Chương 10 Tác Chiến Điện Tử Trên Không Gian Chiến Trường Địa Trung Hải.
Nói chung, tác chiến điện tử trên không gian chiến trường Địa Trung Hải chưa bao giờ đạt đến tầm mức của Trận chiến Anh quốc hoặc các trận chiến trên Đại Tây Dương. Tuy nhiên, tại một số giai đoạn của chiến tranh, radar đóng một vai trò rất quan trọng. Ví dụ, trong trận chiến giữa các lực lượng hải quân Anh và Ý, sau khi Ý tuyên bố chiến tranh ngày 10 Tháng Sáu năm 1940.
Nhiệm vụ chính của hạm đội Anh ở Địa Trung Hải, đóng căn cứ chủ yếu trong cảng Alexandria Ai Cập, là giữ tuyến đường biển công khai với Man-ta – một căn cứ hải quân và không quân trọng yếu. Hải quân Ý, đến lượt họ, phải duy trì tuyến hàng hải công khai với Libya, Albania và Eritrea để cung cấp cho quân đội của họ mọi thứ cần thiết.
Đương nhiên, cả hai hạm đội đều có nhiệm vụ ngăn chặn việc kẻ thù đạt được các mục tiêu của mình. Để làm điều này, mỗi bên dành cả ngày lẫn đêm mở một số lượng lớn các chiến dịch hải quân, cố gắng bảo vệ đoàn công-voa của mình và tấn công đoàn công-voa của đối phương.
o O o
Như chúng ta đã biết từ các chương trước, ngay trước khi bùng nổ Thế chiến 2, các nghiên cứu và phát triển bí mật về radar đang được tiến hành ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Anh và Ý. Tuy nhiên, trong khi ở Ý radar vẫn còn ở giai đoạn mô hình thử nghiệm (vì những lý do đã nói ở trên), thì ở Anh người ta đã bắt đầu sản xuất hàng loạt, và đã được tiếp nhận vào biên chế trang bị, chủ yếu là do yêu cầu cấp bách của công tác phòng không.
Vào tháng Chín năm 1939, khi cuộc chiến tranh bắt đầu, ở Anh đã có cuộc vận động công nghệ và công nghiệp lớn, dẫn đến việc áp dụng các trạm radar đầu tiên. Chúng tỏ ra rất hữu ích. Trong Trận chiến nước Anh chúng đã phát hiện ra các máy bay Đức vào ban đêm và trong điều kiện tầm nhìn kém trên một cự ly lớn hơn nhiều so với mắt thường không thiết bị có thể cho phép.
Tuy nhiên, trong thời gian những cuộc giao tranh đầu tiên giữa 2 hạm đội trong suốt mùa hè năm 1940 (trận Punta Stilo ngày 09 tháng 7 năm 1940 và Cape Spada ngày 19 tháng 7 năm 1940), người Ý đã có những ý kiến mạnh mẽ rằng người Anh không có radar trên tàu của họ. Quan sát này, tuy nhiên không dẫn đến hành động nào và không khiến nhà chức trách Ý tăng tốc độ thử nghiệm mẫu radar tại Viện nghiên cứu của Học viện Hải quân Livorno. Thay vào đó, họ quyết định sử dụng một số ít các chuyên gia họ hiện có về ngành điện tử vào các công việc khác nhau mà họ coi là cấp bách hơn.
Vào tháng Giêng năm 1941, quân đoàn không quân Đức X CAT (quân đoàn không quân X) đang hoạt động cực kỳ hiệu quả, bước vào tham chiến trên Địa Trung Hải, để hỗ trợ cho lực lượng quân đội phe Trục. X CAT đến Sicily vào giữa đợt hoạt động của một chiến dịch quan trọng bằng hải quân và không quân của người Anh là “Excess”, nhằm cung cấp hậu cần cho Malta. Vào đêm trước chiến dịch quan trọng này của hạm đội Ý, các điện đài viên Đức đã được phái đến chiếc kỳ hạm Ý để đảm bảo thông tin liên lạc vô tuyến với X CAT. Như chúng ta sẽ thấy về sau, điều này dẫn đến những hậu quả không mong muốn cho Hạm đội Ý.
Một đoàn công-voa Anh từ Gibraltar ra khơi, trong sự hộ tống của 16 tàu chiến, ít nhất 5 trong số đó có radar trên tàu. Trong eo biển Messina một hải đoàn tàu chiến tiến từ Alexandria ra nhập đội hình với họ, hải đoàn quân sự này gồm 1 thiết giáp hạm, các tuần dương hạm và khu trục hạm, hai tuần dương hạm đến từ biển Aegean, cũng như các chiến hạm “Southampton” và “Gloucester”, không tàu nào trong số đó có trang bị radar.
Đoàn công-voa Anh và đoàn chiến hạm hộ tống bị tấn công liên tục bởi lực lượng không quân và hải quân Ý cùng máy bay Đức thuộc X CAT. Điều tồi tệ hơn cả đã xảy đến với các tàu chiến Anh “Southampton” và “Gloucester”. Không có radar trên tàu, họ đột nhiên bị hàng chục chiếc máy bay mà họ không thể phát hiện tiếp cận và ném bom. “Southampton” bị hư hỏng nặng đến mức người ta phải đánh đắm, còn “Gloucester” mặc dù bị thương, vẫn đến được Malta.
Sau những sự kiện trên, nhu cầu về radar đã được coi là hết sức quan trọng như một phương tiện để phát hiện máy bay địch đang đến gần. Ngày càng có nhiều tàu chiến Anh được trang bị radar và hạm đội Ý đã sớm bắt đầu cảm thấy tác động của chúng. Trong thời gian bắn phá Genoa của một đơn vị hải quân Anh, đóng căn cứ tại Gibraltar, diễn ra vào tháng 2 năm 1941, các tàu chiến Anh đã có thể phát hiện các máy bay trinh sát Ý trước khi máy bay phát hiện trực quan được tàu chiến. Vì vậy, các tàu chiến có thời gian để thay đổi hướng cho đến khi tiêm kích cất cánh lên đánh chặn.
Trong trận Cape Matapan, xảy ra vào đêm ngày 28 Tháng Ba năm 1941, người Anh đã có thể nhờ sự trợ giúp của radar mà chặn đánh được một đơn vị hải quân Ý gồm ba tàu tuần dương độ choán nước 10.000 tấn, bốn tàu khu trục ở cự ly lớn hơn tầm tối đa phát hiện trực quan vào ban đêm.
Tối 27 tháng 3, Đô đốc Cunningham, Tư lệnh Hạm đội Địa Trung Hải Anh quốc, được thông báo về cuộc tấn công sắp xảy ra của hạm đội Ý vào đoàn công-voa tàu buôn đang đi về hướng Hy Lạp, và ông ra lệnh cho một đơn vị hải quân, bao gồm một tàu sân bay, ba thiết giáp hạm, bốn tuần dương hạm và chín khu trục hạm đến trợ giúp. Chỉ có ba trong số các tàu trên – tàu sân bay “Formiddable”, thiết giáp hạm “Valiant” và tuần dương hạm “Ajax” có radar trên tàu. Đó là loại radar 279, nhiệm vụ chủ yếu để theo dõi trên khoảng cách lớn các mục tiêu trên không và hướng dẫn tiêm kích đến chặn chúng.
Buổi tối ngày 26 tháng 3, cùng với các điện đài viên người Đức trên tàu, đơn vị hải quân Ý rời cảng. Nhiệm vụ của các điện đài viên là đảm bảo tiếp xúc vô tuyến điện cần thiết với X CAT Đức, vì Bộ chỉ huy quân đội Ý yêu cầu. Cả hải đoàn Anh và Ý đều hướng tới đảo Crete và họ đến đó vào ngày 28 cùng tháng.
o O o
Nhiều cuộc cơ động của các hạm đội thực hiện ngày hôm đó, vượt quá phạm vi của cuốn sách này, được giới hạn trong câu chuyện về các thực tế và sự kiện liên quan đến trận chiến ban đêm ngoài khơi Cape Matapan, trong đó radar đóng vai trò chi phối.
Lúc 20:15 ngày 28 tháng 3, radar trên tàu tuần dương Anh “Ajax” – một trong các tàu của hải đoàn, bao gồm các thiết giáp hạm “Warspite”, ” Valiant” và ” Barnham” và tàu sân bay “Formiddable”, nhận thấy trên màn hình radar của mình về bên trái hướng tàu có một vật gì ở cự ly khoảng 10 km. Đô đốc Pridham-Vippell, chỉ huy đơn vị tàu tuần dương, chỉ báo cáo về tiếp xúc radar với Tư lệnh của ông và tiếp tục đi theo hướng cũ. Đô đốc Cunningham, đang ở trên tàu “Warspite” quyết định đi bằng cả hải đoàn, và tìm hiểu tiếp xúc radar đó là gì.
Khoảng một giờ sau, “Valiant” thiết lập được tiếp xúc radar với một tàu lạ dường như đang thả trôi ở khoảng cách 10 km. Nó duy trì tiếp xúc radar cho đến khi chưa đến gần tàu lạ ở khoảng cách khoảng 7000 mét và chưa nhìn thấy con tàu trôi. Đồng thời, “Warspite” – tàu kỳ hạm, đi bên trái của “Valiant”, đột nhiên nhìn thấy hai tuần dương hạm lớn của kẻ thù, đang thả trôi trên gần như đúng hướng các thiết giáp hạm Anh. Radar “Valiant” ngay lập tức hướng đến những mục tiêu mới và xác định cự ly – 8500 mét. Theo các dữ liệu này, ba thiết giáp hạm chĩa đại bác vào chúng. Các thiết giáp hạm Anh đều đặn tới gần, cho đến khi họ cách các mục tiêu khoảng 2.500 mét. Tại thời điểm này khu trục hạm hạng nhẹ “Greyhound” đang đi hộ tống thiết giáp hạm, chĩa sang hai tàu những chiếc đèn chiếu công suất lớn của nó. Chúng là các tàu “Zara” và “Fiume”. Chúng đến trợ giúp tàu “Pola” đang trôi, nó trúng một quả ngư lôi thả từ máy bay-phóng ngư lôi. Các thiết giáp hạm Anh khai hỏa pháo chính. Sau hai hoặc ba phút từ “Zara”, “Fiume” và các tàu khu trục “Alfieri” và “Carducci” bay ra các mảnh kim loại nóng cháy. Tuy nhiên, bất chấp cuộc tấn công chớp nhoáng, “Alfieri” bằng cách nào đó đã có thể tiếp cận gần lại đối phương và dưới vỏ bọc của màn khói nó khai hỏa, buộc các thiết giáp hạm Anh rút lui. Trong đêm, 4 tàu Ý bị chìm, còn “Pola” biến mất khỏi tầm nhìn của hải đoàn vào lúc bình minh, nó được tiễn đưa xuống tận đáy biển bằng các trái ngư lôi phóng từ các tàu khu trục Anh “Jervis” và “Nubia”.
Đêm đó chết trận có đô đốc Cattaneo – Tư lệnh hạm đội Ý, thuyền trưởng của một số tàu và phần lớn các thủy thủ đoàn.
o O o
Tiếp theo trận Cape Matapan là các sự kiện bi thảm khác, chúng là kết quả sự yếu kém của ngành công nghiệp Ý. Mặc dù mệnh lệnh khẩn trương sản xuất năm mươi radar Gufo cho tàu chiến Hạm đội Hải quân Ý, ngành công nghiệp Ý không nắm được bí quyết sản xuất các linh kiện điện tử quan trọng, chẳng hạn như ống tia điện tử, mà người Mỹ đã cung cấp ở dạng mẫu thử nghiệm. Vì vậy, việc sản xuất các hệ thống radar trên đã bị đình chỉ.
Trong vòng vài tháng, người Anh, mà vào thời gian này đã có được những kinh nghiệm to lớn về xạ kích đêm dưới sự điều khiển của radar, trên thực tế, không mấy khó khăn trong việc tấn công các đoàn công-voa Ý đi đến các cảng Bắc Phi.
Một trong những thảm kịch ban đêm như vậy xảy ra đêm 26 tháng 7 năm 1941, khi các tàu phóng lôi Ý có một nỗ lực táo bạo vượt qua tuyến phòng thủ cảng Valletta ở Malta. Một radar nhỏ, lắp đặt trên hòn đảo này, phát hiện ra các tàu phóng lôi Ý đang tiến tới ở cự ly khoảng 32 km. Các tàu Ý đi thẳng đến trước đại đội pháo bảo vệ bờ biển sẵn sàng chiến đấu, đang chĩa nòng đại bác chính xác vào chúng và khai hỏa.
Trong khi Hải quân Ý chờ đợi việc sản xuất radar Gufo, nước Đức cho họ mượn RWR Metox, đã được chứng minh là rất có giá trị ở Đại Tây Dương. Người ta lắp chúng trên các tàu chiến lớn của Ý, trên các tàu khu trục hộ tống đoàn công-voa và các tàu ngầm. Ngoài ra, trên các tàu vận tải khác nhau cũng trang bị các radar khác, chẳng hạn như radar De Te mẫu Fu.Mo.24/40G, có tầm phát hiện khoảng 20-25 km. Máy thu Metox ngay lập tức chứng tỏ giá trị của nó. Nhờ khả năng phát hiện bức xạ điện từ của radar kẻ thù, người Ý có được khả năng kịp thời làm công tác chuẩn bị cần thiết để đẩy lùi các cuộc tấn công bất ngờ.
Nếu như người Ý kích thích sự phát triển của hệ thống TCĐT, khi đó các chiến dịch ở Địa Trung Hải, không nghi ngờ gì nữa, sẽ có kết quả hoàn toàn khác. Việc lắp đặt trên quy mô lớn RWR, như đã đề cập trong các chương trước, có tầm phát hiện lớn hơn so với radar thông thường, sẽ cho phép họ phát hiện kẻ thù trước khi người Anh tìm ra họ và sau đó chế áp radar của họ. Việc bị tiêu diệt hoàn toàn trong biển Aegean, ngoài khơi Cape Matapan, hy sinh 2.300 thủy thủ, chính là cái giá mà người Ý phải trả cho việc thiếu các thiết bị chiến tranh điện tử cho phép họ tránh trận chiến chết người này.
Khi những radar Gufo đầu tiên rốt cuộc cũng được lắp đặt trên các tàu chiến Ý, chuyện đã quá muộn; Ý đã thua trong chiến tranh. Bài học rút ra từ những sự kiện này cho thấy hệ thống mẫu radar thử nghiệm và các trang thiết bị tác chiến điện tử khác vẫn sẽ như vậy, nếu các nghiên cứu không được hỗ trợ bằng sự phát triển cần thiết của ngành công nghiệp điện tử làm chủ được các công nghệ mới nhất và khả năng sản xuất hàng loạt các linh kiện thành tố. (Ngày hôm nay, dĩ nhiên, ngành công nghiệp Ý đã là một trong những ngành tiên tiến nhất trên thế giới trong lĩnh vực tác chiến điện tử.)
o O o
Trong các chiến dịch đường không ở Địa Trung Hải, radar và tác chiến điện tử đóng vai trò khá khiêm tốn trong những năm đầu chiến tranh. Không quân Ý (Regia Aeronautica) khác với Luftwaffe trong Trận chiến Anh quốc, không cảm thấy bất kỳ nhu cầu cấp thiết nào về các thiết bị dẫn đường vô tuyến để hướng dẫn cho các máy bay ném bom của họ. Ngoài ra, đảo Man-ta, trên đó vỏn vẹn chỉ có một số máy bay lỗi thời của Anh, không được họ coi là mục tiêu ưu tiên.
Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi vào năm 1942, khi đảo Malta trở thành trở ngại cho vận tải đường biển của phe Trục, vốn phải đảm bảo cung cấp hàng đến các cảng Bắc Phi. Thiếu radar và thiết bị điện tử là sự việc có tác động lớn đến thành công của các vụ ném bom hòn đảo này của các quốc gia phe Trục.
Việc loại bỏ các radar cảnh báo sớm của Anh trên đảo Malta được coi là ưu tiên cao nhất của Bộ Tư lệnh tối cao Ý, đặc biệt là dưới dạng một cuộc xâm nhập được lập kế hoạch lên hòn đảo. Thiết bị được thiết kế và phát triển bởi Viện nghiên cứu công nghệ vô tuyến điện Không lực Ý tại Guidoni, gần Rome, với sự phối hợp của Lục quân và Hải quân, dưới sự lãnh đạo của Giáo sư Latmirala, là rất độc đáo, rất mới và là sự hợp nhất cùng nhau của máy thu và máy phát nhiễu. Nó được xây dựng, theo một sơ đồ siêu phản ứng được phổ biến rộng rãi thời đó, mà bây giờ không còn được sử dụng nữa do những khó khăn của việc điều khiển nó chính xác và xu hướng gây nhiễu rất mạnh cho binh sĩ quân mình ở bên cạnh thiết bị. Chính khả năng tiêu cực đó của sơ đồ đã được giáo sư Latmirala sử dụng để tạo ra tiếng ồn ở tần số hoạt động của radar đối phương, nhưng với tần số lặp lại xung khác nhau để chế áp máy thu. Những thiết bị gây nhiễu đầu tiên làm việc tại tần số 170-220 MHz và bức xạ công suất từ 10-20 watt.
Máy thu-phát nhiễu của giáo sư Latmirala được sử dụng trong các chiến dịch quân sự trong một giai đoạn ngắn, vì ngày 08 tháng 9 năm 1943 Ý đã ký thỏa thuận ngừng bắn. Do đó, nó ít có tác động đến kết quả của cuộc chiến tranh ở Địa Trung Hải, nơi máy bay Ý phải hoạt động mà không có radar và thiết bị bảo vệ họ khỏi radar Anh. Để giúp đồng minh Ý của mình, người Đức phái đến Bắc Phi quân đội và xe tăng của họ. Đồng thời, họ bắt đầu đặt radar của họ lên chính lãnh thổ nước Ý, cũng như các hải đảo của nó, nhưng giữ bí mật với bản thân người Ý; số lượng các hệ thống radar được lắp đặt ở Ý, chủ yếu là mẫu Freya và Wurzburg, đã dần dần tăng lên.
Khi thảo luận về vấn đề cuộc xâm nhập của Đồng minh lên Sicily, đã quyết định rằng đầu tiên cần biết nhiều hơn về các radar Đức được bố trí ở phía nam Ý. Để thực hiện nhiệm vụ trinh sát điện tử đã sử dụng máy bay ném bom Wellington của Không quân Hoàng gia, được trang bị máy thu RWR. Bay ở độ cao thấp, họ cố gắng để thu một tín hiệu radar mạnh, và khi họ bắt được một trong số tín hiệu đó, họ bay về phía nguồn phát của nó, để tìm hiểu xem cường độ của tín hiệu có tăng lên không. Như thế, họ đã có khả năng xác định các tọa độ hoặc ít nhất là hướng của radar. Các chuyến bay như vậy rất nguy hiểm, vì thường xuyên máy bay ném bom Wellington phải bay rất gần với radar và chịu một mối nguy hiểm chết người là bị bắn hạ bởi lưới lửa của các khẩu đội pháo PK. Tuy nhiên, các máy bay ném bom Wellington đã phát hiện được gần như tất cả các trạm radar của Đức ở Sicily và miền Nam nước Ý, thậm chí bất chấp thực tế là trên máy bay không có máy vô tuyến tầm phương.
o O o
Vào cuối năm 1942, để thay thế các máy bay ném bom chậm chạp và lỗi thời Wellington, các máy bay hiện đại hơn và được trang bị tốt hơn đã được triển khai đến từ Mỹ. Đó là máy bay ném bom bốn động cơ B-24 Liberator. Trong thành phần phi hành đoàn của nó có các chuyên gia dân sự về trinh sát điện tử để bảo dường thiết bị thu nhận trên máy bay. Để tránh bị phát hiện từ mặt đất trong thời gian các chuyến bay đêm, các máy bay được sơn màu đen, còn các ống xả của động cơ được che bằng các bầu dập lửa. Tại phần đuôi của chúng có gắn ăng-ten RWR, được điều chỉnh trước theo tần số radar máy bay tiêm kích đánh đêm của Đức. Khi phát hiện bức xạ radar máy bay tiêm kích Đức, trên bảng điều khiển của máy bay, đèn cảnh báo màu đỏ sẽ cháy sáng. Để xác định hướng đến của các tín hiệu trạm mặt đất, trên mỗi đầu cánh phi cơ B -24 người ta lắp hai ăng-ten của máy thu radar; chúng được điều chỉnh theo tần số của radar Freya và Wurzburg. Khi chặn tín hiệu radar, trắc thủ vận hành có thể nghe thấy trong tai nghe tần số lặp của xung radar đối phương. Sau đó, anh ta ra lệnh cho phi công cơ động B-24 cho đến khi nào âm lượng các xung từ hai máy thu còn chưa như nhau. Điều này có nghĩa là bây giờ B-24 sẽ bay thẳng tới radar và bằng cách đó các trắc thủ vận hành có thể xác định với độ chính xác vừa đủ phương vị của nó. Tuy nhiên, phương pháp này không phải là không có nhược điểm. Nó không cho độ chính xác đủ để định vị radar, cũng có nghĩa là máy bay phải bay quá gần với radar với việc tiếp theo là phạm vào khu vực diệt mục tiêu của các khẩu đội pháo cao xạ của hệ thống phòng không.
Những vấn đề trên đã được giải quyết sau khi lắp đặt trên máy bay ném bom B-24 những bộ tầm phương vô tuyến đầu tiên. Các thiết bị này có thể xác định hướng tới của bức xạ điện từ của radar. Sau việc đó, B -24 không còn cần phải bay vào hướng các trạm radar của Đức để lấy phương vị của chúng; chỉ cần bay song song với bờ biển, và qua những khoảng thời gian xác định đều đặn lấy phương vị radar. Tiếp sau đó, vị trí của radar được xác định bằng phương pháp tam giác.
Với sự trợ giúp của phương pháp này, quân Đồng minh đã có thể xác định không chỉ tọa độ của tất cả các trạm radar của Đức tại Ý, mà còn cả các trạm thiết lập dọc bờ biển phía nam nước Pháp. Tầm quan trọng của phát hiện này được đánh giá cao trong cuộc đổ bộ của Đồng Minh lên Sicily – vào Salerno và Provence. Trước mỗi chiến dịch họ ném bom hệ thống radar ven biển, mà nếu không sẽ cảnh báo người Đức về việc họ đang đến gần.
Tuy nhiên, vào tháng Chín năm 1943, mặc dù tất cả các biện pháp phòng ngừa, các nước Đồng minh phải đối mặt với một thách thức mới không lường trước trong lĩnh vực EW. Người Đức đã phát minh ra một vũ khí chống hạm mới khủng khiếp – bom công phá cao có động cơ tên lửa, dẫn đường bằng cô tuyến đến mục tiêu từ máy bay-vật mang. Bom được gọi là Henschel Hs293, được dẫn với trợ giúp của hệ thống điều khiển vô tuyến bốn tần số từ trên máy bay ném bom Junkers Ju88 và Heinkel He177; khi gửi tín hiệu vô tuyến điều khiển các bánh lái lệch gắn trên thân bom, trắc thủ vận hành trên máy bay có thể điều khiển đường bay của nó.
o O o
Bằng chứng về độ chính xác và sức mạnh hủy diệt rất lớn của quả bom mới mang tính cách mạng là một sự kiện đã diễn ra ở Địa Trung Hải. Ngày 09 tháng 9 năm 1943, một ngày sau khi giữa Ý và các nước Đồng minh ký kết thỏa thuận ngừng bắn, hạm đội hải quân Ý bao gồm ba thiết giáp hạm có độ choán nước 35.000 tấn mỗi tàu: “Roma”, “Vittorio Veneto” và “Italia”, sáu tàu tuần dương và hai nhóm tàu khu trục, phóng hết tốc lực về cảng La Maddalena ở Sardinia. Ngay sau khi nhìn thấy đảo Asinara, các tàu đổi hướng 45 độ vào cảng ở cửa sông La Maddalena. Nhưng khi họ vừa mới vượt qua eo biển Bonifacio, từ Supermarine – Bộ Chỉ huy tối cao Hải quân ở Rome, nhận được điện vô tuyến, thông báo cảng La Maddalena đã bị người Đức chiếm đóng. Do đó, họ được lệnh đổi hướng và đi về cảng Beaune của Tunisia.
Trong khi các tàu Ý quay hướng và một lần nữa ra khơi, người Đức, không nghi ngờ gì nữa, đã chặn và giải mã thông điệp của người Ý, họ ngay lập tức cho máy bay của họ cất cánh lên không trung để ném bom tàu chiến Ý. Trên tất cả các tàu chiến người ta nhận ra rằng máy bay ném bom Junkers đã thả những quả bom với động cơ tên lửa được điều khiển bằng radio, vì điều này được thực hiện ở tốc độ cao hơn so với bom thông thường và chúng rơi thẳng vào mục tiêu. Hai quả bom trúng chiếc thiết giáp hạm “Roma” – kỳ hạm của hạm đội, gây thiệt hại nghiêm trọng cho nó đến mức con tàu vỡ làm đôi và chìm với gần như toàn bộ thủy thủ đoàn.
Một vài ngày sau đó, ngày 14 (11?) tháng 9 năm 1943, trong cuộc đổ bộ của Đồng Minh tại Salerno, bom mới tái áp dụng đã tàn phá thiết giáp hạm Anh “Warspite” và tàu tuần dương Mỹ “Savannah”. Các thủy thủ đoàn của cả hai tàu báo cáo rằng các quả bom thả từ máy bay ném bom Đức, xét theo hành vi của chúng, được điều khiển bằng sóng radio.
o O o
Bộ Tư lệnh tối cao Hải quân Anh và Mỹ cực kỳ lo lắng về độ chính xác của bom mới, họ ngay lập tức triệu tập các chuyên gia kỹ thuật từ các quốc gia của họ lại để cố gắng tìm cách đối phó với mối đe dọa mới.
Ý tưởng đầu tiên đến với họ là trên các tàu của Đồng minh hoạt động ở Địa Trung Hải sẽ lắp các máy thu đặc biệt; chúng sẽ thu, ghi và phân tích các tín hiệu sóng điện từ phát ra từ máy bay đang ném bom và tiếp theo đó là lái bom. Điều đó sẽ phải làm vào thời điểm tàu đang bị tấn công, và các quả bom đang được lái thẳng vào họ – đây không phải là chuyện đùa!
Sau một thời gian, quân Đồng minh may mắn chiếm được một trong những trái bom Hs-293, thả rơi vào vùng nước ven biển Libya mà không phát nổ. Nghiên cứu kỹ lưỡng trái bom và phân tích các bức xạ chặn được cho thấy hai trong số bốn tần số dẫn đường tên lửa là cao hơn dải tần số có thể nghe được và cao hơn tần số có thể ghi lại được bằng thiết bị khi đó đang sử dụng. Trong khi các máy thu-ghi mới có khả năng phát hiện các tần số cao như vậy được vội vã chế tạo, hiểu biết về nhiệm vụ của hai tần số khác đã đủ để thiết bị điện tử gây nhiễu ngẫu nhiên “làm mù” hệ thống này của đối phương. Các mẫu đầu tiên của thiết bị đã được lắp đặt trên các tàu khu trục Mỹ “Davis” và “Jones” và đã gây nhiễu thành công cho các hệ thống dẫn đường vô tuyến của bom Đức.
Sau đó, các chuyên gia phát hiện ra rằng hai tần số không nghe được chỉ đơn giản là các tần số siêu âm và bốn tần số chỉ đơn giản là các lệnh cơ động “lên cao”, “xuống thấp”, “sang phải” và “sang trái”. Sau phát hiện này, các nước Đồng minh đã có thể can thiệp vào việc điều khiển, thông qua việc truyền các lệnh giả, đánh lệch quả bom nguy hiểm chết người ra khỏi hướng bay của nó. Một khi quân Đồng minh đã tạo ra được máy gây nhiễu có khả năng làm việc này, không tàu nào trong số các tàu của họ còn bị trúng các trái bom điều khiển bằng radio, và loại bom trên cũng không được đối phương sử dụng nữa, sụ hữu dụng của nó cũng trôi qua rất nhanh!