VỰC SÂU
Ngày hôm sau, tôi gặp Asbjörn Krag với một xấp báo kẹp trong tay.
Ông ta đưa cho tôi một tờ báo tiếng Đức và nói:
“Ở đây có viết một chút về chiếc xe sắt.”
Tôi chỉ gật đầu. Nhưng lúc đó, tôi đang tỏ ra quá hời hợt nên hỏi lại.
“Người ta viết gì về chiếc xe sắt vậy?”
Vị thám tử bình thản nhét tờ báo vào túi.
“Ở đây có rất nhiều người mà chẳng ai biết gì về bí mật của chiếc xe sắt; trong khi đó người ta có thể đọc mọi chuyện ở Berlin từ một tờ nhật báo buổi sáng. Có kỳ lạ không chứ?”
“Thật là khó tin,” tôi nói, “sự việc liên quan với nhau như thế nào?”
“Tất nhiên là có ai đó đã đánh điện cho tờ báo ở Berlin.”
“Từ đây sao?”
“Phải, từ đây, hay từ trạm điện tín gần nhất.”
“Ai đã làm việc đó?”
“Ông vẫn chưa đoán ra sao?” Asbjörn Krag vừa cười vừa hỏi.
“Chưa.”
“Tất nhiên là tôi đã đánh điện,” ông ta nói, và lại cười.
“Có thể cho tôi biết,” tôi hỏi, “thật ra bí mật của chiếc xe sắt này là gì không?”
“Ông có thật sự quan tâm tới việc này đến mức ấy không?”
“Tất nhiên rồi.”
“Thế tại sao ông còn chưa ra đó để xem? Khách sạn cũng vắng người, du khách đã đi cả rồi.”
“Tôi phải viết một vài lá thư quan trọng,” tôi đáp lời.
“Ngoài ra thì tôi cho rằng ông có chuyện khác quan trọng hơn cần suy nghĩ.”
“Có lẽ.”
“Nếu tôi hỏi đó là những việc gì thì có quá tò mò không?”
“Trước hết, tôi đã nghĩ đến việc ngày mai sẽ lên đường rời khỏi đây.”
Gương mặt vị thám tử bỗng trở nên trầm tư.
“Ngày mai à,” ông ta lẩm bẩm, “có lẽ có hơi sớm một chút, nhưng cứ để xem sao.”
“Ý ông là gì? Ông cũng rời khỏi đây à?”
“Có thể. Nếu thế thì chúng ta sẽ đi cùng nhau. Thực sự mà nói, điều đó sẽ khiến tôi vui mừng. Tôi thích có một người am hiểu ở bên cạnh mình, có thể nói chuyện phiếm với họ khi không cần làm việc.”
Vị thám tử yêu cầu tôi đi theo ông ta xuống dưới cầu tàu, chỗ con tàu thủy chạy hơi nước sắp tới.
Tôi có phần ngạc nhiên về điều này, vì tôi biết thường thì Asbjörn Krag không quan tâm đến chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước, dù cho lần nào nó cập bến cũng gây hứng thú cho những khách du lịch đến tắm biển ở đây. Nhưng có lẽ ông ta đang chờ đợi một điều gì đó, có lẽ là một trong những đồng nghiệp của ông ta sẽ tới.
Con tàu thủy chạy hơi nước màu trắng lướt trên mặt nước, trôi từ từ vào cạnh cây cầu chỉ có một ít người đang đứng bên trên. Ông chủ hãng vận tải và các nhân viên đi đi lại lại, bận rộn với những kiện hàng và thùng phuy. Vài khách du lịch mới đến đang xuống tàu, phần lớn là phụ nữ với những đứa con và xe nôi, cũng có một vài người đàn ông. Một trong số đó đeo kính, nhợt nhạt vì đọc sách và không khí nặng nề trong thành phố; ngoài ra còn có hai người trẻ tuổi trông như vận động viên.
Tôi đặc biệt chú ý đến hai người này. Họ có vẻ đang vội, chẳng chào ai cũng không mang hành lý, chỉ có hai chiếc xe đạp. Họ biến mất rất nhanh sau đó trên con đường sau một đám mây bụi.
“Người quen à?” Krag hỏi.
“Không, hoàn toàn không,” tôi trả lời, “tôi chưa từng nhìn thấy họ trước đây.”
“Nhưng tôi cảm giác ông có sự quan tâm nhất định tới những người đó.”
“Chỉ là ngẫu nhiên thôi.”
“Tất nhiên rồi. Xin lỗi ông vì sự tò mò của tôi, nhưng tôi thích quan sát mọi việc, ngay cả việc tầm thường nhất. Tôi nhận ra một tia sáng trong mắt ông, khiến tôi tưởng tượng rằng ông có thể quen biết hai người đó.”
“Nếu thế thì chúng tôi đã chào nhau.”
“Hừ, thôi nào, người ta có thể quen biết nhau nhưng không nhất thiết phải đứng lại chào nhau.”
“Nhưng ông, ông Krag ạ,” tôi hỏi, “ông muốn gì ở dưới này?”
“Tôi chỉ muốn xuống và xem con tàu thôi,” ông ta nói. “Ông xem, giờ nó đã rời đi rồi, và trò tiêu khiển đã kết thúc.”
Tất nhiên là ông ta nói dối, tôi có thể nhận ra điều đó ngay lập tức. Asbjörn Krag lúc nào cũng vòng vo và che giấu những ý định thật sự của mình.
Bây giờ ông ta muốn đi cùng tôi đến chỗ chiếc xe sắt, và tôi đồng ý đi cùng ông ta.
“Chúng ta có đi qua đồi nữa không?” Tôi hỏi.
“Không,” ông ta trả lời, “chúng ta có thể đi theo đường làng, hôm nay trên đồi nắng gắt lắm.”
Tôi hoàn toàn có thể chỉnh lại ông ta, rằng mặt trời trên đồi cũng gay gắt y như trên con đường làng, nhưng tôi không làm thế. Tất nhiên ông ta cố tình không đi trên con đường mòn qua núi, tôi cũng chẳng buồn quan tâm nhiều đến việc này.
Chúng tôi rảo bước nhanh hơn, để có thể đi hết con đường trong vòng dưới một tiếng rưỡi và không bị muộn giờ ăn trưa.
Trên đường đi, ông ta lại thắc mắc về cách hành xử kỳ lạ của tôi tối hôm qua.
“Bây giờ tôi phải thừa nhận,” ông ta nói, “rằng việc ông rời khỏi nơi đây cần thiết ra sao, và thật hối hận khi đã quấy rầy ông như vậy với những sự việc đáng sợ ở đây. Hôm qua, tôi đã thấy rằng ông thật sự đã rất hoảng sợ.”
“Sợ gì chứ?”
“Sợ người đàn ông trong chiếc xe sắt. Ông bỏ tôi ở lại mà chạy mất. Có lẽ ông đã không hoảng sợ đến vậy nếu như mang theo nó.”
“Nó, ông muốn nói gì?”
“Tất nhiên là khẩu súng ngắn.”
Tôi dừng bước và nhìn vị thám tử, vì còn bận thầm thán phục sự trơ tráo của ông ta. Bây giờ, dường như ông ta đã quên mất tiếng tru của con chó và mọi chuyện khác. Trong khi đó, chính ông ta là người khiến tôi phải hoảng sợ với câu chuyện tầm phào về con chó săn đã chết, và giờ thì làm ra vẻ không biết gì về chuyện đó. Nét mặt vẫn thản nhiên, thái độ của ông ta toát ra vẻ chu đáo, thân thiện tới múc gần như là thân hữu.
“Tôi hy vọng có thể chứng minh cho ông thấy,” tôi nói, “rằng tôi không hoảng sợ trong những khoảnh khắc quyết định.”
“Tôi cũng tin như vậy. Vâng, thậm chí tôi tin chắc rằng ông không phải là người dễ hoảng sợ. Nhưng tất cả những sự việc đáng sợ ấy đã khiến ông dao động và cảm thấy bất an. Tôi hy vọng đêm qua ông đã ngủ ngon!”
“Rất ngon.”
Chúng tôi im lặng đi cạnh nhau một lúc. Rồi tôi hỏi.
“Ông không muốn nói cho tôi biết tờ báo tiếng Đức ấy viết những gì à, để tôi chuẩn bị trước tinh thần một chút?”
“Không lâu nữa ông sẽ hiểu mọi việc thôi. Tôi đặc biệt thích thú với sự diễn kịch và những bất ngờ nhỏ. Nhưng tôi đã nói cho ông biết rồi, rằng chiếc xe sắt hoàn toàn không liên quan gì đến vụ án mạng.”
“Vụ giết chết viên kiểm lâm ấy à?”
“Đúng, ngoài ra thì không còn vụ giết người nào nữa. Những sự việc khác đã ngẫu nhiên kết nối với nhau; trước hết là chiếc xe sắt, và thêm vào đó là cái chết của ông già kia.”
“Nhưng bây giờ có lẽ ông đã tháo gỡ được rồi, phải không?”
“Phải, cái chết của ông già Gjaemaes đã được giải quyết. Vì không may, ông ta đã bị chiếc xe sắt cán chết khi đang chạy trốn lần nữa. Cũng chính chuyện đó đã đẩy người đàn ông với chiếc xe sắt vào chỗ chết.”
“Nhưng người đàn ông với chiếc xe sắt muốn làm gì vào đêm ấy trên cánh đồng hoang?”
Asbjörn Krag giở chồng báo ra.
“Tất cả được mô tả chi tiết ở đây,” ông ta nói, “người đàn ông với chiếc xe sắt là người nổi tiếng nhất trong số ba người chết. Các tờ báo tiếng Đức đã viết về ông ấy rằng, khoa học đã chịu một tổn thất lớn bởi cái chết của ông ấy. Thời gian vừa qua ông không hề đọc báo sao, ông bạn thân mến?”
“Không,” tôi trả lời, “khi đi nghỉ mát, tôi không quan tâm đến thế giới ngoài kia.”
“Hừm, tôi cũng không biết liệu báo chí Na Uy đưa tin này hay chưa. Chính tôi đã báo tin này cho báo chí Đức. Người đàn ông trong chiếc xe sắt là một người Đức.”
Chúng tôi đến gần nơi có con dốc dẫn từ cánh đồng hoang xuống biển.
Cuối cùng chúng tôi cũng tới nơi và nhìn xuống dưới, tôi ngạc nhiên khi thấy rất đông người đang tụ tập ở bờ biển. Những bộ áo váy màu trắng của những người phụ nữ và những chiếc nón bằng rơm màu vàng sáng rực lên đến tận đây. Một chiếc tàu trục vớt vẫn còn nằm trong vịnh, nhưng những con thuyền nhỏ đã tụ lại quanh nó, giống như một đàn gà con vây quanh gà mẹ.
Đám đông ấy đang tò mò xem xét vật kỳ lạ được kéo lên bãi biển. Từ xa, nó trông như một đống lộn xộn gồm những thanh sắt và bánh xe.
Khi tiến đến gần, tôi nghĩ rằng đó là xác của một chiếc tàu hơi nước cỡ nhỏ, nhất là khi tôi phát hiện ra hai chân vịt và cho rằng mình nhìn thấy cái boong tàu sáng màu.
Tôi nói với Krag về nhưng suy đoán của mình, nhưng ông ta chỉ cười và bảo tôi tới gần hơn. Giữa đám đông những người tò mò, tôi ngay lập tức thấy được nó là cái gì.
Nó không phải là một chiếc tàu hơi nước hay chiếc xe sắt.
Nói chung là hầu như không có gì làm bằng sắt ở cái xác tàu này. Những thứ mà tôi nghĩ là những thanh sắt thì lại là những thanh mỏng bằng niken hay nhôm.
Đó là một cỗ máy bay có hình thù thật kỳ lạ, có một không hai. Cái tôi tưởng là boong tàu thật ra là những cái cánh bất động.
Asbjörn Krag nắm lấy cánh tay tôi.
“Bây giờ ông hiểu chưa?” Ông ta hỏi.
“Vâng,” tôi trả lời, “bây giờ thì tôi bắt đầu hiểu rồi.”
“Chúng ta đã nghe thấy tiếng chiếc tàu bay này trong đêm hôm đó, nó bay thấp tới mức đã giết chết ông già Gjaernaes. Nó cũng là thứ mà ông đã nghe thấy trong cái đêm xảy ra vụ giết người đáng sợ ấy. Đó là một chiếc tàu bay không có động cơ, chỉ bay nhờ vào những luồng không khí. Tiếng ồn mà chúng ta nghe được, mà chúng ta tưởng như tiếng loảng xoảng của chiếc xe, là do các cái ống hút khí vào phát ra.”
Trong khi Asbjörn Krag nói, có rất nhiều người hiếu kỳ tụ tập quanh ông ta. Trong khoảnh khắc ấy, ông ta ngượng ngùng khi bị mọi người chú ý; vì vậy ông ta kéo tôi ra khỏi đám đông.
“Chúng ta đi dạo dọc bãi biển một chút, rồi tôi sẽ kể cho ông nghe tất cả.”
Những người khác hiểu được dụng ý và ở lại đó.
Asbjörn Krag giải thích:
“Tai nạn đó với ông già Gjaernaes đồng thời cũng là nguyên nhân máy bay bị phá hủy. Những vật tinh xảo thần kì ấy chưa hoàn hảo đến mức không bị mất cân bằng khi bất ngờ bị đập mạnh. Vì vậy mà nó đã lao theo con dốc và rơi thẳng xuống biển. Tôi cho rằng người lái đã cố gắng lấy lại cân bằng nhưng không thành công. Vậy là ông ta chết trên ghế lái như một thuyền trưởng trên boong tàu của mình.”
“Nhưng tôi không hiểu,” tôi nói xen vào, “tại sao ông ấy lại tiến hành những thí nghiệm của mình ở Na Uy?”
“Tôi sẽ giải thích cho ông,” Krag trả lời và mở một tờ báo nước ngoài ra.
“Ông xem này, đây là tờ Tin túc buổi tối ngày 24 tháng 8. Một tin ngắn tường thuật về sự việc sau đây:
“ Theo thông tin có được, chuyên gia hàng không nổi tiếng người Đức, Tiến sĩ Brahms, đã có một phát hiện chấn động trong ngành công nghệ hàng không. Bản chất của phát hiện này vẫn chưa rõ ràng, nhưng theo các nguồn thông tin có uy tín thì Tiến sĩ đã rất hăng hái với những thử nghiệm của mình. Tuy nhiên, vì những bí mật công nghệ hàng không này đã bị đánh cắp rất nhiều làn trong quá khứ, Tiến sĩ Brahms đã chuyển nơi thử nghiệm ra một vùng đồng quê hẻo lánh và giữ kín những bí mật về hoạt động của mình. Do đó, từng bộ phận của chiếc máy bay đều được vận chuyển trong những thùng lớn có đánh dấu Đại dương cầm của Bechstein . Theo một số lời đồn thổi, Tiến sĩ đang lợi dụng những buổi đêm trong sáng của vùng Bắc Âu để tiến hành thí nghiệm trong khi những người khác say ngủ.
“Tin tức này khiến cho tôi chú ý,” Asbjörn Krag nói tiếp. “Giờ thì ông hãy đọc xem tôi đã đánh điện những gì này.”
Asbjörn Krag đọc tiếp, lôi một tờ báo Đúc ra khỏi chồng báo.
“ Từ một người truyền tin ngẫu nhiên, chúng tôi đã nhận được một thông tin sẽ gây đau buồn và thương tiếc cho đông đảo công chúng, nếu đó là sự thật. Thông tin như sau: Đêm qua, phi công, Tiến sĩ Brahms, người đã tiến hành những cuộc thử nghiệm bay trong vùng này từ ít lâu nay mà không ai hay biết, đã gặp tai nạn. Nhờ áp dụng hợp lý những luồng không khí mà ông ấy đã tiến rất gần đến một giải pháp cho những chiếc tàu bay không động cơ. Tiến sĩ đã tiến hành những thí nghiệm hoàn toàn bí mật và mọi việc thuận lợi đến mức cỗ máy ấy có thể tự nâng lên và bay đi ngay cả khi thời tiết lặng gió. Trong một chuyến thí nghiệm vào ban đêm, cỗ máy ấy đã gặp phải một vật cản và rơi thẳng xuống biển vì mất lái. Một chiếc tàu trục vớt đã được gọi đến nhằm đưa cỗ máy ấy lên từ dưới đáy biển.
“Ông đã biết toàn bộ bí ẩn rồi đấy,” vị thám tử nhún vai, ra vẻ sự việc đã kết thúc.
Tôi cảm thấy toàn bộ sự việc hết sức kỳ lạ. Nếu tôi không tận mắt nhìn thấy cỗ máy bị vỡ tan thành những mảnh vụn, tôi gần như sẽ không bao giờ tin vào bản tường thuật này.
“Nếu như ông suy nghĩ về việc ấy,” Asbjörn Krag nói tiếp, “thì ông hẳn phải ngạc nhiên rằng mọi việc đã trở nên đơn giản thế nào. Chiếc xe sắt kỳ lạ đã biến mất. Bây giờ thì ông hiểu tiếng động ấy từ đâu đến, và cũng hiểu được vụ tai nạn tình cờ với ông già Gjaernaes.”
“Và cả vụ tai nạn với viên kiểm lâm.”
Vị thám tử nhăn trán lại.
“Không phải,” ông ta trả lời. “Tôi đã nói với ông rằng viên kiểm lâm bị đánh chết mà.”
“Ông khó có thể chứng minh được điều đó.”
“Phải, thật là khó,” Asbjörn Krag trầm ngâm lầm bầm, “nhưng rốt cuộc tôi vẫn sẽ thành công.”
“Có lẽ cần nhiều thời gian,” tôi xen vào.
“Những người khác thì cần, còn tôi thì không.”
“Ông quá tự tin trong những lời khẳng định của mình đấy, ông Krag thân mến ạ. Bao lâu nữa thì ông có thể bước đến và vạch mặt hung thủ?”
Vị thám tử nhìn lên bầu trời, giống như đang tiếp nhận năng lượng từ vũ trụ.
“12 giờ đồng hồ,” ông ta nói.
“Nhưng ông có chắc chắn rằng mình bắt đúng người không?”
“Hoàn toàn chắc chắn.”
“Và ông sẽ chỉ ra người đó cho tôi thấy?”
“Vâng, tất nhiên,” ông ta trả lời, và ném cho tôi một cái nhìn kỳ lạ, “nếu ông muốn nhìn thấy người đó.”
“Tức là người đó chưa chết à?” Tôi hỏi.
“Không, người đó vẫn còn sống.”
Chúng tôi đi ngược trở lại trên con đường. Tôi thúc giục Asbjörn Krag và muốn hỏi mọi thứ về kẻ giết người, nhưng ông ta lảng tránh.
Tôi quan sát kĩ gương mặt ông ta, cảm giác như có chút mệt mỏi và căng thẳng trên đó. Ông ta hẳn đã nhợt nhạt hơn - ở hai thái dương và dọc theo mép tóc, da ông ta trắng bệch. Rõ ràng là trí óc ông ta đã phải làm việc căng thẳng trong thời gian qua, có lẽ làm việc khuya quá nhiều.
Nhưng bản thân tôi thì trông ra sao? Từ nhiều ngày nay tôi không thể ngủ yên, cảm giác như mắt rất đau nhức và môi đang run run. Tinh thần tôi hoàn toàn kiệt quệ. Ôi, tôi thèm được nghỉ ngơi, nghỉ ngơi thật lâu! Nhưng sự việc này không lâu nữa sẽ kết thúc. Chuyến tàu sẽ rời khỏi đây vào ngày mai; dù vị thám tử có thành công hay không, dù thế nào đi nữa, tôi cũng muốn rời khỏi nơi đáng sợ này vào ngày mai.
Trên đường đi, vị thám tử lại quay về với đề tài cũ, rằng toàn bộ sự việc ngay từ đầu đã trở nên khó hiểu đến như thế chỉ vì có ba sự việc khác nhau ngẫu nhiên chồng chéo lên nhau.
“Nếu như tôi không tách được những sự kiện khác nhau ấy,” ông ta nói, “thì có lẽ đến bây giờ, tôi vẫn đang dò dẫm trong bóng tối.”
Việc này cho tôi cơ hội nhắc tới vụ án mạng. Tôi hỏi:
“Ông từng nói với tôi, rằng ông có thể bước ra và chỉ mặt tên tội phạm. Nếu như ông chắc chắn đến vậy thì tại sao lại không bắt hắn từ lâu rồi?”
“Vì tôi thiếu bằng chứng. Tôi nhắc lại, rằng trong vụ này thì tôi phải làm việc với những phương tiện rất khác thường.”
Ông ta đứng lại và nheo mắt nhìn tôi.
“Tôi phải chờ, cho tới khi thời cơ chín muồi.”
“Vậy nó đã chín muồi chưa?”
“Không lâu nữa đâu, chỉ vài giờ nữa thôi, rồi nó sẽ rơi thẳng vào tay tôi.”
Lúc này, chúng tôi đã về đến khách sạn rực rỡ, cùng với bầu không khí nóng nực và ánh mặt trời đang nhảy múa trên tấm bạt che nắng có sọc đỏ.
“Tôi hiểu là ông đang rất hồi hộp,” ông ta tiếp tục, “nhưng cho đến trước tối nay thì tôi nghĩ ông cũng sẽ không biết thêm được điều gì nữa.”
Tôi nài nỉ ông ta cho biết thời điểm cụ thể.
Ông ta suy nghĩ, rồi sau đó làm ra vẻ tính toán. “Vào lúc 10 giờ đêm,” cuối cùng ông ta nói.
“Tốt. Thế tôi đến tìm ông ở khách sạn à?”
“Đúng.”
Khi tôi chuẩn bị bước đi, Asbjörn Krag bắt đầu cười và tôi liền đứng lại.
“Ông tò mò thật đấy!” Ông ta nói.
Tôi lắc đầu, không hiểu ông ta muốn nói gì.
“Tôi đã nghĩ rằng ông sẽ hỏi tôi tại sao phải đến đúng 10 giờ.”
“Có lẽ ông có lý do cho việc này.”
“Tất nhiên rồi, tôi có lý do nhất định. Vào 10 giờ, trời đã rất tối.”
“Màn đêm là điều cần thiết cho kế hoạch của ông à?”
“Cũng cần thiết đấy.”
“Thế thì tôi sẽ đến lúc 10 giờ.”
Khi tôi đã bước đi cách ông ta vài bước chân, Krag lại gọi tên tôi.
“À này,” ông ta nói, “có thể ông sẽ không gặp tôi trong khách sạn.”
“Tôi có cần phải chờ ông không?”
“Không, nếu thế thì xin ông hãy đến nơi tôi đang chờ, nếu như tôi không có trong khách sạn.”
“Đi đến đâu?”
Asbjörn Krag chỉ xuống biển. “Ông có thấy mấy cây to kia không?”
“Có.”
“Ông có thể tìm thấy tôi ở đó, nhưng trước hết hãy đến khách sạn.”
“Ở dưới đó,” tôi lẩm bẩm, “nơi con đường dẫn lên đồi.”
“Đúng thế,” ông ta trả lời.
Ông ta gật đầu chào tôi rồi nhanh chóng bỏ đi. Tôi đứng lại và nhìn theo. Ông ta bước xuyên qua đám cỏ hồng mênh mông giữa con đường và khách sạn, rồi bước lên hàng hiên, mở cánh cửa bằng kính ra một cách ồn ào. Tôi còn nghe được ông ta chào ai đó rất to trong phòng với vẻ đầy thân thiện…
Ngày nóng nực qua dần. Tôi ngồi trên chiếc ghế bập bênh trong ngôi nhà nhỏ và để mặc thời gian trôi qua. Tiếng cọt kẹt của ghế là tiếng động duy nhất mà tôi nghe được trong suốt một thời gian dài. Trời lặng gió. Cái nóng bức lan đến ngôi nhà nhỏ, đi vào qua cánh cửa sổ mở toang và tràn ngập căn phòng. Giấy tờ của tôi cũng hầm hập và cứng queo lại trong ánh nắng mặt trời, giống như chúng đã được hong khô quắt trước cái lò sưởi ốp gạch. Tôi quay mặt ra cửa sổ và nhìn ra biển cả sáng màu xanh. Những ngọn cây xanh trông nặng nề và biển xanh xuất hiện ngoài cửa sổ như màu sáng rực của một bức tranh. Đâu đó, một con côn trùng bấu víu trên chiếc lá đung đưa, thỉnh thoảng lại có một cánh buồm trắng xa xa đang lướt trên mặt biển. Cuối cùng tôi cũng nghe thấy tiếng nói cười khanh khách của những đứa bé đang đào bới trên cát và chơi đùa với cái lon kim loại. Những con chuồn chuồn óng ánh bay lượn trong không khí và đâm vào tường lộp độp như những viên đạn.
Dần dần, cái oi bức trong phòng trở nên quá ngột ngạt. Tôi bước ra ngoài, đặt mình xuống cỏ và chắp hai tay ra sau đầu. Tôi nhìn lên và cố gắng bao quát cả bầu trời. Trong lúc đó, tôi đã nghĩ, bất cứ ai một lần phóng tầm mắt ra xa để thu trọn cả bầu trời trong hẳn sẽ cảm nhận được vẻ đẹp bao la như một mặc khải vĩnh hằng. Những đám mây màu trắng nhỏ bé trôi gần mặt trời tựa như những đám khói bay lên từ một điếu xì gà đang cháy. Phía chân trời có một đạo quân mây trắng ùn ùn kéo tới. Chúng đi ngang qua rồi không còn rung rinh nữa. Mây đứng yên, giống như đang lãng đãng ngủ say. Màu xanh trên đầu trải dài vô tận, chạm tới những tầng không gian mà trí óc con người không bao giờ có thể chạm đến. Ôi, một vòm trời vĩ đại nằm trên trái đất! Đẹp hơn tất thảy! Trước những thứ đó, trái đất tựa như chốn lầm than.
Những ngọn đồi nhấp nhô trên mặt đất tựa như những cái bóng, ở đó - trên đỉnh đồi cao nhất — có một ngọn thông đang tắm mình trong ánh nắng! Tôi có cảm giác như hôm nay, mùa hè đang chào mừng một trong những ngày rực rỡ cuối cùng. Hoàng hôn đã đến ngay sau khi cỗ xe chở thần Mặt trời lăn bánh dưới đường chân trời. Mùa thu gấp gáp theo sau, vươn những ngón tay dài chạm vào Trái đất và mang đến những buổi tối se lạnh. Khi nhận ra mùa hè đang rời đi, người ta lúc nào cũng có cảm giác nó sẽ không quay lại nữa, vậy nên họ muốn tận hưởng thêm dư quang chút nữa.
Khi những cái bóng bắt đầu trườn vào trong gian phòng, lá cây đong đưa và vẫy chào trong làn gió chiều tối trong khi biển bắt đầu chuyển sang màu xám, một nỗi buồn nặng như chì bất chợt ập vào tim tôi. Tim tôi đập mạnh trong lồng ngực, một cảm giác thoảng qua, như thể cuộc sống bây giờ sẽ chấm dứt.
Buổi tối trôi qua thật chậm chạp. Tôi đóng cửa sổ và ngạc nhiên về màu đỏ như máu trên tấm kính. Đó là ánh phản chiếu của hoàng hôn; mặt trời dẫn theo đám mây có màu đỏ nâu, cái màu xấu xí đặc trưng của mùa thu, lặn xuống biển. Màu sắc được không khí phản chiếu lại óng ánh trên kính cửa sổ phòng tôi. Tôi dùng ngón tay quét qua tấm kính và ngạc nhiên khi những ngón tay của mình trông như đang dính máu.
Hoàng hôn phủ xuống như thế đó. Bóng tối lấp dần mọi góc xó, càng lúc càng tối tăm hơn và trải tấm áo choàng của nó rộng ra hơn. Chỉ còn những khung hình trên tường là còn sáng trong ánh sáng mờ nhạt từ cửa sổ, mặt đồng hồ như một con mắt ngu ngốc màu trắng nhìn trừng trừng cả một thời gian dài từ trên tường xuyên qua bóng tối. Gần 10 giờ, ánh sáng cuối cùng của ban ngày biến mất, gian phòng tối om, chỉ chỗ cửa sổ còn le lói chút ánh sáng mờ ảo, nhưng cũng yếu ớt và phai dần. Những giờ sau đó, tôi chỉ ngồi không và nghĩ xem mình cần phải làm gì. Tôi biết rằng sẽ có điều gì đó mang tính quyết định xảy ra trong đêm nay, và có cảm giác nhất định rằng hôm nay sẽ là ngày cuối cùng tôi ở đây. Và vì thế, tôi không muốn chịu đựng những sự kiện gây chấn động thần kinh lâu hơn nữa.
Tôi không còn sợ hãi nữa, không một chút nào. Tôi không sợ gương mặt ấy, cái miệng đáng sợ và cái trán trắng bệch như người chết nữa, vì bây giờ tôi đã hiểu được mọi thứ liên quan tới nhau như thế nào.
Vậy nên tôi chuẩn bị trước một số thứ, có thể trông chúng kỳ lạ nhưng sẽ được giải thích thông qua những sự kiện sau này.
⚝ ⚝ ⚝
Vào lúc 9 giờ rưỡi, tôi rời khỏi nhà. Đầu tiên, tôi mặc một cái áo choàng mỏng, nhưng rồi đổi ý và để nó lại. Thay vì vậy, tôi cài kín khuy chiếc áo khoác, vì tôi không muốn bị vướng víu khi cử động. Trước khi đi, tôi nạp đầy đạn vào khẩu súng ngắn và nhét vào túi áo bên phải, để tôi có thể nhanh chóng cầm lấy nó. Tuy nhiên, tôi lại thấy cái túi phồng ra rất đáng nghi, liền chuyển khẩu súng sang túi áo trong, để không ai có thể đoán ra là tôi có súng.
Rời nhà được vài bước, tôi sực nhớ ra một việc. Tôi quay trở lại và nhìn đống giấy tờ của mình trên bàn. Tôi có cảm giác như chúng nằm đó gọn gàng quá; vậy nên tôi đảo lộn chúng lên, viết vài dòng trong một bài văn mà tôi đang viết dở thời gian qua, và cố gắng tạo ấn tượng rằng tôi đã ngẫu nhiên bỏ dở công việc và rời phòng.
Cuối cùng, tôi thật sự rời đi. Tôi liên tục nhìn đồng hồ vì muốn đến đúng giờ. Lúc đó là 9 giờ 40 phút, khi tôi bước vào cửa hàng tạp hóa.
Có năm người ở trong đó; người chủ tiệm đang đứng sau quầy và đo đạc miếng vải sọc, cô con gái đang đong si-rô vào một cái bình. Đứng phía trước là người anh em của ông chủ tiệm, một ngư dân, đang ngậm tẩu và đút tay vào túi. Ngoài ra còn có hai khách hàng: một phụ nữ già đang bận rộn xếp một vài cái túi vào trong giỏ và một thằng bé đang lạnh cóng vì đôi chân trần, một tay nó cầm một cái xô thiếc còn tay kia cầm một cuốn sổ nhàu nát màu xanh.
Tôi bước vào cửa hàng, cố gây tiếng động để tất cả mọi người đều phải nhận thấy, chào người anh em của ông chủ tiệm vì có quen ông ta, và nhanh chóng kể cho ông ấy nghe rằng tôi có ý định muốn đi câu cá ở Mũi Đất Nhọn cách đây một dặm; tôi muốn đi ngay trong vòng nửa giờ tới, ngủ khoảng một giờ cùng những người đánh cá ngoài ấy và rồi bắt đầu đi câu lúc 4 giờ sáng.
“Vâng, đi đến đó tốt đấy,” người đàn ông nói. “Ông muốn chèo thuyền một mình à?”
“Không, tôi nghĩ sẽ mời thêm người nào đó ở khách sạn.”
“Vâng, phải chèo cả một đoạn khó đấy.”
“Đúng thế, nhưng tôi sẽ làm được mà,” tôi trả lời, mỉm cười và giơ cánh tay lên.
Người đàn ông gật đầu. “Ông chắc chắn là khỏe rồi,” ông ấy nói.
“Vâng, nhờ trời,” tôi trả lời và trong lúc ấy giọng nói của tôi vang to nhiều hơn tôi muốn.
Rồi tôi quay sang ông chủ tiệm và mua các dụng cụ câu cá, lưỡi câu và cả một cuộn dây. “Đồ của tôi tệ lắm rồi,” tôi nói. Ông chủ tiệm bày cách cho tôi câu được nhiều cá, giải thích cho tôi hiểu phải dùng loại mồi nào và thả dây câu ở đâu.
Cuối cùng, tôi xin phép mượn chiếc thuyền, việc mà ông ấy cũng cho phép sau khi suy nghĩ ít lâu.
“Vậy thì tôi sẽ lấy chiếc thuyền vào khoảng nửa giờ nữa,” tôi nói, “có thể tôi sẽ mang thêm một người bạn từ khách sạn, hoặc cũng có thể tôi sẽ đi một mình. Nhưng dù thế nào đi nữa thì tôi cũng sẽ đi, vì tôi rất hào hứng với chuyến câu cá này.”
Sau khi những thứ tôi mua được gói lại, ông chủ tiệm và người anh em của ông ấy chúc tôi câu được nhiều cá, rồi tôi đi đến khách sạn. Ở đó, điều khiến tôi thất vọng là cửa sổ nào cũng sáng đèn, kể cả phòng của Asbjörn Krag. Tôi đã nghĩ rằng ông ta sẽ không có ở đây, tin chắc rằng ông ta sẽ cố tình chọn nơi dưới kia, cạnh con đường núi, để làm nơi gặp gỡ. Nếu như gặp ông ta trong khách sạn thì tôi phải điều chỉnh lại hành động tiếp theo của mình. Nhưng dù sao đi nữa, bây giờ tôi cũng đã quyết định và muốn thực hiện nó.
Ở phòng ăn, tôi gặp một vài người khách, hỏi họ có muốn đi câu cá không, nhưng họ có vẻ không thích việc ấy cho lắm, nhất là khi tôi bảo rằng phải chèo một đoạn xa. Trong lúc đó, tôi nói chính xác thời điểm mà tôi dự định khởi hành. “Nửa giờ nữa,” tôi nói. “Tôi sẽ dùng chiếc thuyền của ông chủ tiệm tạp hóa. Nhưng hình như không ai muốn đi cùng tôi phải không?”
Rồi tôi đi theo hành lang đến phòng của Asbjörn Krag.
Đúng 10 giờ, tôi gõ cửa phòng ông ấy.
Không ai trả lời.
Tôi tiếp tục gõ cửa, vẫn không có ai trả lời. Tôi bước nhanh vào phòng. Gian phòng trống, nhưng cây đèn trên bàn đang cháy sáng. Tôi biết rằng Asbjörn Krag luôn nhớ khóa cửa phòng; vậy tức là ông ta ở cách đây không xa lắm.
Vì vậy, tôi chờ ở cửa khá lâu, nhưng không có ai đến và cũng không nghe thấy tiếng bước chân. Sự im lặng hoàn toàn bao quanh tôi.
Tôi rất ngạc nhiên, cửa mở và ngọn đèn cháy sáng trên bàn… Vị thám tử, hiện thân của sự đúng giờ, biết rằng tôi sẽ đến vào một giờ nhất định, tức là đúng 10 giờ. Tôi biết rằng ông ta có nhiều bí mật và sẽ không để cho người lạ nhìn giấy tờ của mình bằng bất cứ giá nào, và có lẽ tôi là người cuối cùng được phép đọc chúng. Thế thì tại sao ông ta lại không cẩn thận hơn?
Tôi mở cửa dẫn ra hành lang. Phòng của Asbjörn Krag nằm ở khoảng giữa hành lang này. Tức là, khi người ta tới đây theo bất cứ hướng nào thì tôi cũng nghe được tiếng bước chân trước khi người ấy đến cửa phòng của vị thám tử. Thế là tôi đóng cửa lại, đứng yên nghe ngóng. Không một tiếng động. Rồi tôi bước tới bàn của ông ta, nơi có nhiều giấy tờ xếp thành từng chồng một cách trật tự.
Trên bàn ngay sát cửa sổ có một bàn trang điểm nhỏ hình bầu dục với cái khung mạ bạc, nhiều đồ vật nhỏ nằm rải rác quanh cái gương, trong số dó có một vài tuýp đồ dùng để trang điểm. Khi nhìn thấy những thứ này, tôi bị sốc nhẹ.
Nhưng tôi còn nhận ra một thứ khác nữa.
Bên cạnh tấm gương, trong một cái khung bằng gỗ sồi được chạm trổ, là một bức ảnh.
Đó là tấm ảnh của viên kiểm lâm Blinde; một tấm ảnh đẹp đẽ, dường như được chụp không lâu trước khi anh ta chết.
Tôi cầm tấm ảnh, nhìn chằm chằm vào nó một lúc lâu. Cảm giác ấy ít nhiều chi phối tôi thêm một lần nữa, thứ mà tôi đã có khi nhìn thấy gương mặt đằng sau tấm kính cửa sổ màu xanh. Nhưng nó chỉ kéo dài một giây, sau đó tôi bình tĩnh lại, không nao núng. Tôi hiểu rằng Asbjörn Krag cố tình để cửa mở; ông ta muốn tôi bước vào phòng và nhìn thấy những thứ ở trên bàn.
Tất cả những thứ này không khiến cho tôi ngạc nhiên đến mức như ông ta chờ đợi. Việc nhìn thấy bức ảnh, tấm gương và những thứ xung quanh đó lại càng không làm tinh thần tôi dao động như lúc gương mặt đáng sợ ấy xuất hiện phía sau tấm kính cửa sổ. Ít nhất thì bây giờ tôi biết tất cả đều là sự thật. Giờ tôi có bằng chứng không thể chối cãi rằng tất cả những gì trước đây tôi chỉ có thể phỏng đoán đều là đúng cả.
Tôi đứng đó và suy nghĩ xem mình cần phải làm gì. Tôi biết rằng trong khoảnh khắc này, Asbjörn Krag đang chờ tôi ở ngoài kia, trong màn đêm tối đen như mực ở nhóm cây cạnh biển. Không lâu nữa, tôi sẽ gặp ông ta ở đó, nghe thấy tiếng cười to, cụt lủn và khô khốc ấy.
Tôi làm một việc tương đối phù hợp với thái độ của mình trước đây. Tôi, bây giờ, cũng xuất phát từ một ý nghĩ nhất định, và làm theo một kế hoạch nhất định.
Tôi lấy một tờ giấy trắng và đặt nó lên bàn trước mặt mình, vì tôi muốn để lại lời nhắn cho ông ta. Trên cái giá bút có rất nhiều bút chì và một cây bút mực, nhưng không có bình mực. May thay đó là bút máy. Khi tôi dùng nó để viết, chính tôi cũng ngạc nhiên về những nét chữ ngay thẳng và chắc chắn của tôi:
“Ông Krag thân mến!
Tôi chờ ông tối nay lúc 10 giờ rưỡi (đồng hồ vừa mới chỉ 10 giờ 10 phút), để cùng với ông đến Mũi Đất Nhọn câu cá. Tôi khởi hành lúc 11 giờ từ cây cầu chỗ ông chủ tiệm tạp hóa. Khi ông đọc được thư này và muốn đi câu thì mời ông đi chung.”
Tôi viết tên mình bên dưới rồi đặt cây bút máy lên giá một cách cẩn thận. Rồi tôi vội vàng lục lọi trong mớ giấy tờ của ông ta.
Ông ta đã viết rất nhiều về đủ mọi đề tài, nhưng tôi không tìm thấy một từ nào về cái chết của viên kiểm lâm, cũng như không có từ nào về chiếc máy bay của Tiến sĩ Brahms.
Thời gian trôi qua thật nhanh; đã đến lúc phải rời khỏi đây. Tôi bước qua phòng ăn, nơi vẫn còn một vài người khách đang ngồi đó, huýt sáo một điệu nhạc và lắc những dụng cụ câu cá của tôi cho chúng kêu lách cách, như để tất cả mọi người có thể nghe và nhìn thấy.
“Tức là không ai muốn đi cùng à?” Tôi hỏi lần cuối cùng.
“Không, không,” người ta trả lời.
Tôi bước ra ngoài đường, tự thán phục mình đã bình tĩnh đến thế nào.
Khi nhớ lại người anh em của ông chủ tiệm tạp hóa đã nói gì về sức mạnh của tôi, tôi giơ cánh tay của mình ra, cảm nhận những bắp thịt đang căng ra như thế nào dưới lớp trang phục. Tôi cũng biết mình đang đi đến đâu.
Tôi bước chậm rãi trên đường, hy vọng sẽ gặp được một trong số những du khách hay cư dân, vì tôi muốn mình dược nhìn thấy thêm một lần nữa. Tôi cũng đã thành công trong việc này, và gặp được ông ngư dân đội mũ rơm.
Tôi đã không gặp ông ta từ cái đêm đáng sợ khi viên kiểm lâm bị sát hại. Khi nhận ra tôi, ông ta bước chậm lại và ngần ngừ chào. Tôi có cảm giác như ông ta muốn trao đổi vài lời. Vì vậy tôi dứng lại và đưa tay ra chào ông ta.
“Muộn thế này mà ông vẫn còn đi ra ngoài à?” Tôi bắt đầu.
“À, mới 10 giờ thôi mà,” ông ta trả lời. “Tôi ở tiệm tạp hóa và nghe nói rằng ông muốn đi câu cá.”
Tôi hết sức vui mừng về việc người ta bắt đầu nói về chuyến đi của mình.
“Tôi nghĩ là ông đã đi rồi,” người đàn ông nói tiếp. “Có ai đi cùng ông không?”
“Không có, tôi đã hy vọng ông thám tử sẽ đi cùng, nhưng không tìm thấy ông ấy đâu cả. Nếu ông có gặp thì nhờ ông nói với ông ấy rằng tôi sẽ khởi hành trong vòng 15 phút nữa.”
“Vâng, tôi sẽ làm thế.”
Ông ta vẫn đứng đó và chuyển chân trụ từ chân này sang chân kia.
Cuối cùng ông ta nói:
“Ông có nhìn thấy chiếc xe sắt không?”
“Có,” tôi mỉm cười trả lời. “Tất cả mọi chuyện ma quái đều đã được giải thích một cách tốt đẹp, ông bạn thân mến ạ. Đó không phải là chiếc xe sắt, đó là một chiếc máy bay!”
Người đàn ông già lầm bầm điều gì đó. Trông có vẻ như ông ta vẫn còn tin vào chiếc xe sắt.
“Tôi đã nghe thấy tiếng của nó trước đây,” ông ta nói, “cách đây bốn năm rồi.”
“Nhưng hóa ra ông già Gjaemaes đã không chết vào lúc đó!”
“Không, không! Nhưng tôi đã nghe được tiếng chiếc xe ấy mà.”
Ông ta vẫn tin chắc như vậy và rời đi trong nỗi thất vọng tràn trề vì tôi không tin ông ta nữa.
Trong đêm tối, tôi dễ dàng tìm thấy con thuyền được cột vào cầu tàu. Tôi đặt dụng cụ câu cá ra phía sau thuyền và cố đẩy con thuyền ra mà không gây tiếng động nào. Lúc ấy, tôi thấy trong các cửa sổ của cửa hiệu tạp hóa đột nhiên sáng đèn rồi lại tắt ngấm ngay. Tôi biết điều đó có nghĩa gì. Ông chủ tiệm tạp hóa đã mở cửa sổ để nghe xem ai đang lục đục ở những chiếc thuyền của mình. Ông ta nhận ra tôi và đóng cửa sổ lại.
Tất cả mọi việc diễn ra thật tốt đẹp. Bây giờ là 10 giờ 15 phút, và ông chủ tiệm tạp hóa đã biết là tôi bắt đầu khởi hành từ cây cầu.
Điều duy nhất làm tôi không hài lòng lúc này là sự yên lặng. Tôi muốn có gió và sóng biển để lấp đi tiếng chèo thuyền, nhưng thay vào đó bóng tối đã giúp tôi. Tôi chỉ cách bờ vài mét nhưng đã không còn nhìn thấy nhà cửa nữa, chúng biến mất trong màn đêm tối đen như mực và ẩn hiện một vài điểm sáng màu vàng nhấp nháy. Tôi chèo đi trong màn đêm tối như hũ nút. Biển được phân chia một cách thật kỳ lạ thành những khoảng màu đen và xám. Ở phía xa, có một thứ ánh sáng xám nhạt dị thường lởn vởn trên mặt nước. Tôi không biết ánh sáng ấy đến từ đâu, nhưng tôi tránh chèo thuyền vào những nơi như vậy, vì tôi biết rằng ở trên đó, tôi và con thuyền sẽ nổi bật như những cái bóng màu đen kịt.
Bây giờ tôi đang tiến đến gần vùng nước mở, và cảm nhận được sau gáy một làn gió lạnh từ đất liền. Con thuyền trượt đi trên lưng những con sóng nhỏ. Thật ra tôi phải chèo dọc theo dải đất bằng phẳng ở bên tay trái để đến chỗ câu cá. Nhưng thay vì vậy, tôi chèo sang bên phải, tiến đến vách núi dốc đứng và cảm thấy mình đang biến mất vào trong bóng tối đen kịt đó. Bây giờ thì tôi không muốn gặp phải ai, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tôi biết rằng nhưng người đánh cá thường đi dọc theo lối này, vì vậy mà tôi cố sức chèo để nhanh chóng đến được nơi tôi muốn mà không bị ai phát hiện ra. Tôi gắng hết sức, đến mức tay chèo cong đi và nước ở mái chèo sủi bọt.
Cuối cùng, con thuyền tiến gần đến một vài cây cột đen, tôi phải dùng hết sức để hãm nó lại, để nó không đâm vào cây cầu khi vẫn trong đà lao đi như cũ. Nhưng mạn thuyền cuối cùng cũng đập mạnh một cái vào thành cầu đánh ầm một tiếng. Tôi ngồi yên trong khoảnh khắc và lắng nghe; không có tiếng động nào, vậy tức là quanh đây không có người.
Tôi cột chiếc thuyền bên cạnh vài con thuyền khác, đang nằm yên lặng mờ ảo ở đó. Con thuyền nhỏ của tôi đã làm cho mặt nước xao động, những cái bóng dập dềnh trên mặt nước, tiếng nước vỗ nhẹ nhàng vào những cây cột của cầu tàu. Tôi bước lên cây cầu, cố gắng buộc thuyền lại theo cách để tôi có thể tháo nó ra bất cứ lúc nào.
Rồi tôi nhìn quanh. Kia là những hình bóng đồ sộ tối đen của các thân cây vươn cao lên bầu trời màu xám tro. Tôi cần phải đi gặp một người trong bóng đêm kỳ lạ này, để biết được tên của kẻ giết người.
Bây giờ thì hẳn phải sắp 10 giờ rưỡi. Một giờ nữa, có thể chỉ nửa giờ nữa thôi, mọi việc sẽ kết thúc. Tôi không hề cảm thấy căng thẳng hay bồn chồn chút nào, nhưng tôi bị thúc giục mạnh mẽ bởi mong muốn được hành động. Không có gì trên thế giới này có thể ngăn cản tôi được nữa. Tôi nhớ lại, thầm tán dương mình đã hành động kín kẽ như thế nào trong khoảnh khắc này, đã cẩn thận tính toán trước mọi sự bất ngờ ra sao, rằng mọi giác quan của tôi đã căng thẳng như thế nào, cố gắng lắng nghe những tiếng động và tạp âm ra sao. Đầu óc tôi lạnh lùng và hoàn toàn tỉnh táo.
Tôi đi trên cây cầu, những tấm ván kêu cọt kẹt nho nhỏ dưới bước chân của tôi. Điều đó khiến tôi bực mình. Tôi cố gắng bước đi mà không gây ra tiếng động. Khi lên đất liền, tôi đến một bãi cỏ. Ở đây, tôi đứng yên một lúc và lắng nghe. Hoàn toàn không một tiếng động.
Con đường đó ở đâu? Nhưng trước hết, tôi cần đảm bảo rằng mình sẽ không đuợc phép gặp ai! Đầu tiên, tôi cố gắng định hướng. Ở xa xa, tôi nhận ra hình dáng mờ ảo của một ngôi nhà nhỏ nhô lên trong bóng tối như một khối lập phương màu xám. Ngay trước đó là một khối lớn màu xám với hình thù không rõ ràng. Đó hẳn là một ngôi nhà lớn hơn, có vườn cây ăn trái bao quanh. Ở bên tay phải, như tôi biết, là một ngôi nhà tắm nhỏ, được xây lại từ một ca-bin trên một chiếc thuyền. Người ta chuyển ca-bin từ boong tàu xuống và đặt nó lên mặt nước, dùng những cái thùng phuy rỗng để giữ cho nó nổi trên đó. Ngay khi tôi nhận ra cái ca-bin đó, tôi biết rõ mình phải làm gì. Tôi đã tắm nhiều lần ở đây và biết rằng từ cái buồng này người ta có thể đi trên một cái cầu nhỏ đến vách núi luôn bị mặt trời chiếu vào ở phía dưới con đường núi. Từ đó cho tới những vệt bóng đen tối kia không còn xa nữa.
Tôi cẩn thận đi trên cây cầu, trong lòng hơi lo lắng vì tiếng sỏi đá lạo xạo dưới chân, nhưng tôi vẫn đi tiếp, nhẹ nhàng và cẩn thận hơn, tiếp tục tiến lên như đôi chân sói. Khi đến vách núi, tôi cúi xuống và bò tới bằng cả tứ chi, không để bóng đen của mình nổi bật lên trên bầu trời được chiếu sáng yếu ớt nơi eo biển.
Cuối cùng, tôi đứng cạnh dốc núi đầy đá dẫn lên con đường đi. Tôi nắm một bụi liễu gai đầy sương, tự kéo thân mình lên cao, với tay nắm được một gốc cây và rồi lại một bụi liễu gai nữa. Cuối cùng, tôi bám vào một tảng đá lớn; suýt chút nữa nó có thể long ra và lôi tôi theo xuống biển.
Tôi quỳ xuống, tựa đầu gối vào để trượt chậm lại và cảm thấy da mình đang rách, máu chảy ra nhớp nháp. Nhưng giờ thì tôi cách con đường đó không còn xa nữa. Tôi thôi không nắm vào hòn đá ấy, để nó nằm lại đó. Tôi đã vui mừng thật sự khi những ngón tay của mình bám được vào một vài cành mâm xôi. Bây giờ tôi đã trèo lên được chỗ cao nhất, cạnh hòn đá chắn ở ven đường. Tôi bám thật chặt vào những cạnh sắc của nó, tới mức móng ở các đầu ngón tay cong lại. Chỉ cần đu nhẹ thân mình, và tôi sẽ lên được tới trên cùng.
Tôi nghe được tiếng bước chân.
Tiếng chân người bước đi!
Tim tôi đập mạnh, giống như một thân cây bị gió bão thổi lung lay. Tôi chưa bao giờ thấy sợ như lúc này. Nó khiến cho toàn bộ sức mạnh cơ bắp của tôi biến mất, và rồi những sợi gân đang căng thẳng bỗng nhiên chùng hẳn xuống. Tôi nghe thấy tiếng chân người bước đi trong bóng tối, những bước chân vội vã đi dọc theo con đường. Trước mặt tôi là một vách núi đá ẩm ướt, nước chảy từng giọt, một hẻm núi khổng lồ tối đen như mực, bóp nghẹt mọi tia sáng. Và tiếng chân người bước đi vang lên trên đó, cạnh con đường trong cái bóng của vách núi đá này. Tôi hoàn toàn không thấy được gì từ con người ấy. Bây giờ thì người này đã đến gần hơn, bước đi cẩn trọng kỳ lạ, đế giày giẫm xuống đất thật mạnh. Trong lúc những bước chân ấy đi ngang qua, tôi tin rằng đó là hai người đang đi dựa vào tiếng động phát ra. Phía trên kia, con đường uốn thành vòng cung quanh núi. Tôi có thể nhìn thấy đường cung rộng của nó nổi bật trên chân trời và nền trời xám xịt. Tôi hồi hộp nhìn đến điểm ấy, vì tôi biết rằng có thể nhìn thấy những người đi bộ ở đó.
Ngay sau đó, tôi nhìn thấy hai người này - đó rõ ràng là hai người. Đầu tiên, tôi nhìn thấy mũ của họ, rồi hình dáng của họ. Họ không nói chuyện với nhau, đi cùng nhịp trên dường như hai người lính mặc đồ đen. Ống quần của họ được buộc quanh mắt cá. Đó là hai người đi xe đạp hồi sáng trên chiếc tàu hơi nước. Không ai nhìn thấy họ suốt cả ngày nay, người ta thậm chí không biết đến sự hiện diện của họ nữa. Tôi cảm thấy thật kỳ lạ khi họ bỗng nhiên xuất hiện bằng cách này, bước đi nhanh nhẹn và lặng lẽ giống như hai người chết. Họ nhanh chóng biến mất ở phía sau vách núi và tiếng bước chân của họ giờ cũng nhỏ dần.
Tôi phải nằm yên một lúc để hồi phục lại sau cơn sợ hãi, nhưng không lâu sau đó, tôi đã bình thường trở lại, vì họ không nhìn thấy tôi. Tôi chờ một phút rồi nhanh chóng đu người lên con đường và bước qua bên vách núi, hòa mình vào trong bóng tối dưới ngọn núi.
Bằng cách này tôi đã may mắn tránh được con đường giữa những ngôi nhà, nơi mà như tôi biết thì lúc nào cũng đối mặt với nguy cơ bị người khác bắt gặp. Giờ tôi chỉ cần đi vài bước nữa là xuống đến những cây to, nơi mà Asbjörn Krag đang chờ. Tôi im lặng đi xuống dưới đó. Chưa bao giờ tôi lại cố gắng bước đi nhẹ nhàng, để không gây ra tiếng động nào như lúc này. Cuối cùng, tôi đã đứng dưới những tán cây. Nhưng mà con người đó đâu rồi? Sự im lặng nặng nề, đáng sợ vây quanh tôi. Đêm tối nên tôi không thể nhìn thấy gì, hay nghe được một tiếng động nào, ở gần hay từ phía xa. Ngay cả những cành cây cũng không đung đưa, những ngọn cây dường như đã đông cứng lại và biến thành than - tôi có cảm giác như mình đang ở trong một hầm mộ.
Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng nhìn thấy gương mặt ấy.
Bất thình lình, gương mặt xương xẩu, trắng bệch, với xương gò má nhô ra và đôi môi mỏng của vị thám tử hiện ra trước mắt tôi. Đôi mắt của ông ta lấp lánh qua mắt kính không gọng. Ông ta bất ngờ đến, có trời mới biết được từ đâu, tựa như bóng tối đã nhả ra. Hay là ông ta đã di theo sau tôi?! Ý nghĩ này khiến tôi bất giác rùng mình.
Quá bất ngờ, tôi không thể cất lên được lời nào; tôi thậm chí còn không chắc là giọng nói của mình còn đó hay không. Cũng chính trong khoảnh khắc ấy, tôi đã hết sức bình tĩnh nhưng Chúa ơi, tôi vẫn có cảm giác rằng sự hồi hộp luôn rình rập sẵn đó, để chộp lấy và chế ngự tôi mọi lúc có thể.
… Tôi có cảm giác cả một thời gian vô tận đã trôi qua, trước khi nhận ra được giọng nói của vị thám tử. Ông ta nói:
“Tôi đã chờ lâu lắm rồi!”
“Tôi tìm ông trong khách sạn,” tôi trả lời, “và đã chờ nhiều phút trong phòng ông.”
“Chúng ta đi thôi.”
Vị thám tử bước đi vài bước dọc theo con đường núi, tôi cẩn thận đi theo ông ta. Đột nhiên, ông ta như đoán được tôi đang nghĩ gì.
“Ông có thể đi như bình thường,” ông ta nói, “chúng ta sẽ không gặp ai ở gần đây đâu.”
“Ông biết chính xác điều ấy à?”
“Vâng, tôi biết, tôi đã đứng đây một lúc lâu.”
Khi chúng tôi đi đến bóng tối dưới vách núi, vị thám tử đứng lại. Một sự nhạo báng rõ ràng phát ra từ giọng nói khi ông ta hỏi:
“Thật ra thì ông không cảm thấy kỳ lạ khi chúng ta hành động bí mật như thế này sao?”
Câu hỏi làm tôi bối rối. Nhìn từ góc độ của tôi thì hành vi bí ẩn này tương đối dễ hiểu và đúng là cần thiết, nhưng tôi không nghĩ rằng ngay cả Asbjörn Krag cũng có lý do để xuất hiện một cách lặng lẽ như vậy, không để ai nhìn thấy ông ta. Ông ta muốn tiết lộ tên của kẻ giết người cho tôi biết, chỉ có thế. Tại sao ông ta không nói cho tôi biết sớm hơn, hoặc là vào ban ngày? Hay tại sao ông ta không thể nói cho tôi biết ngay trong khoảnh khắc này? Mãi tới bây giờ, tôi mới xâu chuỗi và thấy rõ toàn bộ thái độ kỳ lạ của ông ta trong buổi tối nay, và một sự nghi ngờ ập đến khiến toàn thân tôi ớn lạnh vì sợ hãi: Ông ta liệu có biết ý định của tôi không? Ông ta âm thầm khuyến khích tôi ư? Ông ta quỷ quái tới mức đoán trước được cả việc ấy ư?
Tất cả những ý nghĩ ấy băng qua đầu tôi trong giây lát. Tôi lẩm bẩm không rõ ràng thay cho câu trả lời:
“Tôi đã không còn,” tôi nói, “hoàn toàn không còn ngạc nhiên về cung cách hành động của ông nữa.”
“Nhưng tại sao chính ông cũng lại hành động bí ẩn như thế? Tại sao ông lại len lén đi lại như một tên trộm trong đêm tối như vậy?”
“Tôi nghĩ cần phải xuất hiện một cách cẩn thận. Kẻ giết người còn chưa bị bắt kia mà.”
Lúc đó, vị thám tử cười to. Ông ta quay mặt đi và cười to hơn, tiếng cười ấy vang lên như tiếng ngựa hí và đầy chế nhạo, tôi có cảm giác như nó đến với tôi từ trong bóng tối.
Bây giờ, ông ta thân tình khoác lấy cánh tay tôi, chậm rãi cùng tôi đi dọc theo con đường. Chúng tôi nhanh chóng tiến đến chỗ có vách đá dựng đứng cao vài trăm mét hướng thẳng xuống biển.
“Thật tội nghiệp,” ông ta lầm bầm, đầy thương hại. “Ông có vẻ quá hồi hộp và quá sợ hãi đấy! Ông thật sự cần phải nghỉ ngơi, cần một sự thay đổi. Ông sẽ có cả hai điều ấy khi sự việc này được kết thúc một cách tốt đẹp.”
“Ông không muốn đi nhanh hơn một chút à?” Tôi hỏi.
Chúng tôi đến đúng nơi cao nhất, nhìn chằm chằm xuống vực sâu đen ngòm thăm thẳm không đáy đang hà một làn hơi lạnh lên chỗ chúng tôi.
“Vâng, bây giờ thì ông cần phải nghe những gì tôi kể,” ông ta nói, “nhưng tôi phải hỏi ông vài câu. Ông có sẵn lòng trả lời không?”
“Tại sao lại không nhỉ?”
“Tôi thấy giọng nói của ông khàn khàn và bất an, giống như một gã say… Nhưng đó hẳn là sự hồi hộp căng thẳng, có lẽ cũng là sự khó chịu sắp ập vào người ông. Tức là tối nay ông đã vào phòng tôi?”
“Vâng.”
“Ông không ngạc nhiên khi thấy cửa mở sao?”
“Có chứ, tất nhiên rồi.”
“Tôi giải thích cho ông biết rằng tôi đã có dụng ý nhất định với việc ấy.”
“Đúng như tôi nghĩ. Thường thì ông cẩn thận khóa cửa mà.”
Vị thám tử lại cười to.
“Tôi rất thán phục ông,” ông ta nói, “tôi cảm thấy ông đang cố gắng nói thận trọng nhất có thể. Sự tỉnh táo của ông vô cùng ấn tượng đấy. Ông có thể nói cho tôi biết ý định của tôi là gì không?”
“Không!”
“Thế thì tôi sẽ nói cho ông biết. Tôi muốn ông phải nhìn thấy căn phòng của tôi.”
“Tôi?”
“À, giờ thì giọng nói của ông lại đờ đẫn và khàn khàn. Ông không nhìn thấy bàn viết của tôi sao?”
“Có chứ.”
“Ông tìm thấy những gì ở đó?”
“Đủ để tôi cho rằng tôi đã tìm thấy đúng thứ.”
“Ồ, ồ, ông không muốn nói hết ra. Ông tìm thấy những thứ dùng để trang điểm, đúng không?”
“Đúng thế.”
“Và tóc giả với bộ râu?”
“Phải, tôi đã hoàn toàn biết rõ đó chính là ông, ông thám tử ạ, người đã giả làm hồn ma của viên kiểm lâm bị sát hại.”
“Thế ông có tìm ra lý do cho việc ấy không?”
“Ông luôn nói chuyện thật khó hiểu, tôi không hiểu.”
Vị thám tử đặt tay lên vai tôi.
“Này,” ông ta nói, “dường như tôi nghe được…”
Cả hai chúng tôi cố gắng lắng nghe.
Từ tít dưới biển, chúng tôi nghe được tiếng chèo thuyền; người ta đang chèo một chiếc thuyền đi ngang qua trong bóng tối. Tiếng động vang đến chỗ chúng tôi như đi qua một cái loa. Chúng tôi cũng nghe được văng vẳng tiếng người nói, vài từ rời rạc, nghe có vẻ xa xôi yếu ớt kỳ lạ:
“… trong thời tiết thế này thì tốt hơn là…”
Chúng tôi không nghe được nhiều, phần còn lại đã bị bóng tối và vực sâu nuốt chửng.
“Sâu, sâu phía dưới,” vị thám tử lẩm bẩm. Sau khi ông ta lắng nghe một lúc mà không nghe được thêm gì nữa, ông ta tiếp tục.
“Như tôi đã nói, ông bạn thân mến, tôi đã cư xử khác thường trong vụ việc đáng sợ này. Tôi biết rõ rằng viên kiểm lâm hẳn đã chết dưới tay một người đàn ông trong cơn giận dữ. Đây hoàn toàn không phải là vụ giết người có chủ đích. Tôi nhanh chóng nghĩ đến một vụ ghen tuông. Khi nhìn thấy nụ cười đắc thắng của nạn nhân, tôi thầm nói: Nếu ông ta cười nhạo tình địch như thế này thì tôi có thể hiểu được là người đó sẽ đánh ông ta ngã xuống ngay lập tức… Thế đấy! Nhưng tôi cũng nhìn thấy ngay rằng việc thu thập bằng chứng là điều không hề dễ dàng. Người ta có thể củng cố cho sự nghi ngờ, nhưng không thể tìm được bằng chứng cụ thể nào. Trong khi đó, việc phạm tội này chỉ xảy ra tình cờ, một hành động hết sức bất ngờ và thiếu suy nghĩ. Tức là tôi phải tiến hành công việc của mình khác với thông thường. Bây giờ tôi muốn kể cho ông nghe một ví dụ, ông bạn thân mến ạ. Cách đây hai năm, một người Anh giàu có đã biến mất một cách bí ẩn tại bờ biển vùng Riviera. Công cuộc điều tra cho thấy rằng đây là một vụ giết người cướp của, nhưng không tìm thấy kẻ giết người. Người ta hoàn toàn không có mô tả nào về hắn. Viên thám tử người Pháp nhỏ người khôn lanh chỉ huy cuộc điều tra ấy đã làm gì? Vâng, ông ta đã đóng giả làm nạn nhân! Ông ta hóa trang giống hệt người đó, mặc trang phục giống hệt như người đó và làm một chuyến du lịch quanh tất cả các thủ đô của châu Âu. Ông ta đi dạo trên các con đường lớn nhỏ, nơi có đông người. Cuối cùng, ở St. Petersburg đã xảy ra điều mà ông ta hy vọng. Một người đàn ông giật mình đứng lại khi nhìn thấy ông ta. Đó là tên giết người, kẻ đã tin rằng bóng ma nạn nhân bất chợt xuất hiện, vì vậy mặt hắn đột nhiên trắng bệch và sợ hãi bỏ chạy. Trong khoảnh khắc kế tiếp, hắn đã bị bắt.
“Và đấy, ông bạn thân mến ạ, đấy là phương pháp của tôi. Chỉ là nó được tiến hành hơi khác một chút. Tôi có những nghi ngờ nhất định và hiểu rằng, bởi vì tôi nhìn rõ hơn tất cả những người khác trong những sự việc như thế này, chỉ có một người duy nhất có thể là kẻ giết chết viên kiểm lâm. Từ lúc đó, tôi đ?