.

Nhìn thấy thế, Tôraranh phát hoảng không thể chịu nổi, bác bật kêu lên và quất ngựa, thành thử bác đã phóng như điên về đến tận cửa nhà bác và con ngựa ướt đầm mồ hôi.