Chương 9 Nghi Binh Điện Tử Trong Chiến Dịch “Overlord”.
Trong cuộc đổ bộ Normandy có tên mã “Overlord”, đối kháng điện tử lần đầu tiên trong lịch sử, đã trở thành một phần hữu cơ của các kế hoạch chiến lược. REP, quả thật, đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất của toàn bộ kế hoạch chiến dịch, được các nước Đồng minh lập ra đối với một trong những chiến dịch quân sự khó khăn nhất trong lịch sử.
Việc đổ bộ có tầm quan trọng sống còn, nhưng thành công của nó không có nghĩa đã được xác định trước. Người ta biết rõ rằng giai đoạn quan trọng nhất của chiến dịch là khoảng thời gian binh sĩ từ tàu đổ bộ được đổ lên bờ. Giai đoạn này có thể kéo dài trong vài giờ, và nếu đối phương tập trung một cách cần thiết để tấn công các binh sĩ đang đổ bộ, kết quả có thể là một vụ thảm sát, vì binh sĩ cực kỳ dễ tổn thương khi phải “bám vào bờ”.
Vì vậy, Bộ Chỉ huy Liên quân Đồng minh coi cực kỳ quan trọng việc đánh lừa người Đức và che dấu địa điểm đổ quân đích thực, do đó, giữ chậm sự di chuyển lực lượng dự trữ chiến lược của họ đến khu vực có thể đổ bộ. Đã quyết định cố gắng thuyết phục người Đức rằng cuộc đổ bộ sẽ được thực hiện gần Calais, trong khi trên thực tế nó diễn ra trên bờ biển Normandy. Kế hoạch hoạt động điện tử đặc biệt phức tạp, tất nhiên, nó hoàn toàn bí mật. Nó được đưa vào vận hành chỉ trong một vài ngày trước Ngày X và bao gồm một sự kết hợp các hoạt động thực và giả.
Bờ biển Normandy, nơi quân Đồng Minh lựa chọn để tiến hành cuộc đổ bộ của mình, đã được tăng cường phòng thủ đáng kể cũng như toàn bộ bờ biển phía bắc châu Âu. Thống chế Von Rundstedt chỉ huy sáu mươi sư đoàn, là thành phần cơ hữu của cái gọi là Bức tường Đại Tây Dương – một hệ thống công sự trải dài từ Hà Lan đến Vịnh Biscay. Một thống chế nổi tiếng là Rommel chỉ huy các khu vực phòng thủ từ Hà Lan đến sông Loire.
Người Đức tất nhiên biết rằng các nước Đồng Minh đang lên kế hoạch xâm nhập châu Âu, và chắc chắn họ sẽ đổ bộ ở đâu đó trong miền Bắc Pháp. Von Rundstedt đã bị thuyết phục rằng họ sẽ đổ bộ ở Calais; còn Rommel, tuy nhiên, cho rằng cuộc đổ bộ sẽ diễn ra trên các bờ biển Normandy.
Ý kiến các nhà lãnh đạo Đức về địa điểm đổ bộ cũng phân tán. Sự khác biệt về quan điểm như trên gây ra bởi một số hành động có chủ ý của Đồng Minh để bắt người Đức tin rằng họ sẽ đổ bộ tại Calais.
Người Đức tất nhiên đã làm tất cả mọi thứ để gây khó khăn cho kế hoạch của quân Đồng minh, họ tiến hành một chiến dịch tuyên truyền ca ngợi khả năng bất khả xâm phạm của bức tường Đại Tây Dương. Trong một chương trình radio tháng 3 năm 1944, khoảng hai tháng trước Ngày X, họ cho rằng chuỗi radar của họ, trải dài dọc theo toàn bộ lãnh thổ cả nước Đức, hiệu quả đến mức bất kỳ máy bay hoặc tàu chiến nào của đối phương đều sẽ chịu sự giám sát liên tục. Và, khi có các phương tiện ấy, công cuộc phòng thủ nước Đức có thể vận hành với tốc độ vượt trội và đầy hiệu quả.
Đồng minh biết rằng người Đức đã lắp đặt dọc theo bờ biển phía bắc Pháp ít nhất 120 Radar để phát hiện các đoàn công-voa của Anh trong eo biển La Manche và chỉ huy xạ kích cho các khẩu đội pháo binh phòng thủ bờ biển. Với sự trợ giúp của trinh sát ảnh và điện tử, họ biết tất cả về toàn bộ chuỗi trạm radar của Đức, bao gồm các trạm radar cách nhau ở cự ly 16 km. Còn trên một số đoạn bờ biển chúng bố trí cách nhau 800 mét.
Các chuyên gia Anh về thiết bị điện tử từ trước đã bắt đầu phát triển các biện pháp đối kháng cụ thể. Họ chọn đoạn dài nhất của bờ biển Scotland, giống bờ biển Normandy, dựng tại đó 3 trạm radar Đức chiến lợi phẩm, thuộc ba loại chính của hệ thống radar bảo vệ bờ biển Normandy. Mỗi ngày, máy bay, tàu chiến và tàu đổ bộ được trang bị các thiết bị chiến tranh điện tử đã thực hiện đổ bộ tập dượt trên bờ biển Scotland. Các sĩ quan-chuyên gia tác chiến điện tử với tư cách quan sát viên, xác định xem các “chiến lợi phẩm” phát nhiễu radar của đối phương ra sao. Kết quả của những bài diễn tập được biên soạn một danh sách chi tiết các yêu cầu đối với các thiết bị lắp trên tàu chiến và máy bay phải tham gia vào cuộc xâm nhập. Mỗi phi công và hoa tiêu được hướng dẫn rõ ràng về những gì anh ta nên làm vào Ngày X.
Kế hoạch này dựa trên hai hoạt động chính. Đầu tiên là chế áp các trạm radar Đức ở khu vực Normandy, để ngăn chặn sự phát hiện các lực lượng hải quân đang đến gần. Hoạt động thứ hai bao gồm việc đánh lạc hướng các trạm radar Đức ở khu vực Calais bằng việc mô phỏng sự hiện diện của một lực lượng hải quân lớn đang đến gần Calais. Các biện pháp hỗ trợ khác được lên kế hoạch phối hợp chặt chẽ với hai hoạt động lớn này. Với mục đích phao tin đồn nhảm, trong khu vực Dover bắt đầu chương trình phát sóng giả công suất lớn để tạo ấn tượng trong khu vực này đang tập trung quân đội, sẵn sàng xâm nhập vào khu vực Calais. Các điệp viên lan truyền tin đồn và các thông điệp giả để tiếp tục gây nhầm lẫn về vấn đề này. Quân đội đã được tập trung ở một khu vực khác, và cuối cùng, liên lạc vô tuyến của đối phương bắt đầu bị gây nhiễu liên tục.
Việc đổ bộ được dự kiến bắt đầu vào 06:30 ngày 06 tháng 6. Trong đêm từ ngày 05 sang ngày 06 Tháng Sáu, một hạm đội khổng lồ khoảng 2.700 tàu thuyền các loại với hàng trăm ngàn người trên tàu, nhổ neo tại các cảng khác nhau ở phía tây nam nước Anh và từ từ di chuyển đến bờ biển Normandy. Đồng thời, hai mươi máy bay được trang bị thiết bị làm nhiễu Mandrel công suất lớn, bay dọc theo bờ biển phía nam nước Anh, trên độ cao khoảng 6.000 mét, ngụy trang che dấu sự hiện diện của các tàu đang tiếp cận trước các trạm radar của Đức trên bờ biển Normandy.
Gần như đồng thời, một số phân hạm tàu cỡ nhỏ có các tấm kim loại đặc biệt, kéo theo các phao và bóng thám không tráng kim, rời các cảng khác nhau gần Dover, nhằm mô phỏng các tín hiệu phản xạ tương đương với các tín hiệu của các tàu chiến lớn. Ngay sau đó, một số máy bay bay qua đầu chúng, thả một lượng lớn PRLO Window để tạo ấn tượng về việc một đoàn công-voa tàu biển đang tiếp cận bờ biển nước Pháp gần Calais.
Ngay sau khi đến giờ đổ bộ, cùng một lúc, tất cả các thiết bị chiến tranh điện tử trên các tàu đều được bật lên, tạo ra nhiễu đủ để vô hiệu hóa hiệu quả của radar kiểm soát hỏa lực pháo binh Đức.
Tất cả mọi thứ diễn ra theo đúng kế hoạch, và cuộc đổ bộ Normandy được Đồng minh kết thúc hoàn toàn thắng lợi. Kế hoạch tác chiến điện tử được lập nên một cách hiệu quả đã đảm bảo ngăn ngừa việc đưa vào hoạt động các đơn vị dự trữ chiến lược của người Đức cho đến khi quân Đồng minh đã chiếm xong bàn đạp một cách thuận lợi. Quân Đồng minh không bị thiệt hại, vì va chạm với các lực lượng chính của quân Đức đã không xảy ra trong suốt thời gian đổ bộ. Sự nhầm lẫn gây ra bởi các chiến dịch điện tử của quân Đồng minh tiếp tục cả vào ngày hôm sau khi đổ bộ, buộc chính phủ Đức, bao gồm cả Hitler, đi đến các sai lầm nghiêm trọng trong việc đánh giá tình hình và đưa ra quyết định không chính xác.
Sự thành công của các ứng dụng đối kháng điện tử trong cuộc xâm nhập Normandy được thể hiện tốt nhất trong những lời của Winston Churchill:
“Những nỗ lực của chúng tôi để đánh lạc hướng, trước và sau Ngày X, được lập kế hoạch để gây nhầm lẫn trong việc ra quyết định, thành công của các biện pháp đó là tuyệt vời và hệ quả của nó ảnh hưởng đến quá trình cuộc chiến trong suốt một thời gian dài”.