Chiếc Xe Sắt

Chiếc Xe Sắt

Tổng số chương: 8

Lúc đó là khoảng 11 giờ sáng, phần lớn du khách đến nghỉ hè đã dần rời bàn ăn sáng, di chuyển ra ngoài bãi cỏ trước hiên khách sạn.

Sau nhiều ngày ngăm ngăm lạnh, cuối cùng mùa hè ấm áp đã đến; trời mưa đêm nhưng đến tầm 7 giờ thì bắt đầu tạnh ráo, mặt trời lấp lánh cả ngày, cỏ cây và mặt đất đều đã khô cong, những vũng nước bốc hơi hoàn toàn, trả lại lối đi sáng lóa khô ráo.

Du khách cảm thấy vui mừng vì giờ đây, mùa hè tươi đẹp cùng sự ấm áp dễ chịu đến dư thừa của nó cuối cùng cũng đã đến. Vậy nên họ cùng ra ngoài, nằm phơi mình rải rác trên bãi cỏ, dưới ánh mặt trời nóng ấm rót từ trên cao xuống và họ nheo mắt nhìn lên. Họ nghe được tiếng ì ầm của biển cả từ phía xa, tiếng gió rì rào cất lên từ ngoài khơi, thổi qua núi và bị chặn lại trước những rặng vân sam, rồi nhẹ nhàng lướt trên bãi cỏ và nhiều lắm cũng chỉ có thể khiến những ngọn cỏ đung đưa, lướt qua lướt lại, gây nhột nhột trên khuôn mặt những du khách đang nằm đó.

Trên bãi cỏ nơi đang nằm, tôi còn có thể nhận ra nét óng ánh cùa dáng hình dưới lớp vải mousseline trắng, cần cổ của một người phụ nữ với mái tóc vàng lả lướt nhẹ nhàng đang nghiêng nhẹ đầu. Nếu tôi vờ vĩnh ngoái lại nhìn, ánh mắt tôi sẽ hướng ra mái hiên bằng vải của khách sạn, nơi ánh nắng đang chơi đùa trên những sọc màu đỏ như lửa của nó.

Có năm người nằm xung quanh tôi; tất cả dường như đang ngủ, nhưng thật sự thì chẳng có ai ngủ cả. Về người phụ nữ mặc y phục trắng ở bên trái, tôi biết rằng cô ấy giấu khuôn mặt dưới đôi bàn tay và có một cuốn tiểu thuyết đang mở ra trước mặt; nhưng tôi không nghe thấy tiếng cô ấy lật trang. Không ai nói điều gì. Chúng tôi nằm hưởng thụ sự nhàn rỗi. Cơn buồn ngủ ập đến, sự nóng bức bóp ngạt dần mọi ý muốn và mọi năng lượng. Chúng tôi có thể nằm như thế hàng năm trời mà không ai muốn động đậy dù chỉ một bàn chân hay lật một trang sách. Ngay cả những ý nghĩ không bao giờ ngưng nghỉ cũng bắt dầu thiếp ngủ. Có ai còn muốn suy nghĩ nữa chứ? Tiếng biển ầm ào ngoài kia dần tắt, tai người ta tự khép lại, tiếng động nào cũng bị bỏ qua, chúng tôi chỉ còn nghe được đâu đây một cái gì đó. Có thể là một con ong bầu đang bay ngang qua, hay một cánh cổng vườn đóng lại. Tôi biết có một con két bị nhốt trong lồng, treo trên bức tường đầy nắng của khách sạn. Ngay cả nó cũng cảm thấy dễ chịu khi bộ lông được sưởi ấm và muốn duỗi bộ xương già nua ra thư giãn. Tôi có thể nghe được tiếng nó dùng mỏ ngậm chặt vào cái thanh ngang của chiếc lồng và đu qua đu lại. Nhưng đúng lúc đó có một cánh cổng được đóng lại, và lần này mạnh tới mức mọi thứ đều kêu lanh canh. Ngay sau đó tôi nghe thấy một giọng nói kề bên, “Xem kìa!”

Có gì để nhìn kia chứ? Ai mà lại có hứng thú ngẩng đầu lên? Tiếng chân người vang lên trên con đường đất, những bước chân vội vã; đó hẳn là một người đàn ông chạy cùng một người đàn bà. Tôi có thể nghe rõ được tiếng ủng đàn ông giậm xuống đất và tiếng váy kêu sột soạt. Tôi đứng dậy, nhưng đôi mắt bị ngợp bởi ánh mặt trời lấp lánh và lung linh tựa sương vỡ tan trong không khí.

“Hãy xem kìa!” Người phụ nữ mặc đồ trắng bên cạnh tôi nói và chỉ tay về phía trước. Qua những cây táo đầy hoa trắng, bây giờ tôi mới có thể nhìn thấy những gì đang diễn ra trên con đường đó.

Có ba người đang chạy. Dẫn đầu là một bé trai chân trần nhanh nhẹn, phía sau là một người đàn ông trung niên mang dáng dấp của cư dân thị trấn nhỏ bé này. Ông ta mặc một chiếc áo màu xanh dương, không có áo khoác, tay cầm chiếc mũ rơm nhỏ màu vàng đã cũ. Sau cùng là một du khách nữ đến nghỉ hè, nhưng bà ở tít đằng sau vì chiếc váy trắng cản trở không cho bà chạy nhanh về phía trước. Bà cố vén nó lên nhưng không được, đành phải tiếp tục chạy đi trong khi chiếc váy bay phấp phới như một ngọn cờ trắng ở phía sau.

“Có lẽ là một con bò điên,” người phụ nữ bên cạnh tôi nói.

Thế nhưng chắc chắn không phải vậy, vì nếu thế thì những người đó không cần phải chạy nữa sau khi cổng đã đóng.

Trong chớp mắt, chúng tôi, những con người uể oải, ngồi dậy; một vài người đã đứng lên và đưa tay che nắng.

Những người mới đến đi về phía chúng tôi. Một hàng rào nhỏ ngăn cách khuôn viên khách sạn với con đường; ở giữa hàng rào có một lối đi nhỏ. Người ta chỉ cần đẩy một thanh gỗ sơ sài sang một bên để bước vào bên trong.

Cậu bé và người đàn ông đến bên cạnh thanh gỗ gần như cùng lúc. Và một cảnh tượng thật buồn cười lại diễn ra. Họ vội vội vàng vàng không biết làm gì với cái thanh gỗ, cứ giật tới giật lui nó. Rõ ràng họ không biết phải nhảy qua nó, đập gãy nó, luồn dưới nó hay đẩy nó sang một bên. Cuối cùng, kết quả duy nhất cho mó lộn xộn này là người phụ nữ trong bộ váy trắng đã đuổi kịp họ. Cậu bé chứng tỏ mình là người khôn lanh nhất; cậu nhảy qua hàng rào, khuỵu gối xuống rồi đứng dậy và chạy tới chỗ chúng tôi. Khi người đàn ông chạy tới chỗ cái thanh gỗ, ông ta đẩy nó qua một bên thật dễ dàng. Vì vậy mà ba người này đến được chỗ chúng tôi gần như cùng lúc. Nhìn vẻ mặt của họ, chúng tôi biết rằng có chuyện gì đó đặc biệt đã xảy ra. Cả ba người họ đều bị kích động tới mức không thể tường thuật lại ngay lập tức. Người đàn ông bản địa lắp bắp nói điều gì đó không thể hiểu được, đôi mắt ông ta trợn ngược lên vì sợ hãi trong khi cố tìm từ diễn đạt. Người phụ nữ thở hổn hển ép tay lên ngực. Cậu bé lại là người nhanh mồm nhanh miệng nhất và bắt đầu nói.

Vì mới đầu hè nên lúc đó chỉ có sáu hay bảy người khách đến đây. Ba người trong số họ là phụ nữ, làm việc trong một cửa hàng lớn ở Christiania, nơi mà các kỳ nghỉ phép của nhân công được phân chia từ giữa tháng 5 cho tới tháng 9. Mùa du lịch thật ra chưa bắt đầu, nhưng nhiều phụ nữ phải chấp nhận hưởng kỳ nghỉ khi đến phiên mình. Ngoài ra còn có ba người đàn ông: một nhân viên thu ngân ở ngân hàng, một sinh viên trẻ, một nhân viên kiểm lâm và tôi - người đang viết những dòng chữ này.

Cho tới sáng nay, thời tiết không ủng hộ chúng tôi. Ban ngày thì dông bão, ban đêm thì lạnh và nhiều mây. Nhưng mùa hè đến thật đột ngột, với cái nóng bức và ánh nắng rực rỡ, vì vậy mà chúng tôi đang sung sướng hưởng thụ sự nhàn rỗi vào buổi sáng nay, rồi bất thình lình bị ba người kia chạy đến quấy rầy.

Thị trấn nhỏ nơi chúng tôi đang ở thu hút nhiều du khách vào mùa hè, tức là trong tháng 7 và tháng 8. Một con đường di dạo sẽ dẫn xuyên qua khu rừng thông non ra đến biển chỉ trong vòng vài phút đi bộ. Trong đêm tối, ánh sáng nhấp nháy từ ngọn hải đăng chiếu sáng như tùng dải cực quang vắt ngang bầu trời. Vùng này là một hòn đảo lớn nhưng trũng thấp và có nhiều chỗ đi lại tương đối khó khăn. Trên đảo có khá ít nhà cửa và cũng chỉ nằm quanh khách sạn, nhưng lại có một cánh đồng hoang trải dài xa hàng dặm với đầy những núi đá hình thành từ băng tích. Đây đó có một cái ao hay một con suối nhỏ chảy róc rách, và giữa cánh đồng hoang ấy có những con đường lầy lội với đầy bụi rậm và các loại cây thấp. Trang trại Gjaernaes ở phía xa như nằm trên một tấm thảm dệt từ những cánh đồng xanh màu mỡ và những khu vườn sum suê. Vào ban ngày, người ta có thể nhìn ra nông trại từ gian phòng áp mái của khách sạn, còn vào ban đêm thì có thể thấy ánh đèn nhấp nháy từ ô cửa sổ. Khi đến khách sạn, tôi đã yêu cầu nhất định phải sắp xếp cho tôi phòng này; vì thế mà tôi có thể tùy thích thưởng ngoạn phong cảnh đẹp đẽ của vùng đất hoang này. Tôi đã quen những người sống ở trang trại này, hai anh em Carsten và Hilde Gjaernaes, từ trước.

Vắt ngang cánh đồng hoang là con đường có từ xa xưa với nhiều đoạn mấp mô và quanh co, dẫn qua đống đá, dọc theo cái ao, qua những con suối, xuyên qua bụi rậm và cây cỏ. Con đường đó thật lý tưởng để đi dạo; trong vòng gần nửa giờ đồng hồ, người ta có thể đi từ khách sạn đến trang trại. Ở đó, người ta có thể chào hỏi cô Hilde trẻ trung xinh đẹp, hay tán chuyện với Carsten Gjaemaes - dù thế nào đi nữa thì chuyến dạo chơi cũng hứa hẹn vô cùng thú vị.

Vào buổi chiều tối trước vụ việc mà tôi muốn tường thuật, tôi đã đi dạo trên cánh đồng hoang.

Tôi khởi hành từ khách sạn độ chừng sau 9 giờ rưỡi một chút - sau bữa ăn tối. Tôi chỉ có một mình và đi khá nhanh, vì không khí từ chiều tối đã mát lạnh và ẩm ướt. Sau 10 giờ, tôi đến trang trại và nghĩ rằng sẽ thật thú vị nếu có thể nói chuyện phiếm một chút, hay thậm chí chơi bài hoặc chơi một ván cờ với Carsten Gjaernaes. Thường vào lúc này anh ta sẽ đến phòng làm việc và ở đó cho tới nửa đêm. Tôi coi đó là một điều hiển nhiên, rằng tôi là một vị khách được chào mừng, vì Carsten Gjaeraes là một người quảng giao và quen thân với tôi.

Tuy vậy - tôi buộc phải thú nhận điều này - tôi còn có một động cơ ẩn tình nữa: nếu Hilde còn chưa đi nghỉ thì có thể tôi sẽ có cơ hội thủ thỉ đôi điều cùng cô ấy. Như đã nói, cô rất xinh đẹp. Ở nơi vùng sâu vùng xa này, tôi cảm thấy thiếu vắng sự hiện diện của phụ nữ; ba bà nhân viên buôn bán trong khách sạn suốt ngày như bị kích động cao độ, khiến tôi về lâu về dài không thể chịu đựng được thói ngồi lê đôi mách của họ, chỉ xoay quanh việc liệu họ có mạnh khỏe hơn không, liệu mặt trời có làm cho họ rám nắng không, hay liệu tôi có muốn đi hái hoa súng với họ không.

Tôi đi qua hàng rào và bước vào sân khiến con chó mực Hektor gầm gừ trong chuồng; khi tôi tỏ vẻ không thèm quan tâm thì nó chậm chạp đứng dậy và chạy đến chỗ tôi, kéo sợi dây xích theo sau. Trong lúc đó, nó sủa và gầm gừ không ngừng, khiến tôi hết sức ngạc nhiên vì cho tới lúc đó tôi vẫn coi Hektor là một con chó hiền lành.

Khi tôi định bước qua cửa chính thì ông quản gia chạy ra giữ tôi lại.

“Xin lỗi ông,” ông ta nói, “nhưng bây giờ ông không được phép làm phiền ông chủ.”

Tôi đứng lại, trừng trừng nhìn ông ta.

“Ông làm sao thế,” tôi hỏi, “ông ốm à?”

Dù đang trong cảnh tranh tối tranh sáng nhưng tôi vẫn thấy khuôn mặt ông ta trông thật xanh xao. Ông ta đứng trước tôi trên lối đi và bám vào cột cửa. Hẳn là do người này yếu tới mức không thể đứng vững, nhưng cũng có thể ông ta cố ý không cho tôi đi qua bằng bất cứ giá nào, và đang chặn cửa lại khiến tôi không bước vào được.

“Tôi không ốm.” Ông ta trả lời.

“Thế thì ông chủ của ông ốm à?”

“Không!”

“Có ai ở trong đó với ông ấy sao?”

“Không, hoàn toàn không có ai cả, ông chủ dùng bữa với em gái của ông ấy.”

Tôi không hiểu tại sao mình bị từ chối và tiếp tục hỏi.

“Tôi có làm gì khiến ông ấy buồn phiền không?” Tôi lầm bầm.

“Hoàn toàn không,” người quản gia đáp. “Nhưng ông Gjaemaes không thể tiếp ông tối nay được.”

Tôi nhìn kĩ người quản gia một lần nữa, và giờ thì tôi chắc chắn rằng ông ta xanh xao một cách khác thường. Tôi cũng nhớ rằng trong khoảnh khắc ấy tôi đã nghĩ thầm: Tại sao ông ta không hỏi tôi liệu có cần chuyển lời hỏi thăm đến ông chủ không, hay có muốn nhắn điều gì không. Rồi tôi lại hỏi:

“Làm sao ông biết được sẽ gặp tôi ở ngoài này?”

“Cô chủ thấy ông đến.”

“Cô Hilde?”

“Vâng. Cô chủ bảo tôi đừng cho ông vào. Tôi đứng đây theo mệnh lệnh của cô chủ.”

Thế là tôi quay phắt người bỏ đi. Tôi còn chẳng thèm gật đầu chào từ biệt ông ta, mà phăm phăm băng qua sân. Con chó gầm gừ giận dữ còn hơn cả ban nãy. Có một con đường phụ dẫn qua khu vườn mà tôi quá quen thuộc vì đã nhiều lần qua đó. Tôi đi theo lối đó; nhưng nghi ngờ có gì đó mờ ám đang diễn ra, nên tôi đã làm một việc khác thường. Tôi đứng trong bóng tối dưới những rặng cây của khu vườn, vừa quan sát vừa nghe ngóng.

Tôi nhanh chóng nhận thấy rằng trang trại đang không có khách, bởi chỉ có ánh sáng trong phòng làm việc và trong gian phòng kế cận. Ánh đèn trong phòng làm việc tắt đi bật lại vài lần. Một lần duy nhất tôi thấy có ánh đèn sau tất cả những cửa sổ nhìn ra sân; rõ ràng có một người cầm cây đèn di dọc hành lang. Đó chắc hẳn là Carsten Gjaernaes, vì phòng riêng của anh ta lúc đó tối đen. Trong trang trại rõ ràng có một sự chộn rộn. Tôi căng tai lắng nghe, và có một lần tôi cảm giác như mình nghe thấy những tiếng nói to hoặc phấn khích ở trong đó phát ra.

Trong lúc tôi đứng đó và nghĩ: Bây giờ mình phải đi thôi, thì bỗng thấy một cánh cửa nhỏ trong tòa nhà lớn được mở ra. Tôi biết rằng cánh cửa này dẫn đến chỗ ở của cô Hilde, vì cô ấy có tới ba căn phòng nhỏ của riêng mình.

Một người đàn ông trong bộ đồ đi săn màu xanh bước ra cửa, trên tay cầm khẩu súng, nòng súng hướng xuống mặt đất. Anh ta đứng lại ở bậc trên cùng; sau lưng có một bóng dáng phụ nữ bước ra - đó là Hilde. Cô đưa tay cho anh ta, mỉm cười và nói vài từ. Sau đó, anh ta bước đi, cố quay người lại vẫy chào và cô cũng vẫy tay chào lại. Từ nơi đang đứng, tôi có thể nhìn thấy toàn bộ sự việc. Tôi biết rõ người đàn ông trong trang phục đi săn màu xanh, đó là một anh chàng trẻ tuổi, dễ mến, sống chung với chúng tôi trong khách sạn; anh ta là nhân viên kiểm lâm, tên là Blinde.

Tôi hết sức quan tâm đến sự việc này, mặc dù không thể giãi bày được lý do mình cảm thấy thế. Tôi rón rén bước tới sau một cây to, không muốn anh ta bắt gặp tôi theo dõi ở đây. Hilde đã đi vào trong. Rõ ràng cô ấy hoàn toàn không che giấu việc mình đã tiễn người đàn ông này ra về. Lúc đó, cô đã nói chuyện với anh ta, to tới mức tuy đứng tương đối xa trong vườn nhưng tôi vẫn có thể nghe được giọng nói của cô dù câu được câu mất. Bây giờ thì tôi nghe được tiếng cánh cửa đóng lại và tiếng chìa khóa xoay trong ổ khóa.

Trước tôi gần mười bước, người đàn ông ấy đứng lại và châm tẩu thuốc. Gương mặt anh ta sáng lên dưới ánh lửa diêm; anh ta có bộ râu màu nâu đỏ, nét mặt khắc khổ và nghiêm nghị. Rồi anh ta ném que diêm xuống đất, di chân lên nó và quay mặt về hướng gió để xem xét, một thói quen có được từ cuộc sống trong rừng và trên đồng ruộng; rõ ràng anh ta muốn biết thời tiết sẽ ra sao. Trước khi tiếp tục đi, anh ta ấn chiếc mũ sâu xuống tận mắt, rồi sải bước trên con đường dẫn qua cánh đồng hoang về đến khách sạn. Tôi chờ vài phút sau mới bám gót rời đi vì không muốn anh ta nhận ra là đang bị tôi theo dõi.

Khi tôi đến cánh đồng hoang thì anh ta đã biến mất sau đầm lầy ngay cạnh. Tôi không còn nghe thấy tiếng bước chân của anh ta nữa, và cũng không có tiếng động nào từ trang trại vang đến đây. Gió đã lặng, mọi thứ quanh tôi đều im ắng. Một cảm giác kỳ lạ giữa đồng không mông quạnh trong đêm hè. Phong cảnh xung quanh tôi trải rộng đến vô tận, chân trời biến mất và mặt đất dường như chạm tới chân trời. Người ta không biết bầu trời bắt đầu từ đâu và mặt đất chấm dứt ở đâu. Các đống đá, những mảnh ruộng và cây cối đây đó có những hình dạng kỳ lạ và bí ẩn trong ánh sáng chạng vạng. Khi tới cánh đồng hoang xuôi theo sườn dốc ra biển, tôi cảm nhận được hơi mát lạnh từ biển thổi vào khiến tôi phải dựng cổ áo khoác lên. Tôi nhìn thẳng, phía trước là biển cả luôn lạnh lẽo mỗi khi đêm xuống; tôi có thể nghe được tiếng sóng cuồn cuộn vào bờ rồi chờm lên bò cát. Cát bị gió thổi chất thành đống; thấp thoáng sau lùm cát, những cây vân sam đáng thương, đặc trưng cho hệ thực vật của những hòn đảo đá nhỏ của Na Uy, xác xơ vì bão tố. Ngọn của chúng gãy lìa trông như những cây quạt bị bẻ cong và hướng vào đất liền.

Tôi biết rằng khu vực này không an toàn, hay có thuyền của người Di-gan ẩn nấp giữa những hòn đảo đá về đêm. Thuyền nào cũng chất đầy như sắp nứt, cánh buồm làm từ những mảnh vải cáu bẩn và kéo đủ loại cành cây vô dụng theo ở dưới nước và chiếc bánh lái thuyền nổi bật ở một bên. Chúng bám vào các vách đá như đỉa đói rồi bỏ thuyền lên đất liền và luôn xuất hiện ở những nơi người ta sống hay di dạo một mình, dẫn họ xuống địa ngục. Tôi không sợ mà chỉ sực nhớ như thế khi bước đi trên cánh đồng trống trải. Trong tay, tôi cầm một cây gậy to với một đầu tròn bằng ngà voi làm tay nắm. Tôi bước nhanh qua khoảng đất trống và chìm vào trong bóng tối của cây cối.

Gần khách sạn, con đường này dẫn xuyên qua một khu rừng thông nhỏ tối tăm mịt mùng. Tôi đứng lại vì có một tiếng động kỳ lạ đập vào tai. Nó có thể là gì? Tiếng động này đến từ xa, chỉ văng vẳng bên tai tôi. Nó gần giống như tiếng leng keng của một sợi dây xích kim loại cách xa hàng dặm. Tôi tiếp tục đi, được khoảng năm phút nữa thì bất thình lình nhìn thấy một vật đang di chuyển trong bóng tối, cách đó chỉ vài mét. Tôi nhận ra ngay đó hẳn phải là con người, liền nắm lấy cây gậy chặt hơn nữa, đi theo một đường vòng cung lớn…

Có một người đàn ông đang đứng ở đó, tướng tá chắc nịch với cái mũ rộng vành trên đầu. Tôi biết rằng tôi chỉ cần sải bước thêm chút nữa là có thể nhanh chóng bỏ lại ông ta phía sau, nhưng tôi đột ngột dừng lại. Và rồi khi tôi đứng đó, người đàn ông này tiến dần đến chỗ tôi. Bây giờ thì tôi cũng nhận ra ông ta. Tôi cảm thấy vừa buồn cười vừa hối hận vì đã muốn né tránh ông ta, bình thản cắp cây gậy vào người. Thế nhưng, khi ấy tôi không nén được cảm giác vui mừng rằng người đàn ông này không phải là người lạ. Ông ta sống trong thị trấn tôi đang ở, chỉ là trong khoảnh khắc này tôi nhất thời chưa thể nhớ ra tên ông ta, một ngư dân hiền lành mà trước đây tôi đã nhiều lần chào hỏi. Tôi nói với ông ta:

“Khuya thế này mà ông còn đi ra ngoài à?”

Thay vì trả lời câu hỏi đầy vẻ quan tâm của tôi thì người đàn ông này lại hỏi và nghe ngóng:

“Ông có nghe thấy không?”

“Cái gì?”

“Suỵt!” Ông ta nói và ra vẻ tiếp tục nghe ngóng.

Và bây giờ thì tiếng động đó lại xuất hiện, cái tiếng động xa bất tận của những sợi dây xích sắt rời nhau, kêu loảng xoảng.

“Cái gì thế?” Tôi hỏi.

“Đó là chiếc xe sắt,” người đàn ông nghiêm túc trả lời. “Đã lâu rồi tôi mới nghe được tiếng của nó.”

Chiếc xe sắt! Trong ký ức tôi chợt lóe lên, rằng tôi đã từng nghe về việc này rồi. Một câu chuyện kỳ lạ mà tôi đã quên mất. Tôi không còn nhớ rõ đầu đuôi thế nào nữa, nhưng màn đêm và bóng tối đã đánh thức cảm giác trong tôi, rằng đó là một câu chuyện đáng sợ.

Tôi nhanh chóng nắm lấy cánh tay người đàn ông đó và tiếp tục đi với ông ta thêm một đoạn.

“Chiếc xe sắt?” Tôi hỏi. “Lần cuối cùng ông nghe thấy nó cách đây bao lâu rồi?”

“Bốn năm, trong cái đêm mà ông già Gjaernaes qua đời.”

“Chiếc xe đó là của ai?”

“Vâng, chiếc xe đó thực sự là của ai?” Người đàn ông đáp lại rồi lắc đầu.

Tôi không hỏi tiếp, vì giờ đây chúng tôi đã ra khỏi khu rừng, và tấm bạt che nắng có sọc đỏ rực rỡ trước khách sạn đã xua tan không khí váng vất của vùng đất hoang. Bây giờ, chúng tôi cũng không nghe thấy tiếng của chiếc xe sắt nữa, vì khu rừng đã ngăn âm thanh đó lại, không cho nó vang đến chỗ chúng tôi.

Tôi bước lên gian phòng áp mái của mình và mở cả hai cửa sổ. Cái tôi nhìn thấy đầu tiên là một thứ ánh sáng mờ ảo, xa tận chân trời. Tức là người trong trang trại Gjaernaes vẫn chưa đi nghỉ. Tôi bất chợt muốn biết khi nào ánh sáng này sẽ tắt. Tôi ngồi xuống cạnh cửa sổ, nhưng chờ đợi khiến tôi mệt mỏi nên chẳng bao lâu sau tôi lại đi lại trong phòng, hút vài điếu thuốc lá rồi bước ra cửa sổ thầm nghĩ: Giờ thì ánh sáng đó hẳn đã tắt. Nhưng ánh sáng vẫn lấp lánh. Một giờ đồng hồ trôi qua. Tôi cảm thấy màn đêm bỗng nóng hơn và oi bức, liền giơ tay ra ngoài cửa sổ, để vài giọt mưa nặng hạt rơi vào lòng bàn tay. Không khí yên lặng, mưa đêm rả rích làm bên ngoài như ấm áp hơn. Tôi vừa lắng nghe vừa lặng nhìn; lúc đó tôi lại nghe thấy nó, cái tiếng sắt va loảng xoảng xa xa, nhưng giờ đây tiếng động đó còn ở xa hơn cả trước. Một lúc lâu tôi không nghe được nó, rồi đâu đó, một âm thanh yếu ớt vọng lại, sau đó yên lặng như tịnh không có gì và tôi lại nghe được tiếng loảng xoảng hơn một phút, hay lâu hơn thế.

Chiếc xe sắt! Tôi đóng cửa sổ lại. Ở ngoài, ánh sáng dần vén màn đêm, tia nắng bò chầm chậm lên những ngọn núi. Tôi nhìn thấy cành cây bắt đầu đẫm sương mai. Một lần cuối cùng nhìn qua cánh đồng hoang… ánh sáng vẫn còn đó, tôi thả rèm xuống.

⚝ ⚝ ⚝

Thế là mùa hè nóng nực đã thực sự đến trong một khoảng thời gian dài. Sáng hôm sau là ngày mà năm người khách chúng tôi nằm trên cỏ và đắm mình trong ánh nắng mặt trời nóng nực.

Đúng lúc đó, ba người này chạy tới: thằng bé, ông đánh cá và người phụ nữ mặc váy trắng.

Rõ ràng tất cả bọn họ đều muốn nói điều gì đó đặc biệt, nhưng cậu bé - như đã nói - nhanh mồm nhanh miệng nhất; cậu ta thông báo trước cho chúng tôi, bằng cách nói thật to:

“Bọn cháu nhìn thấy một xác chết trên đường!”

Danh sách chương


Sách tương tự