← Quay lại trang sách

CHƯƠNG II TẦN SÁCH

Tổ tiên nhà Tần họ Doanh, tới đời Chu được phong tước Bá, từ Bá Ế truyền được mười đời, tới Phi Tử, Chu Hiếu Vương (909-894) phong cho Phi Tử một nước phụ thuộc ở đất Tần (nay thuộc Thiểm Tây, huyện Thanh Thủy).

Tới Tần Tương Công, vì có công với nhà Chu, được phong làm chư hầu, lúc đó mới lấy tên là nước Tần. Mới đầu lập kinh đô ở đất Khiên, sau dời đổi mấy lần, tới đời Tần Hiếu Công thì dựng đô ở Hàm Dương (nay gần huyện Hàm Dương).

Thời Chiến Quốc, Tần là một trong thất hùng, mỗi ngày một mạnh, sau cùng diệt các nước khác mà thống nhất Trung Quốc.

TẦN I 1.[155] TRUYỆN VỆ ƯỞNG

(Vệ Ưởng vong Nguỵ nhập Tần)

Vệ Ưởng bỏ Nguỵ mà qua Tần. Tần Hiếu Công dùng làm tướng quốc, phong cho ở đất Thương, nên gọi là Thương Quân[156]. Thương Quân cai trị Tần, phép lệnh rất công minh, vô tư: phạt thì không kiêng kẻ có uy quyền lớn, thưởng thì không vì tư tình. Hình pháp thi hành lên tới cả thái tử, thích chữ vào má và cắt mũi quan sư phó[157]. Một năm sau, trên đường có của rơi không ai dám lượm, dân không dám lấy bậy của người khác, quân lính rất mạnh, chư hầu đều sợ. Nhưng phép nghiêm quá mà ít thi ân, thành thử người ta chỉ miễn cưỡng mà phục.

Hiếu Công thi hành phép của Thương Ưởng được tám năm[158] tới khi đau nặng muốn truyền ngôi cho Thương Quân, Thương Quân không nhận[159].

Hiếu Công mất rồi, Huệ Vương lên thay, trị vì được một thời gian thì Thương Quân xin về Nguỵ. Có người bảo Huệ Vương:

- Đại thần mà quyền lớn quá thì nước nguy; kẻ tả hữu mà thân cận quá thì bản thân nguy. Nay ở Tần, đàn bà trẻ con đều nói: pháp lệnh của Thương Quân chứ không nói: pháp lệnh của đại vương, thế thì ngược lại chính Thương Quân mới là vua mà đại vương hoá thành bề tôi. Vả chăng, Thương Quân vốn là kẻ thù của đại vương xin đại vương xét kỹ[160].

Thương Quân trở về Tần[161], Huệ Vương cho xe ngựa xé thây[162], mà người nước Tần không ai thương xót.

2. TRUYỆN TÔ TẦN[163] – C11,2-31

(Tô Tần thuỷ tương liên hoành) –QC[164] – BC[165]

Tô Tần[166] mới đầu đem kế liên hoành[167] thuyết Tần Huệ Vương[168] rằng:

- Nước của đại vương phía Tây có những nguồn lợi của Ba, Thục[169], Hán Trung[170]; phía bắc có những sản vật như lạc đà đất Hồ, ngựa đất Đại[171]; phía nam có Vu Sơn và Kiềm Trung[172] hiểm trở, phía đông có Hào Sơn và Hàm Cốc[173] kiên cố. Ruộng thì phì nhiêu, dân thì phong phú, chiến xa có vạn cổ, quân lính hăng hái có trăm vạn, cánh đồng màu mỡ rộng ngàn dặm, lương thảo súc tích nhiều, địa thế tiện lợi (cho việc công và thủ). Như vậy gọi là kho của trời, quả là một nước mạnh trong thiên hạ. Đại vương thì hiền minh, dân chúng thì đông đúc, chiến xa và ngựa thì tốt, sĩ tốt thuần thục về binh pháp, nhờ những điểm đó có thể kiêm tính được chư hầu, nuốt được thiên hạ, xưng đế mà thống trị. Xin đại vương lưu ý một chút cho thần bày tỏ mưu kế công hiệu.

Vua Tần đáp:

- Quả nhân nghe rằng lông, cánh chưa đủ thì chưa thể bay cao được; pháp lệnh[174] chưa thành thì chưa thể dùng hình phạt được; đạo đức chưa dầy thì chưa thể sai dân được; chính giáo chưa thuận thì chưa thể làm phiền nhọc đại thần được. Nay tiên sinh không ngại đường xa ngàn dặm, nghiêm chỉnh đến tận nơi chỉ giáo quả nhân, nhưng xin hẹn một ngày khác.

Tô Tần thưa:

- Thần vốn ngờ rằng đại vương không dùng kế của thần. Xưa vua Thần Nông đánh Bổ Toại[175], vua Hoàng Đế đánh miền Trác Lộc, cầm tù Xi Vưu[176], vua Nghiêu đánh Hoan Mâu[177], vua Thuấn đánh Tam Miêu[178], vua Võ đánh Cung Công[179], vua Thang đánh Hữu Hạ[180], vua Văn Vương đánh Sùng Hầu Hổ[181], vua Vũ Vương đánh Trụ[182], vua Tề Hoàn dùng chiến tranh mà làm bá chủ thiên hạ[183]. Do đó mà xét thì có ông vua nào mà không dùng chiến tranh. Hồi xưa rong ruổi chiến xa mà đánh nhau, dùng lời mà kết ước với nhau, mà thiên hạ thống nhất. Sau hợp tung liên hoành với nhau, và việc binh đao không lúc nào nghỉ. Rồi bọn văn sĩ khéo tô điểm lời nói, chư hầu bị mê hoặc, vạn sự do đó phát ra, không thể dùng đạo lý mà sửa lại được. Pháp lệnh đã đầy đủ mà dân càng có thái độ hư nguỵ, thư tịch nhiều mà tạp loạn, trăm họ vẫn không đủ ăn, trên oán dưới, dưới oán trên, trăm họ không biết trông cậy vào đâu; càng giảng rõ và bày tỏ đạo lý thì chiến tranh càng nổi; kẻ khéo nói thì được chức cao áo đẹp mà chiến tranh không bao giờ ngừng. Văn từ càng phồn thịnh thì thiên hạ càng loạn. Mỏi miệng, điếc tai mà chẳng kết quả gì. Làm điều nhân nghĩa, giữ đức tín, mà thiên hạ cũng không thân với nhau. Như vậy mới bỏ văn mà dùng võ, hậu đãi bọn chiến sĩ cảm tử, may áo giáp, mài binh khí, quyết thắng trên chiến trường. Ở không mà mong được lợi, ngồi yên mà mong đất đai được mở rộng thì các bực ngũ đế, tam vương, ngũ bá[184], minh chủ hiền quân thời xưa đều muốn như vậy cả, nhưng cái thế không thể được, nên phải dùng đến chiến tranh. Cách xa nhau thì dùng xe mà tấn công, sát lại gần nhau thì dùng gậy kích mà đâm, có vậy mới lập được sự nghiệp lớn. Thế cho nên binh mà thắng ở ngoài thì nhân nghĩa mới mạnh ở trong, uy vọng vững ở trên, thì dân mới phục tòng ở dưới. Nay muốn thôn tính thiên hạ, xâm chiếm nước có vạn cổ xe, khuất phục địch quốc, thống trị hải nội, khiến con dân phải ngoan ngoãn[185], chư hầu phải thần phục thì tất phải dùng binh. Các bậc vua chúa nối nghiệp ngày nay bỏ cái đạo dùng binh đó mà đều loạn về chính giáo, mê hoặc về ngôn ngữ, chìm đắm vào biện luận[186]. Lấy đó mà xét[187] thì đại vương vốn không thể thực hành việc bá chủ được.

Tô Tần mười lần dâng thư thuyết vua Tần mà không có kết quả. Áo cừu đen đã rách, trăm cân vàng đã tiêu hết, thiếu tiền chi dụng, phải bỏ nước Tần về quê nhà, đùi quấn xà cạp, chân đi dép cỏ, đội sách, đeo đẫy, hình dung tiều tuỵ, mặt mày xanh xạm, có vẻ xấu hổ.

Về tới nhà, vợ thản nhiên không rời khung cửi, chị không nấu cơm cho ăn, cha mẹ không hỏi han tới. Tô Tần bùi ngùi than rằng: “Vợ không coi ta là chồng, chị không coi ta là em, cha mẹ không coi ta là con, đều là lỗi của Tần này cả”[188].

Đêm đó lấy trong tráp cũ ra mấy chục bộ sách, tìm được bộ binh pháp Âm phù của Khương Thái Công[189], gục đầu trên án mà đọc, lựa chọn mà luyện cho thật nhuần, suy xét vào thời thế mà tìm cách ứng dụng. Đọc sách mệt mà buồn ngủ thì tự cầm dùi đâm vào vế, máu chảy tới bàn chân, bảo: “Có lẽ nào du thuyết bọn vua chúa mà không làm cho họ đem vàng ngọc gấm vóc tặng mình, đem chức khanh tướng tôn quí phong mình không?”.

Được một năm, công tinh luyện đã thành, Tô Tần tự nhủ: “Bây giờ thực là có thể du thuyết các vua chúa đương thời được”. Nghĩ vậy rồi qua miền Yên Ô, Tập Quyết[190], yết kiến Triệu Vương, thuyết Triệu Vương[191] trong một ngôi nhà lộng lẫy[192], vỗ tay mà đàm luận.

Triệu Vương rất mừng, phong Tô Tần chức Vũ An Quân, giao cho tướng ấn, cấp cho binh xa một trăm cỗ, gấm vóc ngàn tấm, ngọc bích trắng một trăm đôi, hoàng kim một vạn nén[193] mà theo hầu nhà vua để lập ước hợp tung[194], ly tán phe liên hoành và ức chế cường Tần. Vì vậy, Tô Tần làm Tể tướng ở Triệu mà cửa quan Hàm Cốc không thông với Tần nữa.

Đương thời đó, những nước lớn trong thiên hạ, những đám dân đông tới hàng vạn, những bậc vương hầu uy thế, những mưu thần có quyền hành đều muốn theo chính sách Tô Tần. Không phí một đấu lương, chưa làm mệt một tên lính, chưa dùng tới một tướng sĩ, chưa làm đứt một sợi dây cung, chưa làm gẫy một mũi tên, mà chư hầu thân ái nhau hơn là anh em một nhà. Một bậc hiền nhân được giao trách nhiệm[195] mà thiên hạ quy phục: một người được trọng dụng mà thiên hạ đều theo. Cho nên có câu rằng: “Mưu đồ vương bá, phải dùng chính trị chứ không dùng vũ dũng, phải dùng ở trong triều đình chứ không dùng ở ngoài cõi”.

Đương thời thịnh của Tô Tần[196], có vạn nén vàng để chi dùng, ngựa xe nối tiếp nhau rực rỡ trên đường mà các nước ở phía đông núi Hào[197] đều qui phục Triệu như thuận theo chiều gió khiến cho Triệu rất được tôn trọng.

Tô Tần vốn chỉ là kẻ sĩ ở trong hang cùng, cửa khoét trong tường, nhà bằng gỗ dâu mà then cửa cong queo[198] mà được ngồi xe, cưỡi ngựa, du lịch khắp thiên hạ, đến triều đình các vua chư hầu để thuyết phục, bịt được miệng kẻ tả hữu của họ, thiên hạ không ai kháng cự nổi.

Khi Tô Tần đi du thuyết vua Sở, đường qua Lạc Dương, cha mẹ hay tin, cọ nhà quét sân, bày nhạc đặt tiệc, ra ngoài ba chục dặm để đón rước, vợ chỉ dám liếc trộm, nghe trộm[199], còn chị thì bò như rắn, lạy bốn lạy, tự quỳ xuống tạ tội. Tô Tần hỏi:

- Này chị! Sao trước ngạo mạn thế mà nay cung kính thế!

Người chị đáp:

- Vì Quí tử[200] chức trọng mà tiền nhiều.

Tô Tần than:

- Ôi! Nghèo khốn thì bố mẹ không nhận làm con, giàu sang thì thân thích sợ sệt. Người sinh ở đời, thế lực, chức vị và tiền của có thể coi thường được đâu!

3. TẦN HUỆ VƯƠNG MUỐN PHÁ KẾ HỢP TUNG CỦA TÔ TẦN

(Tần Huệ Vương vị Hàn Tuyền Tử)

Tần Huệ Vương bảo Hàn Tuyền Tử[201]:

- Tô Tần khinh quả nhân muốn dùng cái trí của hắn lừa gạt các vua Sơn Đông[202], dùng kế hợp tung để khinh Tần. Triệu vốn cậy đông nên bày mưu cấp vàng lụa cho Tô Tần để kết ước với các chư hầu. Chư hầu không thể hợp nhất được, kế đó chỉ như cột chân gà với nhau bắt chúng cùng phải đậu một chỗ, điều ấy đã rõ. Quả nhân phẫn uất, nén giận đã lâu, nay muốn sai Vũ An Hầu[203] đi giảng giải cho chư hầu.

Hàn Tuyền Tử khuyên:

- Không nên. Phá thành bạt ấp thì xin dùng Vũ An Tử; tuyên truyền cho quốc gia, đi sứ chư hầu thì xin dùng khách khanh là Trương Nghi[204].

Tần Huệ Vương đáp:

- Xin vâng lời chỉ giáo.

5. TRƯƠNG NGHI THUYẾT TẦN HUỆ VƯƠNG

(Trương Nghi thuế Tần Huệ Vương)

Trương Nghi bảo vua Tần (Huệ Vương):

- Thần nghe nói: không biết mà nói thì là bất trí, biết mà không nói thì là bất trung. Làm bề tôi mà bất trung thì đáng chết. Tuy nhiên, thần xin đem hết kiến văn ra bày tỏ, xin tuỳ lượng đại vương định tội. Thần nghe nói thiên hạ, từ Yên ở phương Bắc tới Nguỵ ở phương Nam liên hợp với Kinh (tức Sở), cố kết với Tề, thu phục thêm nước Hàn mà thành thế hợp tung, tính sẽ hướng về phía Tây Nam để làm khó cho Tần. Thần trộm cười kế đó. “Đời có ba lẽ bại vong mà thiên hạ đều mắc cả”. Lời đó đúng với bọn đó chăng?

Thần nghe nói: “Loạn mà đánh trị thì bại vong, tà mà đánh chính thì bại vong, nghịch mà đánh thuận thì bại vong”. Nay kho tiền bạc, binh khí của thiên hạ[205] không đầy, lẫm lúa rỗng không, đem hết cả dân chúng ra, dàn cả mấy triệu quân, phía trước là dao, phía sau là búa mà đều bỏ chạy, không biết chiến đấu tới chết. Không phải là dân chúng không biết chiến đấu tới chết, tại bề trên họ không biết trị đấy[206]. Hứa thưởng mà không thưởng, đe phạt mà không phạt, thưởng phạt không thi hành cho nên dân không chịu chiến đấu tới chết.

Nay Tần ban hiệu lệnh rồi thi hành thưởng phạt, có công hay không có công thì cứ theo đúng sự thực mà xét. Từ khi lọt lòng mẹ ra cho tới khi lớn không từng thấy giặc, mà khi nghe có chiến tranh thì đứng dừng lại, phanh ngực ra, tay không mà sấn tới đạo nhọn, giẫm lên than hồng, quyết chết như vậy đó. Quyết chết và quyết sống khác nhau xa[207], mà dân dám quyết chết là vì thích ganh đua với nhau, một có thể thắng mười, mười có thể thắng trăm, trăm có thể thắng ngàn, ngàn có thể thắng vạn, vạn có thể thắng cả thiên hạ.

Nay địa hình của Tần, cắt chỗ dài bổ vào chỗ ngắn thì vuông vức được vài ngàn dặm, lính giỏi có cả trăm vạn. Hiệu lệnh, thưởng phạt của Tần, địa thế lợi hại của Tần, trong thiên hạ không nước nào bằng. Lấy những sở trường đó mà tranh đấu với thiên hạ thì thiên hạ không đủ cho Tần thôn tính. Vì vậy mà hiểu tại sao Tần hễ chiến là thắng, hễ đánh là chiếm được, hễ tấn công là phá được. Mở đất được mấy ngàn dặm, đó là công lớn; nhưng quân đội đã mệt mỏi, nhân dân khốn khổ, của cải suy giảm, ruộng đất bỏ hoang, kho lẫm trống rỗng, chư hầu bốn bên không phục, không làm bá vương được; nguyên do có gì lạ đâu, chỉ tại bọn mưu thần không tận trung đấy thôi.

Thần xin nhắc lại chuyện xưa. Xưa Tề ở phương nam phá nước Kinh[208], ở trung ương phá nước Tống, ở phương tây qui phục được Tần, ở phương bắc dẹp được Yên, ở trung ương sai khiến được vua Hàn, vua Nguỵ; đất rộng mà binh mạnh, hễ chiến thì thắng, đánh đâu chiếm đấy mà ra lệnh cho thiên hạ. Con sông Tế trong, con sông Hà đục[209], hai con sông đó đủ làm chướng ngại; Trường thành[210] luỹ lớn đủ làm quan tái, Tề là nước năm lần đánh thắng, chỉ có một lần thua mà Tề bị tiêu diệt[211]. Do đó mà xét chiến tranh là lẽ tồn vong của nước vạn thặng.

Vả thần lại nghe nói: “Đẽo gốc, đào rễ, đừng ở gần cái hoạ thì hoạ sẽ mất”. Tần đánh nhau với Kinh, đại phá Kinh, đánh úp đất Dĩnh[212], chiếm Động Đình, Ngũ Chử[213], Giang Nam; vua Kinh[214] thua chạy, qua đông trốn ở Trần. Đương lúc đó, đuổi đánh quân Kinh, thì có thể chiếm được Kinh mà dân Kinh, đất Kinh sẽ làm lợi cho mình. Phía đông thắng Tề, Yên, giữa chiếm lấy Tam Tấn[215], như vậy chỉ một lần ra quân mà danh thành bá vương, chư hầu bốn bề triều phục. Nhưng bọn mưu thần không dùng kế đó, rút quân về, giảng hoà với Kinh, để cho Kinh thu lại được đất đã mất[216], gom lại được dân đã tan, lập được ngôi vua, dựng được tôn miếu, thống nhất thiên hạ mà hướng về phía Tây làm khó cho Tần ở phía Tây. Đó là lần thứ nhất thiếu chính sách dựng nghiệp bá.

Những kẻ đồng chí[217] trong thiên hạ đem quân lại phía dưới Hoa Dương[218], đại vương dùng mưu phá được; binh tới ngoài thành Lương[219], vây quanh Lương vài tuần[220] thì có thể diệt Lương được. Lương tan rồi thì Nguỵ có thể chiếm được, Nguỵ chiếm rồi thì Kinh, Triệu không còn chí chiến đấu nữa, Kinh, Triệu hết chí chiến đấu thì Triệu nguy. Triệu nguy thì Kinh hoá cô lập; rồi phía đông sẽ thắng được Tề, Yên, phía trung ương sẽ xâm chiếm Tam Tấn. Như vậy chỉ một lần ra quân mà lập được cái danh bá vương, chư hầu bốn bề phải triều phục. Nhưng bọn mưu thần không dùng kế đó, rút quân về, giảng hoà với Nguỵ, để cho Nguỵ thu lại được đất đã mất, gom lại được dân đã tan, lập được ngôi vua, dựng được tôn miếu. Đó là lần thứ nhì thiếu chính sách dựng nghiệp bá.

Trước kia Nhương Hầu[221] làm tể tướng nước Tần, dùng binh một nước mà muốn lập công cho hai nước[222], cho nên quân lính suốt đời phải phơi sương dãi nắng ở ngoài, dân chúng ốm yếu bệnh hoạn ở trong mà danh bá vương không thành. Đó là lần thứ ba thiếu chính sách dựng nghiệp bá.

Triệu là nước ở trung ương[223], chỗ mà dân cư hỗn tạp; dân nông nổi khó dùng, hiệu lệnh không nghiêm, thưởng phạt không giữ đúng, địa thế bất lợi, người trên không dùng hết sức dân. Nước đó vốn có cái địa thế vong quốc, mà lại không lo cho dân chúng, đem hết dân chúng, quân sĩ giàn ra phía dưới Trường Bình[224] để tranh đất Thượng Đảng của Hàn[225], đại vương dùng mưu phá được mà giết Vũ An Quân (là Triệu Quát). Đương lúc đó, nước Triệu vua tôi ghét nhau, kẻ sang người hèn[226] không tin nhau, vậy mà không chiếm Hàm Đan[227]. Nếu hạ Hàm Đan, làm chủ Hà Gian[228], rồi dẫn quân đi, phía tây đánh Tu Vũ[229], vượt Dương Trường[230], bắt Đại, Thượng Đảng phải đầu hàng. Đại có ba mươi sáu huyện, Thượng Đảng có mười bảy huyện; không dùng một chiếc mũ trụ, một chiếc áo giáp, không làm khổ một người dân, mà Tần chiếm được hết; không đánh Đại và Thượng Đảng mà hai đất đó về Tần. Đông Dương[231], Hà Ngoại[232] không đánh mà trở lại về Tề; từ Trung Sơn, Hô Trì[233] trở lên phía Bắc, không đánh mà về Yên. Nhưng lúc đó chiếm Triệu thì Hàn tất mất, Hàn mất thì Kinh, Nguỵ không đứng một mình được; Kinh, Nguỵ không đứng một mình được thì chỉ ra quân một lần là làm cho Hàn sụp, Nguỵ suy; kẹp nước Kinh rồi qua phía đông để làm cho Tề, Yên yếu, khai thông vàm sông Bạch Mã[234] để làm ngập nước Nguỵ; một lần ra quân mà Tam Tấn mất, những nước hợp tung đều thua, đại vương chắp tay (ngồi không) mà đợi, thiên hạ qui phục mình, danh thành bá vương. Nhưng mưu thần không dùng kế đó mà rút quân về, giảng hoà với Triệu. Đại vương sáng suốt mà binh Tần lại mạnh, sự nghiệp bá vương đã không thành mà lại bị các vong quốc kia lừa, đều do sự vụng về của bọn mưu thần. Vả lại Triệu đáng mất mà không mất; Tần đáng làm bá mà không được làm bá, thì thiên hạ biết mưu thần của Tần ra sao rồi: đó là một. Lại đem hết quân lính đánh Hàm Đan mà không hạ được, liệng cả binh giáp, sợ sệt bỏ chạy, thiên hạ lượng cái sức Tần ra sao rồi: đó là hai. Kéo quân về, họp ở Lý Hạ[235], đại vương lại gom quân để chiến đấu, không đại thắng được, lại thua chạy nữa, thì thiên hạ lượng cái sức Tần ra sao rồi: đó là ba. Họ biết rõ mưu thần của ta ở trong triều, binh lực của ta ở ngoài cõi. Do đó mà xét, thần cho rằng kế hợp tung của thiên hạ há chẳng khó cho ta ư? Ở trong thì quân đội của ta mệt mỏi, dân chúng khốn đốn, của cải suy giảm, đồng ruộng bỏ hoang, kho lẫm trống rỗng; ở ngoài thì thiên hạ đồng lòng cố kết với nhau, xin đại vương lo lắng về việc đó.

Tục ngữ có câu: “Đau đáu lo lắng, cẩn thận từng ngày”. Nếu cẩn thận theo đạo thì chiếm được thiên hạ. Sao thần biết như vậy? Xưa, vua Trụ làm thiên tử, thống suất cả triệu quân lính trong thiên hạ, bên trái uống nước sông ở Kỳ Cốc, bên phải uống nước sông Viên Thuỷ[236]. Nước sông Kỳ cạn mà nước Viên Thuỷ không chảy (vậy mà còn) lo đánh ông Vũ nhà Chu. Vũ Vương đem ba ngàn quân binh khí thô lậu đánh vua Trụ vào ngày Giáp Tí, đại phá quân Trụ, cầm tù vua Trụ, chiếm đất, chiếm dân, thiên hạ không buồn rầu gì cả. Trí Bá thống suất quân ba nước[237], đánh Triệu Tương Tử ở Tấn Dương, khơi sông cho nước chảy vào Tấn Dương, ba năm, thành bị hạ. Tương Chủ dùng mu rùa cỏ thi coi quẻ đoán cát hung, xem nên hàng nước nào. Rồi sai Trương Mạnh Đàm[238] đi sứ, Trương Mạnh Đàm lén đi, phản bội lời ước với Trí Bá, nhờ được thêm quân của hai nước Hàn, Nguỵ tấn công nước của Trí Bá, cầm tù Trí Bá mà lập được sự nghiệp cho Tương Tử.

Nay đất Tần, cắt chỗ dài bổ vào chỗ ngắn thì vuông vức được vài ngàn dặm, lính giỏi có tới cả trăm vạn. Hiệu lệnh, thưởng phạt của Tần, địa thế lợi hại của Tần, trong thiên hạ không nước nào bằng. Lấy đó mà tấn công thiên hạ thì có thể thôn tính được thiên hạ. Thần không sợ chết, xin yết kiến đại vương, bàn cái kế công phá chính sách hợp tung của thiên hạ, thắng Triệu, diệt Hàn, bắt Kinh, Nguỵ phải thần phục, bắt Tề, Yên phải thân với Tần, để thành danh bá vương, thần phục chư hầu bốn bên. Xin đại vương thử nghe thuyết của thần, một lần ra quân mà quân trong thiên hạ không bị phá, Triệu không thua, Hàn không mất, Kinh, Ngụy không thần phục, Tề, Yên không kết thân với Tần, danh bá vương không thành, chư hầu bốn bên không triều phục, thì xin đại vương chém đầu thần đi để cho người trong nước biết rằng thần mưu tính mà không trung thành với chúa.

7. TƯ MÃ THÁC BÀN VỀ LẼ NÊN ĐÁNH THỤC

(Tư Mã Thác thỉnh phạt Thục)

Tư Mã Thác[239] tranh luận với Trương Nghi ở trước mặt Tần Huệ Vương. Tư Mã Thác muốn đánh Thục, Trương Nghi bảo đánh Thục không bằng đánh Hàn. Vua Tần bảo:

- Xin cho biết vì lẽ gì?

Trương Nghi đáp:

- Kết thân với Nguỵ, Sở, đem binh xuống Tam Xuyên[240] bít những cửa của Hoạn Viên, Câu Thị, chặn đường Đồn Lưu, lúc đó quân Nguỵ dẹp được Nam Dương, quân Sở chiếm được Nam Trịnh, binh Tần đánh Tân Thành, Nghi Dương thẳng tiến tới ngoài thành của hai nước Chu, thảo tội vua Chu, rồi chiếm luôn Nguỵ, Sở, Chu tự biết không có cách nào thoát khỏi được, tất phải dâng bảo vật là chín cái đỉnh cho Tần. Làm chủ chín cái đỉnh rồi, cứ theo bản đồ cùng hộ tịch, mượn danh thiên tử mà ra lệnh cho thiên hạ, thiên hạ ai dám không nghe, như vậy tất dựng được nghiệp vương[241]. Còn như Thục là nước hẻo lánh ở phía Tây, làm lãnh tụ các rợ Nhung, Địch, đem quân đánh thì binh lính mỏi mệt, dân chúng lao khổ mà không thành danh[242], dù chiếm được đất thì cũng không lợi. Thần nghe nói: “Tranh danh thì ở chốn triều đình, tranh lợi thì ở chỗ thị tứ”. Nay đất Tam Xuyên và nhà Chu là chỗ triều đình, thị tứ của thiên hạ, mà đại vương không tranh chỗ đó, lại đi tranh đất mọi rợ, thế là bỏ cái nghiệp vương xa quá[243].

Tư Mã Thác bảo:

- Không phải vậy. Thần nghe nói: “Muốn cho nước giàu thì trước phải làm cho nước rộng; muốn cho binh mạnh thì trước phải làm cho dân giàu, muốn dựng nghiệp vương thì trước phải rộng thi hành nhân đức; ba cái đó mà đủ rồi thì tự nhiên được nghiệp vương trong thiên hạ”. Nay đất của đại vương còn hẹp, dân còn nghèo, cho nên thần xin tính cái việc dễ đã. Đất Thục kia là nước hẻo lánh ở phía tây, làm lãnh tụ các rợ Nhung, Địch, mà lại có cái loạn Kiệt, Trụ[244], nước Tần mình đem quân đánh thì có khác gì dùng chó sói đuổi đàn dê. Chiếm đất của Thục thì đủ làm rộng đất của Tần, chiếm được tài nguyên của Thục thì đủ làm giàu dân Tần. Chỉ cần chỉnh lý quân bị, không phải làm khó nhọc dân chúng mà Thục vội phải hàng phục ngay. Như vậy diệt được một nước mà thiên hạ không cho mình là bạo ngược, chiếm hết vật quí trong bốn bể[245]mà chư hầu không cho mình là tham lam, thế là ta chỉ nhất cử mà danh lợi đủ hai, lại được cái tiếng tốt là trừ kẻ bạo, dẹp cảnh loạn. Nay đánh Hàn mà uy hiếp thiên tử, uy hiếp thiên tử thì mang tiếng xấu mà vị tất đã có lợi; mà lại mang tiếng bất nghĩa, vì đánh nước Chu là việc thiên hạ không ưa, như vậy tất nguy! Thần xin bày tỏ lý do: Chu là tôn thất[246] của thiên hạ; Hàn là nước thân thiện với Chu, Chu tự biết rằng sẽ mất chín cái đỉnh, Hàn tự biết là sẽ mất đất Tam Xuyên, thì hai nước đó tất hiệp lực với nhau mà mưu tính việc chống đỡ, rồi liên hợp với Tề, Triệu mà xin Sở, Nguỵ giải cứu, đem chín cái đỉnh tặng Sở, cắt đất tặng Nguỵ, đại vương làm sao ngăn được; vì vậy mà thần cho là nguy, không bằng đánh Thục là ổn hơn.

Huệ Vương khen:

- Phải. Quả nhân nghe lời ông.

Rồi đem binh đánh Thục, mười tháng chiếm được, bình định xong. Vua Thục tự xưng là hầu, dùng Trần Trang[247] làm tướng Thục. Thục đã qui phục rồi, Tần càng cường thịnh, phong phú, mà coi rẽ chư hầu.

10. TẦN GIÚP NGUỴ ĐỂ NUỐT NGUỴ

(Sở công Nguỵ)

Sở đánh Nguỵ. Trương Nghi tâu với vua Tần (Huệ Vương):

- Nên giúp Nguỵ cho Nguỵ mạnh. Nguỵ mà thắng Sở thì sẽ nghe lời Tần, mà miền ở ngoài Tây Hà[248] sẽ về Tần; nếu không thắng, thì suy, không giữ được nước, đại vương sẽ chiếm lấy.

Vua Tần dùng kế Trương Nghi, đem vạn quân ở đất Bì Thị[249], trăm cổ xe để giúp Nguỵ. Tê Thủ thắng Sở Uy Vương[250], quân Nguỵ xong trận đó thì mệt mỏi, sợ Tần, quả nhiên phải dâng miền ở ngoài Tây Hà cho Tần.

11. TRẦN CHẨN ĐÁP VUA TẦN – C14,11-86

(Điền Tân chi vị Trấn Chẩn thuế Tần Huệ Vương)

Điền Tân vì Trần Chẩn[251] mà tâu với Tần Huệ Vương:

- Thần e rằng đại vương cũng như vua nước Quách[252] mất. Tấn Hiến Công muốn đánh nước Quách mà ngại Chu Chi Kiều[253] còn ở triều. Tuân Tức[254] bảo: “Chu Thư[255] có câu: “Mỹ nhân làm cản trở lời can gián”. Rồi Tấn tặng vua Quách một đội nữ nhạc để làm loạn triều chính, Chu Chi Kiều can mà vua không nghe, bỏ đi, lúc đó Tấn mới đánh Quách, Quách thua. Rồi lại muốn đánh nước Ngu mà ngại Cung Chi Kỳ[256] còn ở triều. Tuân Tức bảo: Chu Thư có câu: “Trai trẻ mỹ miều làm mê được ông già”. Rồi Tấn tặng vua Ngu những trai trẻ mỹ miều, chỉ cho họ cách hại Cung Chi Kỳ; Cung Chi Kỳ can mà vua không nghe, rồi bỏ đi. Lúc đó Tấn mới đánh Ngu mà chiếm được.

Nay Tần tự xưng vương. Có thể làm hại Tần là Sở. Sở biết Hoành Môn Quân[257] khéo dùng binh, Trần Chẩn là bực minh trí cho nên trọng dụng Trương Nghi, cho coi việc năm nước mà sau này tất hãm hại hai người kia[258].

Xin đại vương đừng nghe.

Trương Nghi quả nhiên lại từ biệt vua Tần rồi nhân đó nói về Chẩn. Vua Tần giận, không nghe. Trương Nghi lại nói xấu Trần Chẩn với vua Tần: “Chẩn rong ruổi[259] ở khoảng Sở và Tần, nay Sở không thân thiện với Tần mà thân thiện với Chẩn, thế là Chẩn vì mình chứ không phải vì nước. Vả lại Chẩn muốn bỏ Tần mà qua Sở, đại vương không hay ư?”.

Vua Tần bảo Trần Chẩn:

- Ta nghe người ta nói ông muốn bỏ Tần qua Sở; có thực vậy không?

Trần Chẩn đáp:

- Dạ có.

Vua Tần bảo:

- Lời của Nghi quả là đáng tin.

Đáp:

- Chẳng phải chỉ riêng Nghi biết điều đó, kẻ đi đường, ai cũng biết cả[260]. Hiếu Kỷ[261] kính yêu cha mẹ, thiên hạ ai cũng muốn có con là Hiếu Kỷ, Tử Tư[262] trung với vua, trong thiên hạ vua nào cũng muốn có bề tôi là Tử Tư. Nô bộc tì thiếp mà bán ở trong làng trong xóm được thì là nô bộc tì thiếp tốt[263]; thiếu nữ mà gả trong làng trong xóm được là thiếu nữ ngoan. Tôi mà không trung với đại vương thì Sở làm sao tin được là Chẩn tôi sẽ trung với Sở. Trung với đại vương mà còn bị đại vương bỏ, bây giờ tôi không qua Sở thì qua đâu?

Vua Tần bảo:

- Đúng.

Rồi bỏ việc đó đi.

12. TRẦN CHẨN LẠI ĐÁP VUA TẦN – C14,12-85

(Trần Chẩn khứ Sở chi Tần)

Trần Chẩn ở Sở về Tần. Trương Nghi tâu với vua Tần:

- Trần Chẩn là bề tôi của đại vương mà đem tình hình trong nước bày tỏ với Sở. Nghi tôi không thể cộng sự với hắn được, xin đại vương đuổi hắn đi. Đuổi hắn mà hắn lại qua Sở thì xin đại vương giết hắn đi.

Vua Tần đáp:

- Đuổi hắn thì làm sao hắn dám qua Sở nữa?

Rồi gọi Trấn Chẩn vào, bảo:

- Tôi có thể chiều ý ông[264]. Ông muốn đi đâu? Ta cho sửa soạn xe đưa ông.

Trần Chẩn đáp:

- Thần xin qua Sở.

Vua Tần bảo:

- Trương Nghi cho rằng ông sẽ qua Sở. Tôi cũng tự biết rằng ông sẽ qua Sở. Ông không qua Sở thì còn đi đâu nữa.

Chẩn đáp:

- Thần mà ra khỏi nước Tần thì tất là đi qua Sở để cho hợp với sự mưu tính của đại vương và của Nghi và làm cho thiên hạ thấy rõ rằng thần qua Sở có phải để giúp Sở không. Nước Sở có một người nọ có hai vợ. Có kẻ ghẹo người vợ lớn tuổi, bị người này mắng cho; rồi ghẹo người vợ nhỏ tuổi, người này tỏ ý thuận. Không bao lâu người chồng có hai vợ đó mất. Có người bạn hỏi người ghẹo vợ người ta đó: “Anh cưới cô lớn tuổi hay cưới cô nhỏ tuổi?”. Đáp: “Cưới cô lớn tuổi”. Hỏi: “Cô lớn tuổi đã mắng anh, còn cô nhỏ tuổi đã thuận anh. Thế thì sao lại cưới cô lớn tuổi?”. Đáp: “Trước kia ghẹo người ta thì muốn cho người ta thuận mình; nay muốn cưới làm vợ thì muốn được người ta trung thành với mình mà mắng lại những kẻ sàm sỡ”.

Nay vua Sở Hoài Vương là bực minh quân, mà Chiêu Dương là bực tướng quốc hiền tài. Chẩn là bề tôi Tần mà nếu thường đem tình hình của Tần bày tỏ cho Sở biết thì vua Sở tất sẽ không dùng tôi mà Chiêu Dương tất sẽ không chịu cộng sự với tôi. Như vậy sẽ đuổi tôi đi mà thiên hạ sẽ thấy rõ rằng tôi qua Sở không phải để giúp Sở.

Chẩn ra, Trương Nghi vào, hỏi vua Tần:

- Trần Chẩn sẽ đi đâu?

Vua Tần đáp:

- Cái ông Chẩn đó, quả là bậc biện sĩ trong thiên hạ. Ông ta nhìn chăm chăm quả nhân mà bảo: “Chẩn tôi tất phải qua Sở”. Quả nhân không biết nói sao nữa. Rồi quả nhân hỏi: “Ông mà tất qua Sở thì lời của Nghi đáng tin quá”. Chẩn đáp: “Không phải chỉ riêng có Nghi nói như vậy, kẻ đi đường ai cũng nói như vậy. Xưa kia Tử Tư trung thành với vua, trong thiên hạ vua nào cũng muốn có Tử Tư là bề tôi; Hiếu Kỷ có hiếu với cha mẹ, ai cũng muốn có con là Hiếu Kỷ. Cho nên nô bộc tì thiếp mà bán ở trong làng trong xóm được thì là nô bộc tì thiếp tốt; thiếu nữ mà gả trong làng trong xóm là thiếu nữ ngoan. Tôi mà không trung với đại vương thì Sở làm sao tin được rằng Chẩn tôi sẽ trung với Sở. Trung với đại vương mà còn bị đại vương bỏ, bây giờ Chẩn tôi không qua Sở thì qua đâu?

Vua Tần cho lời đó là phải nên trọng đãi Chẩn.

TẦN II 1. SỞ MẮC MƯU TRƯƠNG NGHI

(Tề trợ Sở công Tần)

Tề giúp Sở đánh Tần, chiếm Khúc Ốc[265]. Sau Tần muốn đánh Tề (để phục thù) nhưng Tề, Sở thân thiện với nhau, nên (Tần) Huệ Vương khó nghĩ, hỏi Trương Nghi:

- Ta muốn đánh Tề mà Tề, Sở hoà hảo với nhau, ta lấy làm khó nghĩ, làm sao bây giờ?

Trương Nghi đáp:

- Xin đại vương cho sửa soạn xe cùng tiền bạc, thần xin đi thử xem.

Trương Nghi xuống phương nam, yết kiến vua Sở (Hoài Vương), tâu:

- Người mà vua tệ ấp chúng tôi quí nhất, không ai hơn đại vương, người mà Trương Nghi tôi rất mong được thờ nhất cũng không ai hơn đại vương. Người mà vua tệ ấp chúng tôi ghét nhất không ai hơn vua Tề (Mẫn Vương), người mà Trương Nghi tôi ghét nhất cũng không ai hơn vua Tề. Nay tội vua Tề đối với vua tệ ấp chúng tôi rất lớn, chúng tôi muốn đánh Tề mà đại quốc thân thiện với Tề, thành thử vua tệ ấp chúng tôi không phụng sự đại vương được mà Trương Nghi tôi không làm bề tôi đại vương được. Nếu đại vương có thể đóng cửa ải, tuyệt giao với Tề thì tôi xin tâu với vua Tần dâng đại vương đất Thương Ô vuông sáu trăm dặm, như vậy Tề (không được Sở làm hậu viện) tất yếu, yếu thì tất bị đại vương sai khiến. Thế là phía bắc làm cho Tề yếu, phía tây được ân huệ của Tần, mà lại được cái lợi làm chủ đất Thương Ô, một việc mà được ba cái lợi.

Vua Sở rất mừng, tuyên bố ở triều đình:

- Quả nhân được đất Thương Ô vuông sáu trăm dặm.

Quần thần có mặt đều mừng vua Sở. Duy có Trần Chẩn vô yết kiến sau là không mừng. Vua Sở bảo:

- Quả nhân không làm nhọc một tên lính, không làm hại một người dân mà được đất Thương Ô vuông sáu trăm dặm, quả nhân tự cho là khôn, các quan sĩ đại phu đều mừng quả nhân, duy có ông là không mừng, tại sao vậy?

Trần Chẩn đáp:

- Thần cho rằng đã không thể làm chủ được đất Thương Ô mà còn thêm tai vạ nữa, cho nên không dám mừng càn.

Sở Vương hỏi:

- Sao vậy?

Đáp:

- Tần sở dĩ kính nể đại vương vì đại vương thân với Tề. Nay đất Thương Ô chưa có thể làm chủ được mà Tề đã tuyệt giao với mình trước rồi, thì Sở hoá cô lập, Tần còn kính nể gì một nước cô lập? Vả lại mình đòi được đất trước rồi mới tuyệt giao với Tề thì Tần tất không chịu; mình tuyệt giao với Tề trước rồi mới đòi đất thì tất bị Trương Nghi gạt; bị Trương Nghi gạt, đại vương tất hối hận, như vậy là phía tây thêm lo vì Tần, phía bắc tuyệt giao với Tề, hai nước đó tất đem quân đánh mình.

Vua Sở không nghe, bảo:

- Việc ta làm là phải rồi! Ông đừng nói nữa, đợi rồi sẽ biết.

Vua Sở sai người đi sứ tuyệt giao với Tề. Sứ giả chưa về, lại sai một người nữa đi. Trương Nghi trở về Tần, sai người đi qua Tề ngầm kết giao với Tề. Sở sai một vị tướng lại nhận đất Thương Ô của Tần. Trương Nghi về tới Tần rồi, cáo bệnh không vô triều. Vua Sở bảo:

- Ông Trương cho rằng quả nhân không tuyệt giao với Tề ư?

Rồi sai dũng sĩ qua cự nự vua Tề. Trương Nghi biết rằng Sở đã tuyệt giao với Tề rồi, mới ra tiếp sứ giả, bảo:

- Xin ông nhận đất từ đó tới đó, bề ngang rộng sáu dặm.

Sứ giả đáp:

- Tôi nghe nói sáu trăm dặm, chứ không nghe nói sáu dặm.

Nghi bảo:

- Nghi tôi vốn nghèo, làm sao có được sáu trăm dặm?

Sứ giả về tâu với vua Sở. Vua Sở rất căm, muốn đem quân đánh Tần. Trần Chẩn hỏi:

- Thần được phép nói chăng?

Vua Sở đáp:

- Được, ông nói đi.

Chẩn tâu:

- Đánh Tần, kế ấy hỏng, đại vương nhân việc này mà hối lộ cho Tần một đô ấp lớn, để Tần giúp mình đánh Tề; thế là mình mất cho Tần mà được đất của Tề để bù lại mà nước Sở mới bảo toàn được. Nay đại vương đã tuyệt giao với Tề, mà lại trách Tần là gạt đại vương, thế là làm cho Tề và Tần liên hợp với nhau, Sở tất nguy to.

Vua Sở không nghe, đem quân đánh Tần, Tần liên hợp với Tề, Hàn cũng theo giúp (Tần và Tề), quân Sở đại bại ở Đỗ Lăng. Đất đai, dân chúng nước Sở đâu phải là yếu đuối, suy nhược, mà xuýt nguy vong vì không nghe lời Trần Chẩn mà quá nghe lời Trương Nghi.

2. TRẦN CHẨN THUYẾT VUA TẦN

(Sở tuyệt Tề)

Sở tuyệt giao với Tề, Tề đem quân đánh Sở, Trần Chẩn bảo vua Sở:

- Đại vương nên cắt đất để phía đông giảng hoà với Tề, phía tây giảng hoà với Tần.

Vua Sở sai Trần Chẩn qua Tần, vua Tần bảo:

- Ông là người Tần, quả nhân với ông có tình cố cựu[266]. Quả nhân bất tài, không thể tự coi việc nước được, cho nên ông bỏ quả nhân mà qua thờ vua Sở. Nay Tề, Sở đánh nhau, có người bàn nên cứu, có người bàn không nên cứu. Ông có thể nào lấy lòng trung mưu tính cho chúa công của ông rồi, còn dư tài thì tính giúp quả nhân được không?

Trần Chẩn đáp:

- Đại vương có nghe câu chuyện người nước Ngô qua chơi nước Sở không? Vua Sở rất mến người đó, người đó đau, nên sai người lại thăm.

Vua Sở hỏi: “Ông ta có thực đau không? Hay là nhớ cố quốc đấy?”. Kẻ tả hữu đáp: “Thần không rõ ông ta có nhớ cố quốc không. Nếu nhớ thì tất hát những bài ca nước Ngô”.

Nay Chẩn tôi vì đại vương mà hát bài ca nước Ngô. Đại vương có nghe câu chuyện Quản Dữ[267] không? Có hai con hổ tranh nhau một người mà vồ nhau. Quản Tranh Tử muốn đâm hai con hổ đó. Quản Dữ can:

- Hổ là loài thú dữ, thích thịt người, cho thịt người là ngon.

Nay hai hổ tranh nhau một người mà vồ nhau, con nhỏ tất chết, con lớn tất bị thương. Ông đợi lúc đó đâm con bị thương thì một lần mà được cả hai con, không mệt sức phải chiến đấu với một con (còn mạnh) mà được tiếng là đâm cả hai con.

Nay Tề, Sở đánh nhau, thì Tề tất thua, lúc đó đại vương đem quân cứu Tề, được cái lợi là cứu Tề mà không có cái hại đánh Sở. Tôi bày mưu như vậy với đại vương, còn nghe hay không, biết trước sau hay không là tuỳ đại vương. Mưu tính là gốc của việc làm, nghe lời phải hay không là then chốt của sự tồn vong. Mưu tính sai mà nghe theo thì khó giữ được nước lắm. Cho nên có câu: “Mưu kế nào mà người ta đã cân nhắc kỹ lưỡng thì khó có thể lầm; nghe mà hiểu được đầu đuôi thì không mê loạn”.

5. BIỂN THƯỚC MẮNG VUA TẦN – C15,5-1

(Y Biển Thước kiến Tần Vương)

Y sư Biển Thước[268] yết kiến Tần Vũ Vương[269]. Vũ Vương kể bệnh, Biển Thước xin trị. Kẻ tả hữu can:

- Đại Vương đau ở phía trước tai, phía dưới mắt. Trị thì chưa chắc đã hết mà tai lại hoá điếc, mắt lại hoá mờ mất.

Vũ Vương đem lời đó nói với Biển Thước, Biển Thước giận, liệng cục đá[270] xuống, bảo:

- Đại vương vấn kế bực trí giả mà lại nghe lời kẻ ngu để hỏng việc. Điều đó cho tôi thấy chính trị của nước Tần; chỉ vì một hành động của đại vương mà mất nước.

6. CAM MẬU SỢ TẦN VŨ VƯƠNG NGHE LỜI GIÈM PHA – C15,6-62

(Tần Vũ Vương vị Cam Mậu)

Tần Vũ Vương bảo Cam Mậu:

- Quả nhân muốn đem chiến xa vào đất Tam Xuyên[271] để cướp ngôi nhà Chu, như vậy quả nhân chết rồi danh sẽ bất hủ.

Cam Mậu đáp:

- Thần xin qua Nguỵ dụ Nguỵ đánh Hàn.

Vũ Vương sai Hướng Thọ đi theo để phụ tá. Cam Mậu tới Nguỵ, bảo Hướng Thọ: “Ông về cáo với vua Tần: “Vua Nguỵ nghe mưu kế của tôi, nhưng xin đại vương đừng đánh Hàn vội”. Như vậy việc mà thành thì công thuộc cả về ông”.

Hướng Thọ trở về, báo với vua Tần. Vua Tần thân đi đón Cam Mậu ở Tức Nhưỡng. Khi Cam Mậu tới, vua Tần hỏi nguyên do tại sao không đánh Hàn, Cam Mậu đáp:

- Nghi Dương là một huyện lớn; Thượng Đảng, Nam Dương là những nơi của cải súc tích đã lâu đời, tuy gọi là huyện mà thực ra là quận. Nay đại vương vượt nhiều nơi hiểm trở, xông pha cả ngàn dặm để đánh, thần e khó được. Thần nghe nói Trương Nghi phía tây thôn tính đất Ba Thục[272], phía bắc chiếm miền ở ngoài Tây Hà, phía nam lấy được Thượng Dung; thiên hạ không khen Trương Nghi mà ca tụng tiên vương[273] là hiền. Nguỵ Văn Hầu sai tướng là Nhạc Dương đánh Trung Sơn ba năm mà chiếm được, Nhạc Dương về kể công, Văn Hầu đưa cho ông ta coi một tráp đầy những thư nói xấu ông ta. Nhạc Dương cuối đầu sát đất, lại hai lạy, tâu: “Đó không phải là công của thần mà là nhờ uy lực của bệ hạ”. Nay thần là kẻ bề tôi ở xa; khi Xư Lý Tật, Công Tôn Diễn giúp Hàn mà thuyết phục đại vương, đại vương tất nghe hai ông ấy. Như vậy là đại vương gạt nước Nguỵ mà thần bị Công Trọng Xỉ[274] oán.

Xưa kia, Tăng Tử[275] ở đất Bí. Đất Bí có một kẻ sát nhân trùng tên, họ với Tăng Tử. Người ta báo tin cho bà mẹ Tăng Tử: “Tăng Sâm đã giết người!”. Bà mẹ Tăng Tử bảo: “Con tôi không khi nào giết người!”, rồi lại thản nhiên ngồi dệt. Được một lát, có người lại nói: “Tăng Sâm đã giết người!”. Bà mẹ Tăng Tử vẫn thản nhiên ngồi dệt. Được một lát, lại có người nói: “Tăng Sâm giết người!”. Lần này, bà mẹ Tăng Tử sợ, liệng thoi, leo tường mà trốn. Tăng Sâm hiền như vậy, bà mẹ ông ta tin ông ta như vậy mà có ba người nghi thì bà mẹ hiền đó cũng không tin con được nữa. Nay thần không có đức bằng Tăng Sâm, mà đại vương tin thần lại không bằng bà mẹ Tăng Tử tin con. Thần e rằng số người nghi thần không phải chỉ có ba, vậy đại vương phải vì thần mà liệng thoi mất.

Vua Tần bảo:

- Quả nhân không nghe họ đâu, xin thề với ông.

Và hai bên thề với nhau ở Tức Nhưỡng. Rồi mạnh mẽ tấn công Nghi Dương, năm tháng mà không hạ được. Xư Lý Tật, Công Tôn Diễn đều can vua, vua muốn nghe, vời Cam Mậu vào cho hay. Cam Mậu đáp:

- Tức Nhưỡng còn đó[276].

Vua Tần bảo:

- Phải.

Rồi dùng hết binh lực, lại sai Cam Mậu tấn công nữa và hạ được Nghi Dương.

7. PHÙNG CHƯƠNG GẠT VUA SỞ

(Nghi Dương chi dịch)

Trong trận Nghi Dương, Phùng Chương bảo vua Tần:

- Không hạ được Nghi Dương thì Hàn, Sở thừa lúc ta suy nhược mà đánh, nước ta sẽ nguy. Vậy nên hứa cho Sở đất Hán Trung để Sở đẹp lòng. Sở đẹp lòng mà không tiến quân thì Hàn tất lẻ loi, không làm gì được Tần.

Vua Tần đáp:

- Phải.

Rồi sai Phùng Chương đem Hán Trung hứa với Sở. Hạ được Nghi Dương. Vua Sở nhắc lời hứa đòi Phùng Chương phải nộp đất Hán Trung.

Phùng Chương tâu với vua Tần:

- Đại vương đuổi thần đi.

Rồi, vua Tần đáp vua Sở:

- Quả nhân có hứa gì đâu?

8. CAM MẬU ĐÁNH NGHI DƯƠNG I – C15,8-64

(Cam Mậu công Nghi Dương)[277]

Cam Mậu đánh Nghi Dương, ba lần thúc trống mà quân không tiến tới được. Hửu tướng của Tần có một viên uý thưa với Cam Mậu:

- Ông không lượng sức, tất nguy to.

Cam Mậu bảo:

- Ta là người xa lạ mà được làm tể tướng ở Tần là nhờ đem việc Nghi Dương ra dẫn dụ vua. Nay đánh Nghi Dương mà không chiếm được, ở trong thì bị Công Tôn Diễn, Xư Lý Tật lật, ở ngoài thì bị Công Trọng (Xỉ) đem việc nước Hàn làm khốn, thế là không có ngày lập công được nữa[278]. Ngày mai thúc trống lần nữa mà không hạ được thì đất Nghi Dương này là nơi chôn ta!

Rồi xuất tiền riêng ra để tăng tiền thưởng cho quân lính, hạ được Nghi Dương.

9. CAM MẬU ĐÁNH NGHI DƯƠNG II

(Nghi Dương vị đắc)

Nghi Dương chưa chiếm được mà quân Tần bị thương đã nhiều, Cam Mậu muốn ngưng binh. Tả Thành bảo Cam Mậu:

- Ông ở trong thì bị Xư Lý Tật, Công Tôn Diễn công kích, ở ngoài thì bị Hàn Xỉ[279] oán, nay ông dụng binh mà không lập được công thì ông tất nguy. Ông nên tiến đánh Nghi Dương, hạ được Nghi Dương thì công ông lớn lắm. Xư Lý Tật, Công Tôn Diễn không có cớ công kích ông nữa, mà quân Tần chết nhiều, sẽ thâm oán hai ông đó (là những người đã bày mưu đánh Nghi Dương).

10. HÀN, SỞ ĐỀ PHÒNG NHAU

(Nghi Dương chi dịch)

Trong trận Nghi Dương, Sở phản Tần mà liên hợp với Hàn. Vua Tần lo. Cam Mậu tâu:

- Sở tuy liên hợp với Hàn nhưng không vì Hàn mà khai chiến với Tần đâu. Hàn cũng sợ nếu đánh nhau với Tần thì Sở sẽ gây rối ở phía sau, vậy Hàn, Sở tất phải đề phòng nhau. Sở nói rằng thân thiết với Hàn mà không nhắc lại oán cũ với Tần, vì vậy mà thần biết rằng Sở phải đề phòng Hàn.

11. CAM MẬU KHUYÊN VUA TẦN

(Cam Mậu)

Vua Tần bảo Cam Mậu:

- Người Sở đi sứ qua nước mình, có nhiều người giỏi, tranh biện với quả nhân, nhiều lần quả nhân đuối lý. Làm sao bây giờ?

Cam Mậu đáp:

- Xin đại vương đừng lo. Người giỏi mà đi sứ thì đại vương đừng nghe họ biện thuyết, người dở mà đi sứ thì đại vương hãy nghe. Như vậy thì (vua Sở) sẽ dùng kẻ dở mà không dùng kẻ giỏi, mà đại vương áp đảo được.

12. TÔ ĐẠI GIÚP CAM MẬU

(Cam Mậu vong Tần)

Cam Mậu bỏ Tần[280], định trốn qua Tề, ra khỏi cửa ải (Hàm Cốc), gặp Tô Tử[281] hỏi:

- Ông có nghe câu chuyện người con gái chưa chồng trên bờ sông không?

Tô Tử đáp:

- Chưa.

Cam Mậu kể:

- Trên bờ sông nọ, có một người con gái chưa chồng, nhà nghèo, không có đèn đóm. Các người con gái chưa chồng ở chung quanh bàn với nhau muốn đuổi nàng đi[282]. Người con gái nhà nghèo không có đèn đóm đó, khi sắp đi, bảo các người con gái chưa chồng kia: “Tôi vì nhà không có đèm đóm, nên thường tới quét nhà, trải chiếu cho các chị. Các chị tiếc chi chút ánh sáng thừa thiếu vào bốn bức vách? Xin các chị gia ân cho tôi, tôi có làm hại gì các chị đâu. Tôi tự cho là giúp ích được cho các chị, sao lại đuổi tôi đi?”. Các người con gái chưa chồng kia cho rằng lời đó đúng, nên giữ lại.

Nay tôi là kẻ bất tiếu, vua Tần đuổi mà ra khỏi cửa ải, xin quét nhà và trải chiếu cho túc hạ, túc hạ đừng đuổi tôi đi.

Tô Tử bảo:

- Được. Tôi xin giúp cho ông được trọng dụng ở Tề.

Rồi qua phía tây thuyết vua Tần (Chiêu Tương Vương):

- Cam Mậu là người hiền, không phải là kẻ sĩ tầm thường, ở Tần đã được trọng dụng mấy đời. Từ Hào Tái, Khê Cốc[283] địa thế chỗ nào hiểm trở đều biết rõ. Nếu để ông ta giúp Tề kết thân với Hàn, Nguỵ và mưu tính chống Tần thì không lợi cho Tần.

Vua Tần hỏi:

- Vậy thì phải làm sao?

Tô Đại đáp:

- Nên đem nhiều đồ lễ và bỗng lộc mà đón ông ấy về; ông ấy về thì an trí ông ấy ở Hoè Cốc, suốt đời không cho ra khỏi nơi đó, như vậy thiên hạ làm sao mà mưu tính hại Tần được.

Vua Tần bảo:

- Phải.

Rồi phong cho chức thượng khanh, giao cho tướng ấn, đón Cam Mậu ở Tề, Cam Mậu không tới. Tô Đại dối trá bảo Tề Mẫn Vương:

- Cam Mậu là người hiền. Nay Tần đem chức thượng khanh và tướng ấn để đón. Mậu mang ơn đại vương nên không đi, chỉ xin được làm bề tôi đại vương. Đại vương tính lấy lễ gì đãi ông ta? Nếu đại vương không giữ ông ta lại, thì ông ta tất không mang ơn đại vương. Họ được Cam Mậu là bậc hiền tài giúp sức mà chuyên dùng dân của cường Tần, thì ta khó mà thắng được.

Vua Tề bảo:

- Phải.

Rồi phong cho Cam Mậu chức thượng khanh và hậu đãi ông ta.

13. VUA TẦN ĐUỔI CÔNG TÔN DIỄN

(Cam Mậu tướng Tần)

Cam Mậu làm tể tướng nước Tần. Vua Tần (Vũ Vương) yêu Công Tôn Diễn, hứa có cơ hội sẽ phong chức cao cho, vì vậy bảo Công Tôn Diễn:

- Quả nhân sắp phong ông làm tể tướng.

Một kẻ lại của Cam Mậu giữa đường vô tình nghe được, cho Cam Mậu hay. Cam Mậu bèn vào yết kiến vua:

- Đại vương lựa chọn tể tướng giỏi, xin lạy mừng đại vương.

Vua hỏi:

- Quả nhân giao việc nước cho ông, sao lại còn được tể tướng nào giỏi nữa?

Đáp:

- Đại vương sắp phong tê thủ[284] làm tể tướng mà.

Vua hỏi:

- Ông nghe ai nói vậy?

Đáp:

- Tê thủ cho thần hay.

Vua Tần giận tê thủ bép xép, đuổi tê thủ đi[285].

16. TUYÊN THÁI HẬU BẮT NGUỴ XÚ PHU CHẾT THEO MÌNH – C16,6-125

(Tần Tuyên thái hậu ái Nguỵ Xú Phu)

Tuyên thái hậu nước Tần yêu Nguỵ Xú Phu. Thái hậu đau nặng gần chết, ra lệnh: “Chôn ta thì phải chôn sống Nguỵ Tử theo ta”. Nguỵ Tử lo.

Dung Nhuế hỏi thái hậu:

- Thái hậu cho rằng chết rồi còn biết không?

Thái hậu đáp:

- Không.

Bảo:

- Thần linh như thái hậu, biết rõ rằng chết rồi thì không còn biết nữa. Vậy sao bắt người mà hồi sống mình yêu phải chết theo rồi chôn ở bên cạnh xác chết vô tri của mình, như vậy ích gì đâu? Còn như bảo rằng chết rồi còn biết thì tiên vương uất hận đã lâu, thái hậu lo cứu lỗi của mình còn không xong, đâu có rảnh mà tư tình với Nguỵ Xú Phu nữa?

Thái hậu đáp:

- Phải.

Rồi bỏ việc đó.

TẦN III 2. KHUYÊN YÊN ĐÁNH TỀ

(Tần khách khanh Tạo thuế Nhương Hầu)

Khách khanh của Tần tên là Tạo bảo Nhương Hầu:

- Tần phong ông đất Đào[286], ông nhờ thế lực của Tần mà phục chế các nước khác được vài năm. Việc đánh Tề mà thành, Đào (được đất của Tề) mà thành nước vạn cổ xe, đứng đầu các nước nhỏ mà chầu thiên tử, thiên hạ tất nghe, sự nghiệp như ngũ bá[287]. Đánh Tề mà không thành, Đào sẽ bị các nước láng giềng ghét mà không chống cự nổi. Cho nên đánh Tề là cái lẽ tồn vong của Đào. Ông muốn thành công, sao không sai người qua bảo tướng quốc nước Yên như vầy: “Thánh nhân không tạo được thời thế, nhưng thời thế tới thì không bỏ lỡ. Vua Thuấn tuy hiền, nếu không gặp vua Nghiêu thì không được làm thiên tử[288]; vua Thang, vua Vũ tuy hiền, nếu không gặp Kiệt, Trụ thì không lập được nghiệp vương[289], cho nên hiền như Thuấn, Thang, Vũ mà không gặp thời thì cũng không thành đế, vương. Nay đánh Tề, là thời cơ lớn của ông đấy. Nhân sức của thiên hạ mà đánh nước thù địch là Tề, rửa cái nhục của Huệ Vương, lập được cái công của Chiêu Vương[290], trừ được cái hại cho vạn đời; đó là cái lợi lâu dài của Yên và là cái danh lớn của ông. Kinh Thư có câu: “Trồng đức không gì bằng tưới bón nó; trừ hại không gì bằng trừ cho hết”. Ngô không diệt Việt thì Việt tất diệt Ngô[291]; Tề không diệt Yên thì tất diệt Tề[292]. Tề bị Yên diệt, Ngô bị Việt diệt, đó là do trừ hại mà không trừ cho hết. Không nhân thời này mà lập công cho ông, trừ hại cho ông, nếu Tần bỗng vì việc khác xảy ra mà về phía Tề, Tề với Triệu liên hiệp, thì Tề thù ông tất sâu. Mang mối thù ông, họ sẽ đánh Yên, sau ông có hối cũng không kịp. Ông nên dốc hết binh của Yên mà đánh gấp Tề đi, thiên hạ sẽ theo ông; như cùng nhau báo cái thù cha con. Nếu diệt được Tề, ông sẽ được phong đất ở Hà Nam, thành nước lớn, tiếp thông với Trung Quốc[293], phía nam liên kết với nước lân cận là Đào, đời đời khỏi lo. Xin ông chuyên tâm vào việc đánh Tề mà đừng lo gì khác nữa.

8. PHẠM TUY DÂNG THƯ LÊN TẦN CHIÊU VƯƠNG

(Phạm Tử nhân Vương Kê nhập Tần)

Phạm Tử[294] theo Vương Kê[295] vô Tần, dâng thư lên Tần Chiêu Vương:

- Thần nghe rằng bậc minh chủ trị nước, kẻ có công thì được thưởng, có tài thì được dùng, kẻ khó nhọc nhiều thì được bổng hậu, kẻ có công nhiều thì được tước cao, giỏi trị dân thì được chức lớn, cho nên kẻ vô tài thì không dám nhận chức mà kẻ có tài không dám lẫn trốn. Nếu đại vương cho lời nói của thần là phải thì xin thi hành cho thêm lợi; không thi hành thì giữ thần ở lại lâu không ích gì.

Tục ngữ có câu: “Bực dung chủ[296] thưởng kẻ mình yêu mà phạt kẻ mình ghét”. Bực minh chủ thì không vậy, thưởng thì tất thưởng kẻ có công, trị thì tất trị kẻ có tội. Nay bụng của thần không chịu nổi dao dùi, lưng của thần không chịu nổi búa rìu[297], thần đâu dám đem việc còn khả nghi mà trình bày để thử thách đại vương. Đại vương tuy cho thần là hèn mọn mà khinh bỉ làm nhục thần, không trọng dụng thần, nhưng người đã đảm bảo cho thần ở trước mặt đại vương có thể nào phản phúc, trước sau bất nhất được không?

Thần nghe nói nước Chu có ngọc Chỉ Ách, nước Tống có ngọc Kết Duyên, nước Lương có ngọc Huyền Lê, nước Sở có ngọc Hoà Phát[298], bốn bảo vật đó, đều có danh trong thiên hạ mà bọn thợ thì không biết là quí. Vậy thì cái mà bậc thánh vương bỏ đi, không đủ để làm lợi cho quốc gia ư?[299]

Thần nghe nói muốn khéo làm lợi cho nhà thì cướp của nước, muốn khéo làm lợi cho nước thì cướp của chư hầu. Trong thiên hạ có bực minh chủ thì chư hầu không dám chuyên làm lợi cho mình. Tại sao vậy? Là do lẽ khinh trọng vậy[300]. Bậc lương y biết con bệnh sống hay chết, bậc thánh chúa biết rõ được sự thành bại, lợi thì làm, hại thì bỏ, còn ngờ thì cứ thử qua, tuy Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang tái sinh cũng không sửa được chính sách của bậc đó. Những lời cực thâm thuý thì thần không dám chép lại trong thư này, còn những lời thô thiển thì không đáng đại vương đọc. Hay là thần ngu mà lời không hợp với lòng đại vương chăng, hay là người giới thiệu hèn mọn, không đáng nghe chăng? Nếu không phải vậy thì cái chí của thần là xin đại vương du lãm còn dư thì giờ gia ân cho thần được ra mắt đại vương.

Thư dâng lên, vua Tần mừng, cảm tạ Vương Kê, rồi sai người đánh xe đón Phạm Tử.

9. PHẠM TUY THUYẾT VUA TẦN

(Phạm Tử chí) – QC – BC

Phạm Tuy tới, vua Tần Chiêu Vương xuống thềm mà đón, kính cẩn dùng lễ tân chủ mà tiếp. Phạm Tuy từ tạ, khiêm nhượng. Hôm đó tiếp kiến Phạm Tuy, các bề tôi ở triều Tần đều kinh dị biến sắc. Vua Tần đuổi hết kẻ tả hữu ra ngoài, trong cung không còn ai.

Vua Tần quỳ xuống hỏi:

- Tiên sinh có điều gì dạy bảo quả nhân không?

Phạm Tuy đáp: Dạ, dạ.

Một lát vua Tần lại hỏi. Phạm Tuy lại đáp: Dạ, dạ. Như vậy ba lần. Vua Tần quỳ mọp xuống hỏi:

- Tiên sinh không muốn dạy bảo quả nhân chăng?

Phạm Tuy tạ tội:

- Đâu dám vậy. Thần nghe xưa Lữ Thượng[301] lúc gặp vua Văn Vương chỉ là một lão đánh cá, câu bên bờ phía bắc sông Vị, như vậy giao tình còn sơ lắm. Nhưng khi Lữ Thượng bàn bạc xong thì Văn Vương phong ngay làm thái sư mà mời ngồi chung xe về triều, là vì lời của Lữ Thượng thâm thiết. Sau quả nhiên Văn Vương nhờ Lữ Thượng mà thành công, gồm thâu thiên hạ, lên ngôi đế vương. Giá trước kia Văn Vương sợ Lữ Thượng mà không nghe lời thâm thiết của ông thì nhà Chu không có cái đức làm thiên tử mà vua Văn, vua Võ không dựng vương nghiệp được.

Nay thần là người lạ tới đây, đối với đại vương còn là sơ tình, mà những điều thần muốn bày tỏ là để củ chính sự tình của vua tôi, xen vào tình cốt nhục của người; thần nguyện tỏ tấm lòng trung thành ngu mu?