CHƯƠNG III TỀ SÁCH
Chu Vũ Vương (1134-1115) phong Thái Công Vọng ở đất Tề, (đô ở Doanh Khâu nay thuộc tỉnh Sơn Đông, huyện Lâm Tri).
Thời Chiến Quốc, một bề tôi của Tề, họ Điền, chiếm ngôi vua.
Sau Tề thành một trong thất hùng.
Đất của Tề nay nằm một phần trên tỉnh Sơn Đông, một phần trên tỉnh Hà Bắc, phía đông nam giáp biển.
Cuối đời Chiến Quốc Tề bị Tần diệt.
TỀ I 3. NƯỚC VỚI CÁ(Tĩnh Quách Quân tương thành Tiết)
Tĩnh Quách Quân[431] muốn xây thành Tiết, trong số khách có nhiều người can ngăn. Tĩnh Quách Quân ra lệnh cho người hầu hễ có khách nào muốn can ngăn thì đừng cho vô. Có người nước Tề xin rằng: “Cho tôi được nói ba tiếng thôi. Nếu tôi nói thêm một tiếng thì xin cứ luộc tôi đi”.
Tĩnh Quách Quân bèn cho vô. Ông khách tiến tới, nói:
- Biển cá lớn.
Rồi quay lưng chạy.
Tĩnh Quách Quân gọi lại:
- Mời khách ở lại.
Khách đáp:
- Kẻ thô bỉ này không dám đùa với cái chết.
Tĩnh Quách Quân bảo:
- Không sao. Cứ nói tiếp đi.
Đáp:
- Ngài không nghe nói loài cá lớn chăng? Lưới không bủa được nó, câu không kéo được nó, nhưng nếu nó xông xáo mà sa vào chỗ cạn thì con dế, con kiến có thể bu lại hành hạ nó. Nước Tề nay đối với ngài cũng như nước đối với con cá lớn đấy. Ngài còn nước Tề thì đất Tiết này có kể chi, nếu mất Tề thì dù có cất thành Tiết cao tới đụng trời cũng vô ích.
Tĩnh Quách Quân khen:
- Phải.
Rồi dẹp việc xây thành Tiết.
5. TỀ MẠO BIỆN CỨU TRI KỶ(Tĩnh Quách Quân thiện Tề Mạo Biện)
Tĩnh Quách Quân rất tương đắc với Tề Mạo Biện. Tề Mạo Biện có nhiều tật, người trong nhà Tĩnh Quách Quân thấy vậy không vui. Sĩ Uý vạch rõ những tật ấy, Tĩnh Quách Quân không nghe, Sĩ Uý bèn cáo từ mà bỏ ra đi. Mạnh Thường Quân[432] cũng lựa lời cản ngăn, Tĩnh Quách Quân nổi giận:
- Các người chết đi, đừng phá nhà ta. Nếu có thể ân hận vì Tề Mạo Biện thì ta cũng làm, chứ không từ.
Rồi cho Tề Mạo Biện ở phòng tốt nhất, sai con trưởng là Ngự sáng chiều hầu hạ cơm nước.
Được vài năm, Uy Vương mất, Tuyên Vương lên ngôi[433], Tĩnh Quách Quân rất không được lòng Tuyên Vương, từ chức mà lại về đất Tiết, cùng ở với Tề Mạo Biện. Không được bao lâu, Tề Mạo Biện từ tạ, xin đi để yết kiến Tuyên Vương. Tĩnh Quách Quân bảo:
- Nhà vua vốn ghét Anh này lắm, ông đi thì chắc chết đấy.
Tề Mạo Biện đáp:
- Tôi vốn không mong sống, xin cứ cho tôi đi.
Tĩnh Quách Quân ngăn không được.
Tề Mạo Biện tới Tề, Tuyên Vương hay tin, nén giận mà đợi. Tề Mạo Biện vô yết kiến. Vua Tề hỏi:
- Ông là người được Tĩnh Quách Quân yêu quý, nói gì cũng nghe, phải không?
Tề Mạo Biện đáp:
- Yêu thì có mà nghe thì không. Hồi đại vương còn là thái tử, Biện tôi có bảo Tĩnh Quách Quân rằng: “Thái tử có tướng bất nhân, má phị mà mắt húp như mắt heo, tướng đó là tướng phản bội, nên phế thái tử mà lập con bà Vệ Cơ, tên là Giao Sư”[434]. Tĩnh Quách Quân khóc mà đáp rằng: “Không nên, tôi không nhẫn tâm được”. Nếu nghe lời Biện tôi mà làm thì đâu có cái lo ngày nay? Đó là một chuyện. Đến đất Tiết, Chiêu Dương[435] xin đem đất rộng gấp mấy lần đất Tiết để đổi lấy đất Tiết. Biện tôi lại khuyên: “Nên đổi đi”. Tĩnh Quách Quân đáp: “Đất Tiết do tiên vương[436] phong cho, bây giờ tuy bị hậu vương[437] ghét, chết đi (xuống âm phủ) tôi biết trả lời tiên vương ra sao? Vả lại miếu của tiên vương ở đất Tiết, tôi lẽ nào lại đem miếu của tiên vương mà giao cho Sở?”. Lại không nghe Biện tôi nữa. Thế là hai chuyện.
Tuyên Vương cảm động hiện ra nét mặt, bảo:
- Tĩnh Quách Quân đối với quả nhân một lòng như vậy ư? Quả nhân nhỏ tuổi không được hay chuyện đó. Ông có thể vì quả nhân mà vời Tĩnh Quách Quân về triều không?
Tề Mạo Biện đáp:
- Xin vâng.
Tĩnh Quách Quân bận áo mão của Uy Vương ban cho, đeo kiếm cũng của Uy Vương ban, Tuyên Vương thân hành ra đón ở ngoài thành, trông thấy mà khóc. Tĩnh Quách Quân tới, vua mời ông làm tướng quốc, Tĩnh Quách Quân từ chối không được, phải nhận; được bảy ngày lại cáo bệnh, hết sức từ chức không được, ba ngày sau đành phải vâng lời vua. Lúc đó Tĩnh Quách Quân đáng gọi là biết xét người. Biết xét người cho nên vì người bị chê bai mà vẫn không đổi ý. Còn Tề Mạo Biện kia tuy là thấp hèn mà vui vẻ sẵn sàng cứu được hoạn nạn cho người.
6. TỀ CỨU TRIỆU MÀ HẠI CẢ TRIỆU LẪN NGUỴ – C24,6-59(Hàm Đan chi nan)
Khi Hàm Đan (của Triệu) bị (Nguỵ) vây, Triệu cầu cứu với Tề. Điền Hầu[438] vời các quan đại thần vô hỏi:
- Nên cứu hay không nên cứu Triệu?
Trâu Tử[439] đáp:
- Đừng cứu là hơn.
Đoàn Can Luân đáp:
- Không cứu thì không có lợi cho ta.
Điền Hầu hỏi:
- Sao vậy?
- Nếu Nguỵ chiếm Hàm Đan thì có lợi gì cho ta không?
- Phải.
Rồi Điền Hầu ra lệnh cho quân đóng ở ngoài thành Hàm Đan.
Đoàn Can Luân bảo:
- Thần bàn về lợi và không lợi, nghĩa không phải vậy. Cứu Hàm Đan mà đóng quân ở ngoài thành như thế thì Triệu không mất mà Nguỵ không bị thiệt chút gì. Cho nên không bằng đem quân xuống phía nam tấn công Trương Lăng để cho Nguỵ quân mệt mỏi. Hàm Đan bị chiếm mà quân Nguỵ mệt mỏi, thì Triệu mất nước mà Nguỵ suy yếu.
Điền Hầu khen phải, rồi đem quân xuống phía nam tấn công Trương Lăng. Bảy tháng sau Hàm Đan mất. Tề nhân Nguỵ mệt mỏi, đại phá quân Nguỵ ở Quế Lăng.
8. CÔNG TÔN HÃN MƯU HẠI ĐIỀN KỊ(Thành Hầu Trâu Kị vi Tề tướng[440])
Thành Hầu là Trâu Kị làm tể tướng nước Tề, Điền Kị[441] làm tướng quân, hai người không vừa ý nhau. Công Tôn Hãn bảo Trâu Kị:
- Sao ông không bàn với vua đem quân đánh Nguỵ? Thắng thì do mưu kế của ông mà ông có thể được thưởng công; không thắng thì là Điền Kị không chịu mạnh tiến mà tử chiến, như vậy là phạm quân pháp tất bị giết.
Trâu Kị cho là phải, thuyết với vua sai Điền Kị đánh Nguỵ, Điền Kị ba lần đánh ba lần thắng. Trâu Kị cho Công Tôn Hãn hay. Công Tôn Hãn sai người cầm mười nén vàng ra chợ bói một quẻ, nói với thầy bói: “Tôi là người của ông Điền Kị đây. Chủ tôi ba lần đánh Nguỵ, ba lần thắng, danh tiếng chấn động thiên hạ, nay muốn mưu đại sự, thầy bói cho một quẻ xem có tốt không?”
Thầy bói đi báo người đi coi bói. Họ khai hết trước mặt vua. Điền Kị phải bỏ nước trốn đi.
12. TRÂU KỊ KHUYÊN VUA TỀ NGHE LỜI CAN GIÁN – C25,12-53 – M116[442](Trâu Kị tu bát xích)
Trâu Kị thân cao trên tám thước, dong mạo đẹp đẽ. Một buổi sáng bận áo đội mão ngắm trong gương rồi hỏi vợ:
- Tôi và Từ Công ở phía bắc thành, ai đẹp hơn ai?
Vợ đáp:
- Mình đẹp lắm, Từ Công sao bằng mình được!
Từ Công ở phía bắc thành là người nổi tiếng đẹp trai của nước Tề.
Kị không tin, lại hỏi người thiếp:
- Tôi với Từ Công, ai đẹp hơn ai?
Người thiếp đáp:
- Từ Công làm sao đẹp bằng ông được!
Hôm sau có khách tới chơi, cùng ngồi đàm đạo. Kị hỏi khách:
- Tôi với Từ Công, ai đẹp hơn ai?
Khách đáp:
- Từ Công không đẹp bằng ông.
Hôm sau nữa, Từ Công lại chơi. Kị ngắm kĩ ông ta, tự cho mình không đẹp bằng, liếc ngó dong mạo mình trong gương lại càng thấy mình kém xa.
Đêm nằm suy nghĩ:
- Vợ lớn khen ta đẹp là tư vị với ta; vợ nhỏ khen ta đẹp là vì sợ ta; khách khen ta đẹp là vì muốn cầu cạnh ta.
Hôm sau vô triều, yết kiến Uy Vương, tâu:
- Thần biết chắc mình không đẹp bằng Từ Công. Vợ lớn của thần tư vị thần, vợ nhỏ của thần sợ thần, khách của thần muốn cầu cạnh thần, cho nên đều khen thần là đẹp hơn Từ Công. Nay nước Tề vuông ngàn dặm, có tới một trăm hai chục thành, cung nữ và kẻ tả hữu trong cung có ai là không tư vị với đại vương; bề tôi ở triều đình có ai là không sợ đại vương; người trong bốn cõi có ai là không cầu cạnh đại vương. Xét như vậy thì biết đại vương bị che lấp quá lắm rồi!
Uy Vương đáp:
- Đúng.
Rồi ra lệnh: “Quan lại và dân chúng ai chỉ trích thẳng vào mặt quả nhân một lỗi nào thì được thưởng hạng nhất; ai mà dâng thư can gián quả nhân thì được thưởng hạng nhì; ai mà chê bai quả nhân ở chợ hoặc ở triều đình, mà đến tai quả nhân thì được thưởng hạng ba”.
Lệnh mới ban, quần thần tới can gián, cửa cung náo nhiệt như cảnh chợ; ít tháng sau lời can gián giảm bớt, một năm sau, dù có muốn nói cũng không có gì để can gián.
Yên, Triệu, Hàn, Nguỵ hay tin đều lại triều kiến vua Tề. Như vậy là “chiến thắng ngay tại triều”.
16. TÔ TẦN THUYẾT VUA TỀ THEO HỢP TUNG(Tô Tần vi Triệu hợp tung)
Tô Tần thay vua Triệu, thuyết Tề Tuyên Vương theo kế hoạch hợp tung:
- Tề, phía nam có núi Thái Sơn, phía đông có núi Lang Nha, phía tây có sông Thanh Hà, phía bắc có biển Bột Hải[443], như vậy là một “nước có bốn bề hiểm trở”. Đất Tề rộng hai ngàn dặm, binh lính được vài chục vạn, lúa chất như gò núi, chiến xa của Tề tốt, cùng với năm nước kia[444], tiến nhanh như tên, tấn công mạnh như sấm chớp, ào tới như mưa gió, như có chiến tranh thì cũng vị tất vượt được núi Thái Sơn, cắt đứt được sông Thanh Hà, qua được biển Bột Hải. Bảy vạn nhà ở Lâm Tri, thần đoán phỏng chừng mỗi nhà ít nhất có đến ba người trai trẻ, vậy là cả thảy có ba bảy hai mươi mốt vạn. Không cần bắt lính ở các huyện xa, nội Lâm Tri cũng được hai mươi mốt vạn rồi. Lâm Tri rất giàu và súc tích đầy đủ, không người dân nào là không thổi ống vu, gảy đàn sắt, đàn cầm, đàn trúc, chọi gà, đua chó, chơi trò lục kỳ[445], đá cầu. Đường Lâm Tri náo nhiệt, bánh xe qua lại sát nhau, người chen vai nhau, vai áo tiếp nhau thành như bức màn, tay áo đưa lên thành bức rèm, mồ hôi vẩy ra thành mưa, nhà nào cũng đôn hậu, giàu có, người nào cũng có chí khí hiên ngang. Nhờ đức hiền minh của đại vương với sự cường thịnh của nước Tề nên không nước nào chống nổi Tề. Nay Tề quay về phía tây[446] mà thờ Tần, thần trộm vì đại vương mà lấy làm nhục.
Vả lại, Hàn, Nguỵ sở dĩ sợ Tần là vì biên giới tiếp với Tần, xuất binh mà đánh nhau thì chỉ trong mười ngày là cái cơ thắng bại, tồn vong quyết định được rồi. Hàn, Nguỵ đánh mà thắng Tần thì binh cũng mất một nửa mà không giữ được biên giới bốn bề; đánh mà không thắng thì tất là mất nước. Cho nên Hàn, Nguỵ sợ việc chiến tranh với Tần mà thần phục Tần.
Tần mà đánh Tề, thì sự thể khác hẳn: phía sau có Hàn, Nguỵ quấy rối, lại phải qua miền Dương Tấn[447] của Vệ, và miền Cang Phụ[448] hiểm trở, đường hẹp, xe không tránh nhau được, ngựa không chạy hàng hai được, một trăm người giữ chỗ hiểm yếu thì ngàn người không qua được. Tần muốn vào sâu thì phải lấm lét như chó sói, coi chừng Hàn, Nguỵ tập hậu. Vì vậy chỉ làm bộ giậm doạ, mà không dám tiến, và Tần không hại Tề được, lẽ đó minh bạch rồi.
Không xét kỹ cái thế của Tần không làm gì được Tề mà muốn quay về hướng tây thờ Tần, thế là quần thần nước Tề tính sai rồi. Nay (kế hoạch của thần là làm cho) Tề không mang tiếng thờ Tần mà có cái thực lực của một cường quốc, thần xin đại vương thử lưu ý tới.
Vua Tề đáp:
- Quả nhân vụng tính, nay ông đem lời của vua Triệu ban bảo cho, quả nhân xin kính đem xã tắc để theo kế hoạch hợp tung.
17. TRƯƠNG NGHI THUYẾT VUA TỀ THEO LIÊN HOÀNH(Trương Nghi vi Tần liên hoành)
Trương Nghi thay vua Tần thuyết vua Tề Mẫn Vương[449] theo kế hoạch liên hoành:
- Cường quốc trong thiên hạ, không nước nào hơn Tề; bậc đại thần, bậc cha anh đông đúc giàu có, vui vẻ, không nước nào hơn Tề. Nhưng đại vương đã tính sai, chỉ nghĩ đến việc nhất thời, không lo tới cái lợi vạn đại. Bọn theo kế hoạch hợp tung tất bảo đại vương rằng nước Tề, phía tây có nước Triệu hùng cường, phía nam có Hàn, Nguỵ, lại là một nước dựa vào bể. Đất rộng, dân đông, binh lính mạnh mẽ, dũng cảm, tuy có trăm nước Tần cũng không làm gì được Tề. Đại vương nghe lời đó mà không xét cái thực tại. Bọn hợp tung liên kết với nhau thì không ai không cho hợp tung là nên. Nhưng thần nghe nói, Tề với Lỗ ba lần đánh nhau, Lỗ ba lần thắng, mà sau đó Lỗ hoá ra nguy vong, là vì tuy có cái danh là thắng mà thực tế thì là mất. Tại sao vậy? Là vì Tề lớn mà Lỗ nhỏ.
Nay Triệu so với Tần, thì cũng không khác gì Lỗ so với Tề. Tần, Triệu đánh nhau ở phía trên Hà Chương[450], đánh hai lần, thắng Tần hai lần, đánh ở phía dưới Phiên Ngô[451], đánh hai lần, thắng Tần hai lần. Nhưng sau bốn lần chiến thắng đó, Triệu mất vài chục vạn quân, chỉ còn giữ được đất Hàm Đan, thành thử tuy có cái danh là thắng Tần mà sự thực là nước bị tàn phá. Tại sao vậy? Là vì Tần mạnh mà Triệu yếu.
Nay Tần và Sở thông hôn với nhau[452] thành hai nước anh em. Hàn dâng đất Nghi Dương, Nguỵ dâng đất Hà Ngoại[453]. Triệu tới Mãnh Trì[454] để triều kiến vua Tần, lại cắt đất Hà Gian để thờ Tần. Nếu đại vương không thờ Tần, Tần sẽ xua Hàn, Nguỵ đánh miền nam của Tề, thống suất hết binh mã của Triệu, qua Hà Quan mà tiến về Bác Quan[455]; Lâm Tri, Tức Mặc[456] sẽ không còn là đất của đại vương nữa. Khi mà quí quốc bị công phá thì dù có muốn thờ Tần thì cũng không được nữa. Cho nên thần xin đại vương nghĩ kỹ lại.
Vua Tề đáp:
- Tề là nước hẻo lánh, thô lậu ở trên bờ Đông Hải, chưa được nghe cái lợi lâu dài cho xã tắc. Nay quí khách vui lòng lại chỉ bảo cho, xin đem xã tắc để thờ Tần.
Rồi đem một miền ba trăm dặm có nhiều lợi về cá và muối mà dâng Tần.
TỀ II 2. TRƯƠNG NGHI LẬP MƯU ĐỂ ĐƯỢC VŨ VƯƠNG TIN DÙNG(Trương Nghi sự Tần Huệ Vương)
Trương Nghi thờ Tần Huệ Vương. Huệ Vương mất, Vũ Vương lên ngôi. Kẻ tả hữu của Vũ Vương ghét Trương Nghi, tâu với Vũ Vương:
- Nghi thờ tiên vương mà không trung…
Nói chưa hết câu thì sứ giả của Tề cũng vừa tới để trách Vũ Vương sao dùng Trương Nghi làm tể tướng. Trương Nghi nghe được, bảo Vũ Vương:
- Nghi tôi có một kế ngu, xin dâng đại vương.
Vũ Vương hỏi:
- Kế ra sao?
Đáp:
- Tính việc xã tắc, thì có gây đại biến ở phía đông[457], đại vương mới có cơ hội cắt được nhiều đất. Nay vua Tề (Mẫn Vương) rất ghét Nghi tôi, Nghi tôi ở đâu thì tất đem binh đánh đó, cho nên Nghi tôi xin đem cái thân bất tài này qua Lương[458], như vậy Tề tất đem quân đánh Lương. Quân Tề và quân Lương cầm chân nhau ở dưới thành, đại vương thừa lúc đó đánh Hàn, vô đất Tam Xuyên, đem binh ra khỏi ải Hàm Cốc, chẳng cần đánh cũng chiếm được Chu, chở hết đồ tế tự, bắt được thiên tử, lấy bản đồ cùng sổ sách, thế là thành nghiệp đế vương.
Vua Tần khen hay. Rồi sửa soạn cho ba chục binh xa để Trương Nghi qua Lương.
Tề quả nhiên đem binh đánh Lương, vua Lương lo sợ. Trương Nghi bảo:
- Xin đại vương đừng lo, tôi có kế làm cho Tề phải lui binh.
Rồi sai một người tay chân tên là Phùng Hỉ qua Sở, rồi từ Sở qua Tề. Xong công việc Tề, Sở rồi, Phùng Hỉ nhân cơ hội, bảo vua Tề:
- Đại vương rất ghét Nghi, nhưng (chính) đại vương đã uỷ thác Nghi cho vua Tần một cách thực là trọng hậu.
Vua Tề hỏi:
- Quả nhân rất ghét Nghi, Nghi ở đâu thì quả nhân đem quân đánh đó, vậy thì làm sao bảo là quả nhân uỷ thác Nghi cho vua Tần?
Đáp:
- Chính vậy là uỷ thác Nghi đấy. Khi Nghi ra khỏi Tần, có hứa với vua Tần rằng: “Mưu tính giúp đại vương thì có gây biến ở phía đông, đại vương mới có cơ hội cắt được nhiều đất. Vua Tề rất ghét Nghi tôi; Nghi tôi ở đâu thì tất đem quân đánh đó; cho nên Nghi tôi xin đem cái thân bất tài này qua Lương, như vậy Tề tất đem quân đánh Lương. Quân Tề và quân Lương cầm chân nhau ở dưới thành, không dám nghỉ ngơi, đại vương thừa lúc đó đánh Hàn, vô đất Tam Xuyên, đem binh ra khỏi ải Hàm Cốc, chẳng cần đánh cũng chiếm được Chu, chở đồ tế tự, bắt được thiên tử, lấy bản đồ cùng sổ sách, thế là thành nghiệp đế vương”. Vua Tần cho kế đó là phải, sửa soạn cho ba chục binh xa để Nghi qua Lương. Quả nhiên Tề đánh Lương. Thế là đại vương ở trong tự làm cho mình suy nhược mà đánh nước liên kết với mình, mở rộng đất của nước giáp ranh với mình để tự hại mình, mà làm cho Nghi được vua Tần càng tin. Vậy thần bảo rằng đại vương uỷ thác Nghi cho vua Tần.
Vua Tề bảo: Phải.
Rồi thôi không đánh Lương nữa.
4. VẼ RẮN THÊM CHÂN – C26,4-18(Chiêu Dương vi Sở phạt Nguỵ)
Chiêu Dương vì Sở mà đánh Nguỵ, phá quân giết tướng, chiếm được tám thành, rồi chuyển quân qua đánh Tề. Trần Chẩn[459] do vua Tề (Mẫn Vương) sai qua yết kiến Chiêu Dương, lạy Chiêu Dương hai lạy, mừng Chiêu Dương đã chiến thắng Nguỵ, rồi đứng dậy hỏi về pháp lệ của Sở:
- Phá quân giết tướng thì được chức tước gì?
Chiêu Dương đáp:
- Chức thì là Thượng trụ quốc, tước thì là Thượng chấp khuê[460].
- Cao sang hơn chức đó là chức gì?
- Chỉ có chức lệnh doãn[461] mà thôi!
Trần Chẩn bảo:
- Chức lệnh doãn sang thật, nhưng vua Sở không đặt hai chức lệnh doãn. Tôi xin trộm đưa tỉ dụ này để ông hiểu. Sở có người cúng giỗ xong rồi cho bọn người nhà một chén rượu. Bọn người nhà bảo nhau: “Mấy người uống thì không đủ, một người uống thì dư. Bây giờ đây, chúng ta vẽ một con rắn trên đất, ai vẽ xong trước thì được uống”. Một người vẽ xong trước, lấy rượu uống, tay trái cầm chén, tay phải vẽ thêm vào hình con rắn, bảo: “Tôi có thể vẽ thêm chân cho nó”. Vẽ chưa xong thì một người khác đã vẽ xong rắn, giật lấy chén rượu, bảo: “Rắn vốn không có chân, sao anh lại vẽ chân cho nó?”. Rồi uống hết chén rượu, thế là người vẽ rắn thêm chân kia mất uống. Nay ông giúp Sở mà đánh Nguỵ, phá quân, giết tướng, được tám thành mà quân lính không suy nhược; ông lại muốn đánh Tề, Tề sợ ông lắm, vì vậy danh ông vang lừng, như vậy là đủ rồi, còn chức không thể cao hơn được nữa. Ông cầm quân lần nào cũng thắng mà không biết dừng lại, tới khi thân chết rồi, tước về người sau, thì có khác gì vẽ rắn thêm chân không?
Chiêu Dương cho là phải, lui binh về.
7. TÔ TẦN THUYẾT VUA TỀ GIÚP TRIỆU(Tần công Triệu Trường Bình)
Tần đánh Triệu ở Trường Bình. Tề, Sở cứu Triệu. Vua Tần nghĩ: “Tề, Sở cứu Triệu, nếu họ đoàn kết với nhau thì mình lui binh, không thì mình đánh”.
Triệu thiếu lương thực, xin Tề giúp lúa, Tề không chịu, Tô Tần bảo vua Tề:
- Nên giúp đi để lui binh của Tần, không giúp thì binh Tần không lui. Như vậy là Tần mưu tính đúng, mà Tề, Yên mưu tính sai. Vả lại Triệu đối với Yên, Tề, được hai nước đó che cho như răng có môi, môi hở thì răng lạnh. Hôm nay mà mất Triệu thì ngày mai tới phiên Tề, Sở. Lại thêm cái việc cứu Triệu phải cẩn thận như việc bưng vò nứt, tưới cái nồi nóng. Cứu Triệu là một việc nghĩa cao thượng, lui được binh Tần là có tiếng tăm rỡ ràng. Được cái ân nghĩa là cứu Triệu khỏi mất nước, và cái uy danh là lui được binh Tần, không lo việc đó mà chỉ nghĩ tiếc lúa thì là tính sai việc nước.
TỀ III 1. MƯU MÔ TÔ TẦN – C27,1-105(Sở vương tử)
Vua Sở (Hoài Vương) mất, thái tử (Hoành) làm con tin ở Tề[462]. Tô Tần bảo Tiết Công[463]:
- Sao ông không giữ thái tử lại để chiếm lấy phía đông của Sở?
Tiết Công đáp:
- Không nên. Ta mà giữ thái tử lại, đất Dĩnh Trung[464] lập vua khác thì ta có con tin cũng như không, mà lại mang tiếng làm điều bất nghĩa trong thiên hạ.
Tô Tần[465] bảo:
- Không phải vậy. Đất Dĩnh Trung mà lập vua khác thì ông sẽ bảo vua mới: “Tặng tôi miền phía đông, tôi sẽ vì đại vương mà giết thái tử; nếu không thì tôi sẽ đem binh ba nước[466] qua Sở mà cùng lập thái tử lên ngôi”. Như vậy, Sở tất nghe mà ta chiếm được phía đông của Sở (miền giáp giới Tề).
Mưu đó của Tô Tần: 1. Có thể giúp Tô Tần xin (Tiết Công) đi được; 2. Có thể khiến cho vua Sở phải vội vàng đem tặng (Tề) miền phía đông; 3. Có thể giúp Tề cắt thêm đất của Sở; 4. Có thể làm cho thái tử trung với Tề mà khiến Sở cắt thêm đất cho Tề; 5. Có thể vì vua Sở đuổi gấp thái tử; 6. Có thể làm cho thái tử trung thành và phải trốn đi gấp; 7. Có thể làm cho có người nói xấu Tô Tần với Tiết Công; 8. Có thể làm cho Tô Tần được phong ở Sở; 9. Có thể khiến người thuyết Tiết Công nên thân thiện với Tô Tần; 10. Lại có thể khiến Tô Tần tự biện hộ với Tiết Công[467] (Là vì như sau: )
1. Tô Tần bảo Tiết Công:
- Tôi nghe nói mưu mà tiết lậu thì việc tất hỏng, tính toán rồi mà không quyết thi hành thì danh không thành. Nay ông giữ thái tử lại để bắt chẹt Sở phải tặng phía đông của Sở. Nếu Sở không gấp tặng phía đông thì là Sở tính thay đổi kế hoạch; thay đổi kế hoạch thì ông tuy giữ con tin cũng như không, mà lại mang tiếng với thiên hạ.
- Phải. Vậy làm cách nào bây giờ?
- Tôi xin vì ông mà qua Sở, khiến Sở phải vội đem quân vô đất các nước phía đông[468]. Sở mà chịu tặng thì mưu kế của ông không thể nào thất bại được.
- Phải.
Rồi Tô Tần qua Sở.
Vì vậy mà bảo rằng: “Mưu của Tô Tần giúp cho Tô Tần có thể xin Tiết Công đi được”.
2. Tới Sở, Tô Tần bảo vua Sở[469]:
- Tề muốn suy tôn thái tử mà lập làm vua Sở. Tôi xét ra thì Tiết Công giữ thái tử lại là để bắt Sở phải tặng Tề miền phía đông. Nay đại vương không gấp tặng miền phía đông, thì thái tử sẽ tặng Tề một số đất bội đất đại vương tặng để Tề suy tôn mình lên làm vua Sở.
Vua Sở đáp:
- Xin vâng lệnh ông.
Rồi đem dâng Tề miền phía đông.
Vì vậy mà bảo rằng: “Mưu của Tô Tần khiến vua Sở phải vội đem tặng miền phía đông”.
3. Tô Tần về Tề, bảo Tiết Công:
- Sở phải ở vào cái thế phải cắt nhiều đất cho ta.
Tiết Công hỏi:
- Sao vậy?
- Xin ông cho thái tử hay đầu đuôi mọi sự, khiến thái tử thưa với vua để tỏ lòng trung[470] với ông. Rồi cho Sở hay việc đó, thế là Sở phải cắt thêm đất cho Tề.
Vì vậy mà bảo rằng: “Mưu của Tô Tần có thể giúp cho Tề cắt thêm đất của Sở”.
4. Rồi Tô Tần lại bảo thái tử:
- Tề ủng hộ thái tử mà muốn lập thái tử làm vua, vua Sở xin cắt đất để giữ thái tử lại; Tề chê cắt đất ít, thái tử sao không cắt đất gấp bội để tặng Tề? Như vậy Tề tất ủng hộ thái tử.
Thái tử đáp: Phải. Rồi cắt gấp bội đất Sở để cho Tề rộng thêm[471].
Vua Sở nghe tin, đâm lo, lại cắt thêm đất để dâng Tề, mà vẫn còn sợ việc không thành.
Vì vậy mà bảo rằng: “Mưu của Tô Tần khiến cho Sở tặng thêm đất cho Tề”.
5. Rồi Tô Tần lại bảo Sở:
- Tề sở dĩ dám đòi cắt nhiều đất như vậy là vì nắm được thái tử; nay Tề đã được đất rồi mà vẫn không ngừng là vì dùng thái tử để mặc cả với đại vương. Tôi có thể làm cho thái tử phải đi. Thái tử mà đi thì Tề không còn nói gì được nữa, tất không còn đòi đại vương cắt thêm đất nữa. Sau đó, đại vương nên qua đất Tề mà kết giao, Tề tất chịu, như vậy là đại vương đuổi được kẻ thù mà kết thân được với Tề.
Vua Sở rất mừng, đáp: Xin đem nước mà theo kế ông.
Vì vậy mà bảo rằng: “Mưu của Tô Tần có thể vì vua Sở đuổi gấp thái tử”.
6. Rồi Tô Tần lại bảo thái tử:
- (Hiện nay) người có quyền tài chế Sở là vua Sở, còn thái tử chỉ có cái danh mà không có thực, Tề dùng để bắt chẹt Sở thôi. Tề chưa chắc là tin lời thái tử mà Sở tặng Tề gì thì cái đó thấy rõ. Sở mà kết giao với Tề được thì thái tử tất nguy! Xin thái tử tính đi.
Thái tử đáp: Xin nhận lệnh ông.
Rồi cho đánh xe, đi ngay tối hôm đó.
Vì vậy mà bảo rằng: “Mưu của Tô Tần có thể làm cho thái tử trốn đi gấp”.
7. Tô Tần sai người nói với Tiết Công:
- Người khuyên ông giữ thái tử lại là Tô Tần. Tô Tần không thành tâm vì ông đâu, mà làm lợi cho Sở đấy. Tô Tần sợ ông hay điều đó, cho nên bắt Sở cắt nhiều đất để xoá hết dấu vết đi (để ông khỏi nghi). Nay khuyên thái tử đi, cũng lại là Tô Tần nữa mà ông không hay. Tôi trộm vì ông mà lấy làm ngờ.
Tiết Công rất giận Tô Tần.
Vì vậy mà bảo rằng: “Mưu của Tô Tần có thể làm cho có người nói xấu Tô Tần với Tiết Công”.
8. Tô Tần lại sai người nói với vua Sở:
- Người khiến cho Tiết Công giữ thái tử lại là Tô Tần, ủng hộ đại vương lên thay thái tử ở Sở cũng lại là Tô Tần; bày mưu cắt đất để kết chặt Sở với Tề, cũng lại là Tô Tần, trung với đại vương mà làm cho thái tử phải ra đi, cũng lại là Tô Tần. Nay người ta nói xấu Tô Tần với Tiết Công, trách Tô Tần là bạc bẽo với Tề mà đôn hậu với Sở. Xin tâu đại vương hay điều đó.
Vua Sở đáp:
- Xin nhận lệnh ông.
Rồi phong cho Tô Tần làm Vũ Trinh Quân[472].
Vì vậy mà bảo rằng: “Mưu của Tô Tần làm cho Tô Tần được phong ở Sở”.
9. Tô Tần lại sai Cảnh Lí[473] nói với Tiết Công:
- Ông sở dĩ được kính trọng trong thiên hạ, là nhờ thu phục được nhiều kẻ sĩ trong thiên hạ mà có quyền lớn ở Tề. Nay Tô Tần là bậc biện sĩ trong thiên hạ, ít có người tài như ông ta. Ông không trọng Tô Tần thì là bao vây, ngăn lấp kẻ sĩ trong thiên hạ, không có lợi cho con đường tiến ngôn của kẻ sĩ. Như vậy có kẻ không phục ông mà suy tôn Tô Tần, và thế của ông nguy mất. Nay Tô Tần được vua Sở trọng mà ông không sớm thân với Tô Tần thì ông thành kẻ thù của Sở. Cho nên ông nên thân với Tô Tần, quí trọng ông ta, như vậy là được nước Sở.
Nhờ vậy mà Tiết Công lại quí trọng Tô tần.
Vì vậy mà bảo rằng: “Mưu của Tô Tần có thể làm cho Tô Tần thuyết phục Tiết Công để Tiết Công trọng Tô Tần”.
(Và 10. Như vậy ta đoán được Tô Tần tự biện hộ được với Tiết Công ra sao)[474].
2. ĐOÁN TÂM LÝ VUA(Tề Vương phu nhân tử)
Vợ vua Tề (Uy Vương) mất, có tới bảy mỹ nữ đều được vua yêu. Tiết Công muốn biết vua sẽ lựa người nào, dâng vua bảy đôi hoa tai, riêng một đôi đẹp hơn cả. Hôm sau, thấy đôi bông đó được ai đeo thì khuyên vua lựa người đó.
3. TÔ ĐẠI CAN MẠNH THƯỜNG QUÂN – C28,3-13(Mạnh Thường Quân nhập Tần)[475]
Mạnh Thường Quân muốn vô nước Tần, có cả ngàn người can mà ông không nghe. Tô Tần muốn ngăn, Thường Quân bảo: “Về nhân sự, tôi đã được nghe hết rồi; chỉ còn chưa được nghe quỉ sự[476] thôi”
Tô Đại[477] đáp:
- Tôi tới đây chủ ý là không dám nói về nhân sự mà chỉ nói về quỉ sự vậy.
Mạnh Thường Quân bèn tiếp. Tô Đại bảo:
- Hôm nay, khi lại đây, tôi có đi ngang qua miền Tri Thượng[478], được nghe một tượng nặn bằng đất và một tượng được đẽo bằng cành đào nói chuyện với nhau. Tượng bằng cành đào bảo tượng bằng đất: “Anh vốn là đất ở bờ phía Tây, được nặn thành hình người; tới tháng tám, mưa xuống, nước sông Tri dâng lên thì anh sẽ rã rời, tan nát”. Tượng bằng đất đáp: “Không phải vậy. Tôi là đất ở bờ phía tây, tôi rã rời, tan nát thì lại thành đất bờ phía tây. Còn anh là cành đào ở biển đông[479]. Người ta đẽo trổ anh thành hình người, mưa xuống, nước sông Tri dâng lên, cuốn anh mà chảy đi, anh sẽ phiêu bạt, chưa biết ra sao đâu!”.
Nay Tần là nước bốn bề đều có những chỗ hiểm yếu, khác gì miệng cọp, ông mà vô đó thì tôi không biết ông sẽ ra ngả nào!
Mạnh Thường Quân bèn thôi, không qua Tần nữa.
10. THUẦN VU KHÔN VỚI KẺ SĨ(Thuần Vu Khôn nhất nhật nhi kiến thất sĩ)
Thuần Vu Khôn một ngày mà dắt bảy kẻ sĩ vô yết kiến Tề Tuyên Vương. Tề Tuyên Vương bảo Thuần Vu Khôn:
- Ông lại đây! Quả nhân nghe nói rằng ngàn dặm mà có được một kẻ sĩ thì cũng như là kẻ sĩ đứng kề vai nhau rồi; trăm đời mà có được một vị thánh thì cũng như là các vị thánh nối gót nhau rồi[480]. Nay ông chỉ trong một buổi sáng mà dắt bảy kẻ sĩ vô đây, như vậy kẻ sĩ chẳng phải là nhiều ư?
Thuần Vu Khôn đáp:
- Không phải vậy. Loài chim cùng cánh với nhau thì đậu chung với nhau; loài thú cùng chân với nhau[481] thì cùng chạy với nhau. Tìm sài hồ và cát cánh[482] ở nơi đất ẩm thấp ngập nước thì mấy đời cũng không được một cây, nếu tìm ở phía bắc núi Dịch Thử, núi Lương Phủ[483] thì đem xe tới mà chở cũng không hết. Vật nào cũng có đồng loại. Khôn tôi là đồng loại của bậc hiền giả. Nhà vua mà nhờ Khôn tôi cầu kẻ sĩ thì cũng như vốc nước ở sông, lấy lửa ở đồ đánh lửa[484]. Rồi đây Khôn tôi còn gặp nhiều kẻ sĩ nữa, chứ nào chỉ có bảy kẻ sĩ mà thôi.
11. CHÓ ĐUỔI THỎ, NÔNG PHU BẮT ĐƯỢC CẢ HAI(Tề dục phạt Nguỵ)
Tề muốn đánh Nguỵ. Thuần Vu Khôn bảo Tề Tuyên Vương:
- Con lư ở nước Hàn là loài chó chạy nhanh trong thiên hạ; con thuân ở Đông Quách là loài thỏ nhanh nhẹn trong hải nội. Con lư nước Hàn đuổi con thỏ Đông Quách, ba lần chạy vòng quanh núi, năm lần leo núi; thỏ phía trước đã khốn đốn mà chó phía sau cũng mệt đừ; cả chó lẫn thỏ đều kiệt sức, đều lăn ra chết. Lão nông phu trông thấy chẳng phí một chút sức mà bắt được cả hai. Nay Tề và Nguỵ cầm cự nhau lâu làm cho binh sĩ khốn đốn, dân chúng khổ sở; tôi e rằng nước Tần và nước Sở hùng cường kia đứng ở phía sau sẽ thừa cơ mà thành công như lão nông phu mất.
Vua Tề sợ, lui binh, cho tướng sĩ nghỉ ngơi.
TỀ IV 1. PHÙNG HUYÊN LÀM THỰC KHÁCH NHÀ MẠNH THƯỜNG QUÂN(Tề nhân hữu Phùng Huyên) – QC – BC
Nước Tề có một người tên là Phùng Huyên nghèo khổ thiếu thốn, không thể tự mưu sinh được, cậy người lại xin Mạnh Thường Quân cho được ăn nhờ[485] trong nhà. Mạnh Thường Quân hỏi: “Ông khách thích cái gì?”[486]. Đáp: “Khách không có sở thích nào cả”. Hỏi: “Khách có tài năng gì không?”. Đáp: “Khách không có tài năng gì cả”. Mạnh Thường Quân cười rồi nhận cho: “Được”.
Kẻ tả hữu trong nhà Mạnh Thường Quân thấy chủ mình khinh rẻ người khách đó, nên cho khách ăn rau cỏ. Ở được ít lâu, Phùng Huyên dựa cột, gõ nhịp vào thanh kiếm mà hát: “Kiếm[487] dài ơi, về đi thôi! Ăn không có cá”. Kẻ tả hữu thưa với Mạnh Thường Quân. Mạnh Thường Quân bảo: “Dọn cá cho ông ấy”. Từ đó đãi Phùng Huyên vào hàng khách ở trong nhà.
Được ít lâu, lại gõ nhịp vào thanh kiếm mà hát: “Kiếm dài ơi, về đi thôi! Đi không có xe”. Kẻ tả hữu đều cười, rồi thưa với Mạnh Thường Quân. Mạnh Thường Quân bảo: “Đánh xe cho ông ấy”. Từ đó đãi Phùng Huyên vào hàng môn khách có xe. Vậy là Phùng Huyên ngồi lên xe, giơ cao thanh kiếm, lại chơi bạn bè, bảo: “Ông Mạnh Thường Quân đãi tôi vào bậc khách”.
Được ít lâu lại gõ nhịp vào thanh kiếm mà hát: “Kiếm dài ơi, về đi thôi! Không có gì gởi về nhà”. Kẻ tả hữu đều ghét là tham, không biết thế nào là đủ. Mạnh Thường Quân hỏi: “Ông Phùng còn người thân không?”. Đáp: “Còn mẹ già”. Mạnh Thường Quân sai người chu cấp thực dụng, không để thiếu thốn. Từ đó Phùng Huyên không hát nữa.
Sau, Mạnh Thường Quân giở sổ ra, hỏi các môn khách: “Vị nào quen việc kế toán, có thể vì Văn[488] đi thu tiền nợ ở đất Tiết[489] không?”. Phùng Huyên viết tên mình vào sổ, đáp: “Tôi đi được”. Mạnh Thường Quân lấy làm lạ hỏi: “Vị này là ai vậy?”. Kẻ tả hữu đáp: “Là người gõ kiếm hát: “Kiếm dài về đi thôi” đó”. Mạnh Thường Quân cười bảo: “Ông khách quả có tài năng, tôi đã phụ ông ta, không thường hội diện”. Xin mời lại gặp mặt và tạ lỗi: “Văn tôi mệt mỏi về việc quan, lo lắng quá nên tâm thần mê loạn, tính lại vốn nhu nhược, mê muội, chìm đắm vào việc quốc gia, đến nổi đắc tội với tiên sinh, tiên sinh chẳng lấy làm nhục, lại có ý thay tôi qua đất Tiết thu nợ giùm chăng?”. Phùng Huyên đáp: “Tôi xin đi”. Như vậy rồi sửa sang xe, ngựa, hành trang, chở theo những trái khoán, khế ước. Khi từ biệt, hỏi: “Nợ thu hết rồi, tôi mua gì mang về?”. Mạnh Thường Quân đáp: “Tiên sinh coi nhà này thiếu thứ gì thì mua thứ đó”.
Phùng Huyên dong ngựa tới đất Tiết, sai một viên thư lại gọi dân tới, ai thiếu nợ thì đối chiếu với tờ khoán. Đối chiếu xong cả rồi, Phùng Huyên đứng dậy, thác lời Mạnh Thường Quân, cho hết số nợ, rồi đốt tờ khoán đi. Dân đều hô vạn tuế.
Lại dong ngựa vội về Tề, sáng sớm xin vô yết kiến Mạnh Thường Quân. Mạnh Thường Quân lấy làm lạ sao mà đi mau vậy, mặc áo đội mũ ra tiếp, hỏi: “Nợ thu được hết không? Sao mà về nhanh thế?”. Đáp: “Thu hết rồi”. Hỏi: “Mua gì về?”. Phùng Huyên đáp: “Ngài bảo: “Coi nhà này thiếu thứ gì thì mua thứ đó”. Thần nghĩ trong cung của ngài chứa đầy châu báu, ngoài chuồng đầy cả ngựa, chó, hậu đình[490] chật cả mỹ nữ, nhà ngài có thiếu chỉ là thiếu “nghĩa” thôi, nên thần đã trộm phép mua “nghĩa” về”. Mạnh Thường Quân hỏi: “Mua “nghĩa” là làm sao?”. Đáp: “Nay ngài có đất Tiết nhỏ hẹp đó, đã không vỗ về yêu dân mà lại đi cướp cái lợi của dân, nên thần thác rằng ngài ra lệnh cho dân hết số nợ, rồi đốt các tờ khoán, dân hoan hô ngài vạn tuế. Thần mua “nghĩa” về cho ngài là thế”. Mạnh Thường Quân không vui, bảo: “Được! Thôi tiên sinh về nghỉ!”.
Khoản một năm sau, Tề Vương[491] bảo Mạnh Thường Quân: “Quả nhân không dám dùng bề tôi của tiên vương làm bề tôi cho mình”. Mạnh Thường Quân về đất Tiết, chưa tới, còn cách trăm dặm, dân đất Tiết dắt già bồng trẻ đi đón rước đầy đường suốt ngày. Mạnh Thường Quân quay lại bảo Phùng Huyên: “Tiên sinh mua “nghĩa” cho Văn này, đến hôm nay tôi mới được thấy”. Phùng Huyên đáp: “Thỏ khôn phải có ba hang mới có thể thoát chết được. Nay chỉ mới có một hang, chưa thể gối cao mà ngủ yên, tôi xin vì ngài đào thêm hai hang nữa”.
Mạnh Thường Quân cấp cho Phùng Huyên năm chục cổ xe, năm trăm cân vàng, qua phía tây du thuyết ở nước Lương. Phùng Huyên tâu với vua Lương: “Vua Tề đuổi bậc đại thần là Mạnh Thường Quân; nước chư hầu nào đón trước được ông ấy thì sẽ giàu có mà binh mạnh”. Như vậy vua Lương mới bỏ trống chức vị cao nhất[492], đem vị đương thời tướng quốc xuống làm thượng tướng quân, sai sứ mang ngàn cân vàng, trăm cổ xe lại đón Mạnh Thường Quân, Phùng Huyên dong về trước, khuyên Mạnh Thường Quân: “Ngàn cân vàng là vật trọng, trăm cổ xe là chức cao. Vua Tề tất hay tin này”. Viên sứ nước Lương ba lần về không, vì Mạnh Thường Quân cố từ không chịu đi.
Tề hay tin, vua tôi đều sợ hãi, sai quan thái phó đem ngàn cân vàng, hai cổ xe đẹp bốn ngựa, một thanh gươm của vua đeo và một phong thư lại tạ lỗi với Mạnh Thường Quân. Thư rằng: “Quả nhân gặp vận bất tường, quỉ thần tôn miếu giáng hoạ, nên bị bọn nịnh thần mê hoặc, đắc tội với ông. Quả nhân vô dụng, xin ông đoái nghĩ tới tôn miếu của tiên vương, tạm trở về nước mà thống trị vạn dân, được chăng?”. Phùng Huyên khuyên Mạnh Thường Quân: “Ngài nên xin những đồ tế tự tiên vương rồi lập tôn miếu ở đất Tiết”. Tôn miếu cất rồi, Phùng Huyên về báo cáo với Mạnh Thường Quân: “Ba hang đã đào xong, ngài tạm có thể gối cao mà sống vui”.
Mạnh Thường Quân làm tướng quốc mấy chục năm, không gặp một cái hoạ nhỏ nhặt nào cả, là nhờ mưu của Phùng Huyên vậy.
2. CÔNG TÔN HOẰNG ĐI SỨ TẦN(Mạnh Thường Quân vi tung)
Mạnh Thường Quân mưu tính hợp tung, (người nước Tề là) Công Tôn Hoằng bảo Mạnh Thường Quân:
- Sao ông không sai người quan sát vua Tần (Chiêu Vương) trước đã. Nếu vua Tần là hạng quân chủ có đức đế vương thì ông chỉ lo rằng không được làm bề tôi ông ta, đâu có rảnh mà nghĩ đến chuyện hợp tung để làm khó ông ta; còn nếu như vua Tần là hạng quân chủ bất tiếu thì lúc đó ông tính chuyện hợp tung để làm khó ông ta, cũng không trễ.
Mạnh Thường Quân:
- Phải. Vậy xin nhờ ông đi giùm cho việc đó.
Công Tôn Hoằng vâng lời, dùng mười chiếc xe, qua Tần. Chiêu Dương nghe tin, muốn dùng lời lẽ làm nhục Công Tôn Hoằng.
Công Tôn Hoằng vào yết kiến. Chiêu Vương hỏi:
- Đất của Tiết Công được bao nhiêu?
Công Tôn Hoằng đáp:
- Trăm dặm.
Chiêu Vương cười, bảo:
- Đất của quả nhân rộng ngàn dặm, mà quả nhân chưa dám gây khó với ai. Nay đất Tiết của Mạnh Thường Quân chỉ có một trăm dặm mà muốn gây khó với quả nhân, có thể nào được không?
- Mạnh Thường Quân biết trọng người, đại vương không biết trọng người.
- Mạnh Thường Quân trọng người ra sao?
Công Tôn Hoằng đáp:
- Hạng người giữ chính nghĩa, không làm bề tôi các vị thiên tử (không có đức), không làm bạn với các vua chư hầu (không có đức), đắc chí thì làm nhân chủ mà không thẹn, không đắc chí thì không chịu làm bề tôi, hạng người đó, (Mạnh Thường Quân) có được ba vị; hạng người về việc trị nước có thể làm thầy Quản Trọng, Thương Ưởng, bàn bạc về nghĩa lý, nghe điều phải rồi thi hành, hạng người được như vậy, (Mạnh Thường Quân) có tới năm vị; hạng người đi sứ tới triều một vua uy nghiêm của một nước vạn thặng, bị vua đó làm nhục mà lui ra tự sát để lấy máu mình vấy vào áo vua đó, như tôi đây, hạng người đó, (Mạnh Thường Quân) có được mười người.
Chiêu Vương cười, xin lỗi:
- Sao khách lại có thái độ như vậy? Quả nhân chỉ là đàm đạo với khách thôi mà. Quả nhân quí Mạnh Thường Quân, muốn được tiếp đãi ông ấy, xin khách bày tỏ giùm ý muốn của quả nhân với ông ấy.
Công Tôn Hoằng đáp:
- Xin vâng.
Có thể bảo là Công Tôn Hoằng không chịu nhục. Chiêu Vương là vua một nước lớn, Mạnh Thường Quân chỉ là vua một nước nhỏ có ngàn cổ xe. Dựng được cái danh nghĩa cho một nước nhỏ mà làm cho nước lớn không thể xúc phạm được, như vậy là làm hết trách nhiệm của một vị sứ giả.
3. MẠNH THƯỜNG QUÂN CHƯA BIẾT TRỌNG KẺ SĨ – C29,3-39(Lỗ Trọng Liên vị Mạnh Thường Quân)
Lỗ Trọng Liên bảo Mạnh Thường Quân:
- Ông chưa thật trọng kẻ sĩ. (Ông thử nghĩ) Ung Môn Tử nuôi Tiêu Diệc, Dương Đắc Tử nuôi…[493] chia cơm xẻ áo với nhau nên người nào cũng có kẻ sĩ chết vì mình. Nay nhà ông giàu hơn hai ông đó, mà ông chưa có một kẻ sĩ nào hết lòng hi sinh cho ông cả.
Mạnh Thường Quân đáp:
- Chỉ vì Văn tôi chưa gặp được bậc sĩ đó, nếu gặp được thì sao các bậc đó lại không hết lòng hi sinh cho tôi?
Lỗ Trọng Liên bảo:
- Trăm con ngựa trong chuồng của ông đều bận áo thêu và ăn lúa ngon, có phải con nào cũng là loài kì lân, lục nhĩ cả đâu[494]. Mười nàng phi trong hậu cung của ông đều bận gấm lụa, ăn gạo quí thịt ngon, có phải người nào cũng là Mao Tường, Tây Thi cả đâu?[495] Mĩ nhân và ngựa thì ông lựa ở thời này, vậy kẻ sĩ hà tất phải đợi người thời cổ! Cho nên tôi bảo rằng ông chưa thực trọng kẻ sĩ.
4. ĐÀM THẬP TỬ KHUYÊN MẠNH THƯỜNG QUÂN NÊN QUÊN OÁN – C29,4-19(Mạnh Thường Quân trục ư Tề)
Mạnh Thường Quân bị đuổi ở Tề, sau lại trở về Tề, (người nước Tề là) Đàm Thập Tử đi đón ở bờ cõi[496], hỏi Mạnh Thường Quân:
- Ông có lòng báo oán các sĩ, đại phu của nước Tề không?
Mạnh Thường Quân đáp:
- Oán!
- Ông có ý muốn giết họ ư?
- Giết!
- Có những sự thể tất phải đến, có những tình lý cố nhiên bất biến, lẽ đó, ông biết không?
- Không.
Đàm Thập Tử bảo:
- Ai cũng phải chết, đó là sự thể tất phải đến; mình giàu sang thì người ta bu lại, mình nghèo hèn thì người ta lảng ra, đó là một tình lý cố nhiên bất biến. Có những sự thể tất phải đến, những tình lý cố nhiên bất biến là vậy đó. Tôi xin lấy một ví dụ: chợ buổi sáng sớm thì đông người, chiều tối thì vắng vẻ, không phải là vì lẽ buổi sáng người ta yêu chợ mà buổi chiều người ta ghét chợ; chỉ vì lẽ còn nhu cầu (mua bán) thì người ta còn tới chợ, hết nhu cầu (đó) thì người ta bỏ về. Vậy xin ông đừng oán.
Mạnh Thường Quân bèn đem chẻ những bản tre khắc tên năm trăm người mà ông oán, rồi thôi không nói tới việc đó nữa.
5. NHAN XÚC THUYẾT TỀ TUYÊN VƯƠNG(Tề Tuyên Vương kiến Nhan Xúc) – QC – BC
Tề Tuyên Vương vời Nhan Xúc[497] (người nước Tề) lại bảo:
- Xúc lại đây!
Xúc cũng bảo:
- Vua lại đây!
Tuyên Vương không vui. Kẻ tả hữu của nhà vua bảo Nhan Xúc:
- Vua là bậc quân thượng, Xúc là kẻ bề tôi. Vua bảo Xúc: lại đây, Xúc cũng bảo vua: lại đây, như vậy có phải lẽ không?
Xúc đáp:
- Vua bảo Xúc: “Lại đây”, mà Xúc lại thì là Xúc mộ quyền thế; Xúc bảo vua “lại đây” mà vua lại thì là vua chuộng kẻ sĩ; để cho Xúc mang tiếng mộ quyền thế thì không bằng để cho vua được tiếng chuộng kẻ sĩ.
Tuyên Vương giận tím mặt, bảo:
- Vua quí hay kẻ sĩ quí?
- Kẻ sĩ quí chứ! Vua đâu có quí.
- Có chứng cứ gì không?
- Có chứ! Xưa kia, Tần đánh Tề, ra lệnh: “Trong khoảng năm chục bước chung quanh mộ Liễu Hạ Quí, ai mà dám vô đốn củi thì bị tội chết, không tha”[498]. Lại ra lệnh: “Ai mà chặt được đầu vua Tề thì được phong làm vạn hộ hầu, thưởng ngàn nén vàng”. Do đó mà xét thì cái đầu một ông vua còn sống, có khi không bằng nấm mồ một kẻ sĩ đã chết.
Tề Tuyên Vương làm thinh, vẻ không vui. Kẻ tả hữu đều nói:
- Xúc lại đây! Xúc lại đây! Đại vương chiếm cứ một nước ngàn cổ xe, đúc những cái chuông nặng ngàn thạch treo trên những cái giá nặng vạn thạch[499], kẻ sĩ trong thiên hạ người nào mà nhân nghĩa thì đều lại phục dịch, người nào mà minh trí thì cũng đều lại yết kiến để đàm luận; đông tây nam bắc, người bốn phương đều qui phục; vạn vật không thiếu thứ gì mà trăm họ đều kính mến. Nay có một kẻ sĩ dù có cao thượng cũng chỉ gọi là một kẻ sĩ “thất phu”, đi thì đi bộ, ở thì ở chỗ đồng ruộng, thô lậu quê mùa, nhà cửa tồi tàn, như vậy thì kẻ sĩ rất đổi là ti tiện vậy!
Xúc đáp:
- Không phải vậy. Xúc nghe hồi xưa, vua Đại Vũ làm chủ vạn nước chư hầu là nhờ đâu? Nhờ vua Đại Vũ có đức dày và được kẻ sĩ giúp sức. Cho nên vua Thuấn ở chốn đồng ruộng dấy lên, xuất thân nơi thô lậu quê mùa mà sau làm thiên tử. Đến đời vua Thang, chư hầu chỉ còn có ba ngàn nước. Hiện nay quay mặt về phía nam mà tự xưng “quả nhân” chỉ còn hai mươi bốn người[500]. Do đó mà xét thì chẳng phải là do chính sách khác nhau, người tốt kẻ xấu ư? Lần lần mà bị diệt vong, cái lúc mà bị diệt vong, không còn thân thuộc gì nữa thì dù muốn có một căn nhà tồi tàn, phỏng có được không? Cho nên Dịch Truyện chẳng từng có câu này đấy ư?: “Ở ngôi cao không có cái thực mà thích cái danh, thì thế nào cũng có những hành động kiêu xa, ngạo mạn, mà hễ kiêu xa ngạo mạn thì cái hoạ tất sẽ theo sau”. Thế cho nên không có cái thực mà thích cái danh thì tất bị tước đoạt, không có đức hạnh mà lại muốn có phước thì tất bị vướng mắc; không có công lao mà muốn hưởng lộc thì tất bị nhục, hoạ tất thâm! Cho nên có câu rằng: “Khoe công thì không thành, nguyện vọng hão huyền thì không đạt”. Đó đều là chỉ thích cái hư danh đẹp đẽ mà không có thực đức. Vì vậy mà vua Nghiêu có chín người phụ tá, vua Thuấn có bảy người bạn hiền, vua Vũ có năm vị trọng thần, vua Thang có ba vị phụ bật; từ xưa tới nay, không có ai không có thực đức mà thành danh trong thiên hạ bao giờ. Vì vậy bậc quân vương không hổ thẹn vì phải học hỏi kẻ dưới; nhờ học hỏi kẻ dưới mới hoàn thành được đạo đức mà lưu danh lại đời sau, đó là trường hợp vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ, vua Thang, và Văn Vương nhà Chu. Cho nên bảo rằng: “Cái không có hình thể là chủ của cái có hình thể; cái không có đầu mối là gốc của mọi sự thể”. Trên thì xét được nguồn, dưới thì thông được dòng, bậc thánh nhân hiểu rõ đạo lý thì có gì mà chẳng tốt lành! Lão Tử nói: “Tuy sang mà phải lấy hèn làm gốc, tuy cao mà phải lấy thấp làm nền; vì vậy bậc vương hầu mà tự xưng là “cô”, “quả”, “bất cốc”[501] là lấy sự ti tiện làm gốc đấy. Kẻ cô, quả là kẻ ti tiện, khốn khổ, ở địa vị thấp, mà bậc vương hầu tự xưng như vậy, há chẳng phải tự hạ mình mà tôn quí kẻ sĩ đấy ư? Vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn, vua Thuấn truyền ngôi cho vua Vũ, vua Chu Thành Vương trọng dụng ông Chu Công Đán mà đời đời được khen là minh quân, là vì các ông ấy hiểu rõ rằng kẻ sĩ đáng quí.
Tuyên Vương nói:
- Ôi! Người quân tử, có cách nào làm nhục được đâu, quả nhân đã tự chuốc lấy cái nhục. Nay đã được nghe lời người quân tử và nghe hành vi của kẻ tiểu nhân, xin được làm học trò của tiên sinh. Xin Nhan tiên sinh cùng đi chơi với quả nhân, ăn thì tất có thịt bò, thịt dê, thịt lợn, đi thì tất có xe, vợ con tiên sinh đều được tặng y phục đẹp đẽ.
Nhan Xúc từ tạ, đáp:
- Ngọc sinh ở núi, đem nó mà chế tạo thì nó tất vỡ, lúc đó không phải là nó không quí, nhưng không còn được vẹn cái mộc mạc tự nhiên của nó nữa. Kẻ sĩ sinh ở chỗ thô lậu quê mùa, được tuyển dụng làm quan, thì không phải là không vinh hiển, nhưng không còn được vẹn cái bản chân nữa. Xúc tôi xin được về, ăn trễ thì cũng ngon như ăn thịt, thủng thẳng đi bộ thì cũng thích như ngồi xe, không tội thì cũng sướng như kẻ tôn quí, lấy sự thanh tĩnh, chính trực làm vui. Đặt ra hiệu lệnh là nhà vua, tận trung, trực ngôn là Xúc tôi; đạo lý gì cần nói thì Xúc tôi đã nói rồi, nay xin nhà vua cho phép lui ra, thong dong mà trở về nơi cố hương.
Nói rồi vái hai vái, từ biệt mà đi.
Xúc là người tri túc, phục hồi được thiên chân, như cục ngọc chưa đẽo, vì vậy mà suốt đời không bị nhục.
6. VƯƠNG ĐẨU YẾT KIẾN TỀ TUYÊN VƯƠNG – C29,6-2(Tiên sinh Vương Đẩu)
Ông Vương Đẩu (người nước Tề) tiến tới cửa cung, đòi yết kiến Tề Tuyên Vương. Tề Tuyên Vương sai sứ giả ra mời vào, Vương Đẩu bảo (sứ giả nói lại):
- Đẩu tiến tới trước để ra mắt vua, là Đẩu thích quyền lợi; vua tiến tới trước để đón Đẩu là vua chuộng kẻ sĩ; ý vua ra sao?
Sử giả trở vô báo Tề Tuyên Vương, vương bảo:
- Phiền tiên sinh đợi một chút, quả nhân xin ra đón!
Tề Tuyên Vương bèn tiến ra cửa cung để đón Vương Đẩu rồi cùng vô. Vương bảo:
- Quả nhân được kế thừa tôn miếu của tiên vương mà giữ gìn xã tắc, nghe tiếng tiên sinh nói ngay can thẳng mà không kiêng nể.
Vương Đẩu đáp:
- Lời đồn đó quá. Đẩu sinh ở đời loạn, thờ ông vua loạn, đâu dám nói ngay can thẳng.
Tuyên Vương có sắc giận, không vui. Được một lát, Vương Đẩu bảo:
- Xưa, tiên vương Hoàn Công chín lần hội họp chư hầu[502] khuông chính thiên hạ, được thiên tử phong đất, lập làm thái bá, nay sở thích của nhà vua có bốn điều giống tiên vương[503].
Tuyên Vương vui vẻ hỏi:
- Quả nhân ngu xuẩn, giữ nước Tề mà chỉ lo giữ không nổi, sao mà có được bốn điểm giống tiên vương?
Vương Đẩu đáp:
- Không phải vậy. Tiên vương thích ngựa, nhà vua cũng thích ngựa; tiên vương thích chó, nhà vua cũng thích chó; tiên vương thích rượu, nhà vua cũng thích rượu; tiên vương ham sắc, nhà vua cũng ham sắc, duy có điều tiên vương thích kẻ sĩ, nhà vua không thích kẻ sĩ
Tuyên vương hỏi:
- Đời này không có kẻ sĩ thì làm sao quả nhân mến kẻ sĩ được?
Vương Đẩu đáp:
- Đời này không có loài ngựa tốt kì lân, lục nhĩ, mà xe nhà vua cũng đã có đủ ngựa; đời này không có loài Đông Quách, tuấn lư[504] mà nhà vua cũng đã có đủ chó săn; đời này không có Mao Tường, Tây Thi mà trong cung nhà vua cũng đã đầy mỹ nhân. Chẳng qua nhà vua không thích kẻ sĩ, nếu thích thì lo gì không có kẻ sĩ.
Vua bảo:
- Quả nhân lo việc nước mà yêu dân, vẫn mong được kẻ sĩ để trị nước.
Vương Đẩu đáp:
- Nhà vua lo việc nước và yêu dân không bằng yêu một thước sa mỏng.
Vua hỏi:
- Ý muốn nói gì vậy?
Vương Đẩu đáp:
- Nhà vua sai người làm cái mũ thì không dùng kẻ tả hữu được sủng ái mà dùng một người thợ làm mũ, là vì đâu? Là vì người thợ đó biết làm mũ. Nay nhà vua trị nước Tề, hễ ai không phải là kẻ tả hữu được sủng ái thì nhà vua không dùng, cho nên tôi bảo rằng nhà vua yêu nước không bằng yêu một thước sa mỏng.
Tuyên Vương tạ lỗi, đáp:
- Quả nhân có tội với quốc gia.
Rồi lựa năm kẻ sĩ, cho làm quan. Nhờ vậy nước Tề rất bình trị.
7. TRIỆU UY HẬU HỎI THĂM NƯỚC TỀ – M176(Tề vương sử sứ giả)
Vua Tề (tên là Kiến) sai sứ giả qua thăm Triệu Uy hậu (vợ Triệu Huệ Văn Vương). Thư chưa mở, Uy hậu hỏi sứ giả:
- Năm nay được mùa không? Dân chúng không sao chứ? Nhà vua cũng không sao chứ?
Sứ giả không vui, bảo:
- Tôi phụng mệnh tới vấn an thái hậu, thái hậu không hỏi thăm vua trước mà hỏi thăm mùa màng và dân chúng trước, như vậy chẳng phải là hỏi thăm cái ti tiện trước, hỏi thăm ngôi tôn quí sau ư?
Uy hậu đáp:
- Không phải vậy. Không có mùa màng thì làm sao có dân? Không có dân thì làm sao có vua? Thế thì sao lại có cái lẽ bỏ gốc mà hỏi thăm ngọn trước.
Rồi lại hỏi thăm thêm:
- Tề có một vị xử sĩ là Chung Li Tử[505], ông ấy mạnh giỏi chứ? Ai có lương thực thì ông ấy giúp lương thực cho, ai không có lương thực thì ông ấy cũng giúp lương thực cho; ai có quần áo thì giúp quần áo cho, ai không có quần áo thì cũng giúp quần áo cho; như vậy là ông ấy giúp vua Tề nuôi dân, sao mà đến bây giờ vẫn không giao chức vụ gì cho ông ấy? Ông Diệp Dương Tử[506] mạnh giỏi chứ? Ông ấy là người thương xót những kẻ quan, quả, cô, độc, giúp đỡ những kẻ khốn cùng, thiếu thốn, như vậy là giúp vua Tề cứu vớt, an ủi nhân dân, sao mà đến bây giờ vẫn không giao chức vụ gì cho ông ấy? Cô Bắc Cung Anh Nhi Tử[507] mạnh giỏi chứ? Cô ấy lột hết cả trâm, vòng, ở vậy cho tới già để nuôi cha mẹ, như vậy là làm gương cho dân chúng, cảm hoá dân chúng giữ đạo hiếu, sao mà đến bây giờ không phong cho cô ta làm mệnh phụ! Hai vị sĩ đó không được nhận chức vụ gì cả, một cô gái hiếu hạnh đó không được phong làm mệnh phụ thì làm sao vua Tề trị được nước, nuôi nấng được muôn dân? Tử Trọng ở Ô Lăng[508] còn sống không? Hắn là người, trên thì không biết thờ vua, dưới thì không biết tề gia, ở giữa thì không biết kết giao với chư hầu, như vậy là thống suất nhân dân mà hoá ra vô dụng, sao mà đến bây giờ vẫn chưa giết hắn đi?
9. QUẢN YÊN TRÁCH KẺ SĨ – M176(Quản Yên đ