Chương 7
Sáng ngày 22 tháng giêng Fusako cùng đi với Ryuji đến gặp ông Thị trưởng thành phố Yokohama nhờ ông đóng vai trò ông mai dong trong tiệc cưới của họ. Ông ta nói rất làmvui thích được đóng vai trò đó.
Trên đường về, hai người còn đến thương xã Isezaki đặt in thiếp mời dự tiệc, còn chính bữa tiệc thì đã đặt trước ở New Grand Hotel rồi. Sau bữa trưa ăn sớm hơn thường lệ một chút, họ trở về hiệu Rex.
Quá trưa, Ryuji rời cửa hiệu về sớm vì có buổi hẹn mà ban sáng chàng đã nói chuyện cho Fusako hay. Một người bạn đồng cấp ở Thương thuyền Cao học hiệu, bây giờ là Nhất đẳng sĩ quan hàng hải, đã cập bến tại cầu tàu Takashima vào sáng sớm hôm nay, muốn gặp lại chàng nhưng anh ta chỉ có thì giờ vào lúc quá trưa. Và vì Ryuji không thích gặp lại bạn cũ trong bộ quần áo đắt tiền may bằng hàng vải Anh quốc nên bảo chàng là trên đường đi đến bến tàu, chàng sẽ ghé về nhà, thay bộ quần áo đắt tiền bằng bộ quần áo đi biển ngày trước. Chàng không thích cho bạn cũ thấy sự đổi thay trong nếp sống của mình – ít nhất là trước khi làm lễ cưới.
“Này, đừng có để em phải lo là anh lên con tàu ấy rồi đi biến phương nào không ai hay nhé!” Fusako nói đùa trong khi tiễn chân chàng ra đến ngoài cửa hiệu.
Đêm hôm trước, làm ra vẻ cần nhờ chàng chỉ cho cách làm bài, Noboru đã gọi Ryuji vào phòng mình, sau đó mới thì thào nhờ vả một việc mà lúc này chàng đang thi hành một cách trọn vẹn.
“Ba ơi! Tất cả lũ bạn con đều đang khao khát được nghe Ba kể lại những câu chuyện hàng hải. Chúng con sẽ gặp nhau ở ngọn đồi bên trên bể bơi vào lúc 2 giờ chiều mai, sau khi tan học về. Đứa nào cũng mong được nghe Ba kể chuyện và con đã trót hứa với bọn nó là thế nào Ba cũng tới. Vậy thì Ba tới đó đi, Ba nhá! Có được không, Ba? Ba kể cho chúng nghe một vài câu chuyện. Và Ba sẽ mặc luôn cả bộ quần áo đi bể, đội cả mũ hàng hải ngày trước nữa, được không Ba? Có điều là phải tuyệt đối đừng cho má biết, Ba nhé! Ba có thể nói với má là đến gặp một người bạn cũ hoặc cái gì đại khái như thế, rồi rời cửa hiệu mà về thực sớm.”
Đó là lần đầu tiên Ryuji thấy Noboru cởi mở tấm lòng và nhờ cậy mình một việc nên chàng quyết định không phản bội lòng tin tưởng của thằng bé. Đó là nghĩa vụ của một người cha. Sau này có ai biết sự thực thì cũng chỉ đến cười trừ là cùng; bởi vì thế chàng đã bịa ra câu chuyện cho Fusako nghe dễ lọt tai rồi rời cửa hiệu, về nhà thực sớm.
Ryuji đang ngồi chờ trên đám rễ một cây kiên to lớn gần đỉnh đồi thì thấy bọn lỏi tì xuất hiện; lúc đó đúng 2 giờ chiều. Một thằng trong bọn mồm mép lém lỉnh với cặp lông mày cong vút như vầng trăng non mới mọc ba ngày và đôi môi đỏ chót, đã lễ phép cảm ơn chàng đã không quản mất thì giờ mà đến với bọn chúng, rồi nó nói là có một chỗ khác thích hợp hơn, đó là chỗ chúng vẫn gọi là cái bến tàu cạn của chúng. Nghĩ là chúng nó muốn đến một nơi khác gần hải cảng nên Ryuji bằng lòng đi theo liền. Bọn lỏi con hớn hở mừng rỡ, hết đứa này đến đứa khác chuyền tay nhau cái mũ hàng hải của Ryuji mà đùa bỡn đội thử xem sao.
Chiều hôm ấy là một chiều êm dịu giữa mùa đông. Ở chỗ có bóng mát thì lạnh lẽo nhưng ở chỗ có ánh nắng rọi qua một làn mây mỏng thì chúng không cần phải mặc áo khoác ngoài, Ryuji mặc chiếc áo len cổ lọ màu tro và tay mang chiếc áo chẽn ngắn, đầu đội chiếc mũ sĩ quan hàng hải. Sáu thằng nhóc con, kể cả Noboru, tay ôm cặp sách lăng xăng chạy xung quanh, lúc thì cầm đầu chạy trước, lúc thì lẽo đẽo theo sau. So với thiếu niên ngày nay thì vóc dáng chúng hơi nhỏ. Nhìn sáu thằng lỏi xôn xao quanh mình, Ryuji nghĩ đến sáu chiếc tàu kéo đang ì ạch kéo một tàu chở hàng ra biển. Chàng không nhận thấy là trong vẻ vui nhộn của chúng có đượm chút bất an cuồng nhiệt.
Thằng lỏi với cặp lông mày cong vút như mảnh trăng lưỡi liềm mới mọc ba ngày nói cho chàng hay là cả lũ sẽ cùng lên xe điện. Ryuji tuy ngạc nhiên nhưng thấy chẳng có gì đáng ngại nên cứ mủm mỉm đi theo. Chàng hiểu rõ, với những thiếu niên thuộc lớp tuổi bọn chúng, bối cảnh đóng vai trò câu chuyện. Lên xe điện rồi, cả bọn chẳng đứa nào có ý muốn xuống xe nữa, cho đến khi xe chạy đến cuối đường ở Sugita trong khu Isogo, mãi tít phía nam thành phố.
“Này các chú định lôi ta đi đến tận đâu vậy?” Chàng cất tiếng hỏi bao nhiêu lần, làm như thể là thích thú lắm lắm. Chàng đã chủ tâm chiều ý lũ nhóc, rong chơi suốt buổi với bọn nó cho nên dù thế nào nữa cũng cố khỏi lộ vẻ không vui ra ngoài mặt.
Cẩn thận giữ gìn không để cho ai để ý, Ryuji vẫn chăm chú theo dõi canh chừng Noboru khi thằng bé hả hê sung sướng len vào với lũ bạn. Ryuji lần đầu tiên nhận thấy ánh mắt dò hỏi trong đôi mắt sắc sảo của thằng bé. Thật chẳng khác gì nhìn qua khung cửa sổ tàu điện những hạt bụi màu cầu vồng nhảy múa trong ánh nắng mùa đông: cảnh giới ngăn cách Noboru với mấy đứa kia đã trở nên lu mờ và chàng không còn phân biệt được bọn chúng nó nữa. Điều đó lắm lúc tưởng như không thể có được, chẳng thể nào có được đối với một thằng bé khác hẳn bất kì một đứa thiếu niên nào – một thằng bé cô độc với cái thói quen lạ lùng hay nhòm trộm người lớn: Và Ryuji thấy mình có lí khi bỏ hẳn một buổi để làm vui lòng Noboru cùng lũ bạn nó. Chàng hiểu rằng làm như vậy là phải xét theo đạo đức của một người cha. Đa số các sách báo cùng tạp chí; đứng trên quan điểm giáo dục, đều đồng ý như vậy. Noboru đã tự ý tìm tới chàng và trong chuyến đi chơi này đã dọn đường cho một cơ hội không cầu mà được, để thắt chặt liên lạc giữa chàng và nó. Đây là một dịp may để cho người cha và đứa con trước kia vốn hoàn toàn xa lạ, gây dựng một niềm tin cậy lẫn nhau còn sâu xa, mạnh mẽ hơn là những liên hệ về máu mủ. Và vì Ryuji thừa sức để có con khi mới hai mươi tuổi nên chàng có nhận làm cha một thằng bé vào tuổi Noboru thì cũng chẳng có gì là lạ hết.
Khi xe điện chạy đến cuối đường thì tất cả đều xuống xe, bọn lỏi bắt đầu kéo Ryuji đi vể phía một con đường uốn khúc quanh dãy đồi. Chàng tỏ vẻ thích thú vặn hỏi:
“Ê! Khoan một chút đã nào! Ta chưa bao giờ nghe thấy nói đến nói đến một bên tàu cạn ở trên núi cả!”
“Thực vậy sao? Thế ở Tokyo, xe điện ngầm há chẳng chạy ngay trên đầu mình đó ư?”
“Thôi, tôi chịu thua các chú rồi.”
Thấy Ryuji chịu thua, bọn lỏi con reo cười thích thú hết chỗ nói.
Con đường vòng quanh rặng núi Aoto chạy vào khu Kanazawa. Họ đi qua một nhà máy phát điện với những dây điện chằng chịt như màng lưới cùng những chụp cách điện vươn thẳng lên bầu trời mùa đông rồi chui vào đường hầm Tomioka. Khi nhô đầu ra ngoài, họ nhìn thấy lấp lánh dọc theo dãy đồi bên phải con đường xe lửa tốc hành Tokyo-Yokohama, phía bên trái là khu đất đã chia từng lô để bán với những căn nhà mới xây trông sácg lòa trải kháp dốc đồi.
“Tới nơi ngay bây giờ đó mà! Mình sẽ đi lên qua khu đất đã chia lô, khu này trước kia là dụng địa của quân Mĩ”, thằng lỏi trông có vẻ là thủ lĩnh của bọn nhóc hất hàm giải thích rồi cắm đầu đi lên trước. Đến lúc này, dáng vẻ và lời nói của nó đã bắt đầu có ý lấc cấc hỗn hào.
Công việc sửa soạn đất đai trên sườn đồi lúc này đã xong xuôi, trên khu đất vẫn còn những bờ tường đá để ngăn cát và những khu nhà vài ba căn mới cất. Vây quanh Ryuji, sáu thằng lỏi đi thẳng lên con đường đồi chạy gần giữa khu nhà đang xây cất. Gần tới đỉnh đồi, con đường dốc đột ngột biến mất và một bãi đất hoang cỏ rậm bắt đầu. Thật chẳng khác gì làm trò ảo thuật: một người đứng dưới chân đồi chẳng bao giờ tin được rằng con đường thẳng tắp ngoi lên cao đều đặn, đến quãng dốc này lại biến đi để thành một bãi hoang rậm cỏ như thế.
Thực là lạ lùng khi nơi này không có lấy một bóng người. Từ phía bên kia dãy đồi, tiếng xe ủi đất ầm ầm vọng lại. Từ con đường hầm phía dưới ngoài xa, tiếng xe hơi chạy qua chạy lại vọng lên rõ mồn một. Trừ tiếng cơ giới vọng lên, cảnh sắc bao la thực là trống rỗng và chính những tiếng động ấy cũng chỉ làm cho vẻ tịch mịch càng thêm rõ rệt mà thôi.
Đó đây có những hàng cột đâm thẳng lên trời; những cột ấy đã mục nát một nửa. Một con đường nhỏ bị vùi dưới đám lá vàng khô, chạy men theo dãy đồi. Họ đi qua bãi cỏ khô héo. Ngay phía bên phải, họ thấy một xe chở nước hoen rỉ có dây kẽm gai chăng bốn chung quanh, bị cỏ mọc cao lấp kín đến một nửa. Có một tấm bảng thép hoen rỉ, gài lỏng trên xe. Trên bảng có viết hàng chữ tiếng Anh, Ryuji dừng lại đọc:
U.S FORCES INSTALLATIONS
UNAUTHORIZED ENTRY IS PROHIBITED AND IS
PUNISHABLE UNDER JAPANESE LAW.[2]
Thằng nhóc có dáng vẻ lãnh tụ hỏi Ryuji:
“PUNISHABLED nghĩa là gì?”
Ryuji thấy thằng nhỏ này có một vẻ khó ưa. Ánh mắt long lanh khi nó cất tiếng hỏi, đã chứng tỏ là nó thừa biết câu trả lời rồi nhưng chàng vẫn buộc phải trả lời từ tốn.
“Nghĩa là ‘có thể bị phạt’.”
“Vậy sao? Nhưng bây giờ thì chỗ này không còn là dung địa của quân Mĩ nữa, thế nên ta có thể muốn làm gì thì làm. Trông kia!”
Ngay khi chàng đang nói, thằng nhóc ấy có vẻ như đã thấy hết hứng thú trong câu chuyện, y như thể một quả bóng hơi nó đã thả cho bay lên bầu trời.
“Đây là đỉnh đồi.”
Ryuji leo lên con đường nhỏ trên đồi và phóng tầm mắt nhìn cảnh sắc bao la bên dưới.
“Chú mày tìm ra được một nơi xem ra hay thực là hay.”
Ngọn đồi nhìn bao quát của vùng biển Đông Bắc. Xa xa về phía trái, mấy chiếc xe ủi đất đang xẻ một con đường đất đỏ ngòm ăn sâu vào một vách đá và những chiếc xe vận tải đang xúc đất chở đi. Khoảng cách lớn lao đã làm cho những chiếc xe ấy nổ ầm ầm vang dội không ngừng trong làn không khí luôn luôn xao động. Xa hơn ở dưới lòng thung lũng là những mái nhà xam xám thẳng tắp của một phòng thí nghiệm công nghiệp và một công ty đóng máy bay; trong khu tiền đinh trải xi măng trước văn phòng trung ương, có một cây thông nhỏ đang đứng tắm nắng.
Khu nhà cửa bao quanh công trường đã làm cho vùng này có dáng vẻ thôn quê. Làn ánh sáng mong manh yếu ớt mùa đông lại càng làm nổi bật thêm những dãy nhà cao thấp và xếp lại ngay ngắn hình vuông vô số những cây cột ngoài công trường. Những vật trông như vỏ sò lấp lánh qua làn khói mỏng bao phủ phong cảnh, chính là những tấm kính trước trên các xe hơi.
Tới gần biển thì cảnh sắc có vẻ như cuộn khúc lại và khoác một đặc tính hoen rỉ, buồn bã, rồi ren đặc biệt. Xa xa trên bãi cát, những loại máy móc rỉ han vất bừa bãi, một cây cần trục màu đỏ đang đưa đẩy những cánh cung lắc lư; phía bên kia cây cần trục là mặt biển, những đống đá trắng trên đê chặn sóng và ở ngoài mỏm công sự phía xa, một chiếc tàu vét bùn, lớp sơn xanh loang lổ đang nhả khói đen kịt.
Nhìn mặt biển Ryuji tưởng như là chàng đã xa cách nó không biết bao lâu rồi. Phòng ngủ của Fusako trông ra ngoài biển, nhưng chàng không bao giờ dựa mình bên của sổ nữa. Mặt nước khi mùa Xuân hãy còn xa lắc, mang màu xanh đậm chỉ trừ những chỗ có bóng những đám mây màu trân châu bồng bềnh biến nó thành màu trắng lợt màu tro lạnh lẽo.
Bầu trời chiều ở những chỗ khác thì trong sáng không mây, một màu xanh đều đều bàng bạc, nhạt mờ ở chỗ chân trời giáp với mặt nước.
Từ bờ cát bẩn thỉu dơ dáy, mặt biển trải rộng ra ngoài khơi bao la y như một tấm lưới khổng lồ màu vàng đục. Gần sát bờ biển, chẳng có bóng dáng một chiếc tàu nào hết; ngoài khơi có nhiều tàu chở hàng qua lại, những chiếc tàu nhỉ chừng 3000 tấn ở khoảng cách như thế này, trông thực cổ lỗ sĩ và bé tí teo.
“Chiếc tàu ta đi không có nhỏ xíu như thế đâu.”
“Con biết mà – chiếc Rakuyo trọng tải những 19000 tấn kia mà,” Norobu đáp lại. Suốt từ chiều đến giờ, lúc này nó mới mở miệng.
“Thôi chúng ta đến đó đi,” thằng lỏi có dáng vẻ thủ lĩnh vừa nói vừa kéo tay áo Ryuji. Đi một quãng ngắn xuống con đường nhỏ, họ tới một khoảng đất – lạ lùng thay, lại không bị động chạm gì đến ở giữa cảnh phá hoại khắp chung quanh – dấu tích cho thấy nơi này, xưa kia, hẳn phải là một đỉnh núi. Khoảng đất trống không cây ấy - trên những con dốc chạy ngoằn nghèo, vặn vẹo có hàng cây sồi chắn gió hướng đông và dãy núi đồi cây cối um tùm chắn gió phía tây – nối liền với một cánh đồng trồng loại rau đòng thái, mùa đông chẳng có ai coi sóc. Những dàn cây leo tàn héo bò qua hàng cây nhỏ bé lơ thơ bên con đường nhỏ. Nằm chót vót trên một trong những dàn cây leo ấy có một quả dưa đỏ la đà sà xuống. Ánh mặt trời hướng tây bị cản lại lúc chiếu xuống tới đây; một vài tia nắng nhạt mờ lắt lay trên những ngọn cỏ bấc khô cằn.
Ryuji vẫn không khỏi ngạc hiên trước khả năng đặc biệt của một thiếu niên đã khám phá ra một nơi kín đáo như thế này làm giang sơn riêng – mặc dù chàng vẫn nhớ là lúc nhỏ, chính mình cũng đã làm những trò tương tự.
“Chú nào đã tìm ra được chốn này mà hay quá vậy?”
“Cháu đấy. Vì nhà cháu ở mãi tít trên vùng Sugita cơ, nên những khi tan học về, cháu đi qua nơi này rất nhiều lần mới tìm được chốn này và chỉ cho những thằng kia biết.”
“Thế cái bến tàu cạn của chú ở đâu hở?”
“Ở đằng kia kìa,” thằng nhóc có vẻ là thủ lĩnh đang đứng trước một cái hang nhỏ nép mình dưới bóng một vách đá thấp trên đỉnh núi, vừa cười vừa chỉ tay về cửa hang.
Ryuji thấy nụ cười ròn tan, trong vắt như thủy tinh ấy có một cái gì hết sức nguy hiểm. Chàng cũng không hiểu vì sao mình lại có ấn tượng như thế. Với vẻ lanh lẹ của một con cá săn sắt lách mình luồn qua màng lưới, thằng lỏi không nhìn vào mặt Ryuji nữa, đưa ánh mắt sang hướng khác và tiếp tục giải thích.
“Đây là bến tàu cạn của bọn này. Một bến tàu cạn trên đỉnh núi. Bọn này sửa chữa các tàu bè ở đây, ban đầu tháo hết các bộ phận trên tàu đem lên đây rồi sau mới ghép lại trên mặt đất bằng.”
“Thế hả? Kéo một chiếc tàu lên đến đây hẳn là một công việc hết sức nhọc nhằn, phải không hả các chú?”
“Dễ dàng lắm – có gì đáng nói đâu!” Thằng nhóc con có vẻ thủ lĩnh đáp lời, trên khuôn mặt nó lại nở ra một nụ cười xinh đẹp quá độ.
Cả bọn bảy người ngồi xuống khoảng đất trống nhuốm màu xanh như là cỏ lún phún, ngay trước cửa hang. Dưới bóng râm và làn gió nhẹ từ ngoài biển thổi vào trời lạnh ghê gớm. Ryuji co ro trong chiếc áo khoác ngắn, ngồi xếp bằng tròn ngay xuống đất. Chàng vừa ngồi xuống thì những chiếc xe ủi đất lại bắt đầu nổ máy ầm ầm. Chàng khai mào câu chuyện với một giọng cố làm ra vui vẻ.
“Ờ, ờ, trong bọn các chú, có chú nào đã bao giờ thực sự đặt chân lên một chiếc tàu biển lớn chưa nào?”
Những thằng lỏi nhìn nhau, không đứa nào đáp lại. Ryuji lại tiếp tục trong khi đưa mắt nhìn thẳng vào đám thính giả trơ trơ như gỗ:
“Nói đến tàu bè là trước tiên mình phải bắt đầu bằng chuyện say sóng. Anh nào đi bể cũng phải qua cái cảnh đó một hai lần. Và các chú hẳn biết, có lắm anh chỉ sau một chuyến đi là cạch đến già vì không làm sao chịu đựng nổi cơn say sóng quá tệ hại. Con tàu càng lớn bao nhiêu thì mình lại càng bị nhồi lên nhồi xuống dữ dội bấy nhiêu. Lại còn một số mùi đặc biệt của con tàu nữa, chẳng hạn như mùi sơn, mùi dầu, mùi thức ăn nấu trong nhà bếp...”
Khi thấy bọn lỏi tì có vẻ không thích thú gì truyện say sóng. Ryuji liền xoay ra hát một bài vì chẳng còn cách nào khác.
“Này, các chú đã bao giờ nghe bài hát này chưa?”
Còi rú lên từng hồi tha thiết
Con tàu dần rời xa bến bờ
Ta người con trai của biển cả
Quyết tâm lìa phố cảng mà đi xa
Dù phải nhỏ lệ khi vẫy tay từ giã…
Bọn nhóc con nhìn nhau, huých nhau, khúc kha khúc khích rồi cuối cùng phá ra mà cười. Noboru thấy xấu hổ muốn chết. Nó đứng phắt ngay dậy, chộp lấy cái mũ trên đầu Ryuji mà mân mê vầy vò mãi, quay lưng lại tất cả lũ bạn.
Cái mỏ neo nằm giữa tấm huy hiệu to tướng hình hoa thạch phỉ xung quanh viền chỉ vàng kết thành những cành lá cây nguyệt quế, phía bên phải bên trái. Phía trên và dưới tấm phù hiệu lại có những sợi chỉ bạc quyện chặt lấy nhau kết thành những cuộn dài và bẹt. Cái lưỡi trai màu đen để che nắng phía trước, phản ánh trời chiều, bóng lên một màu ảm đạm u buồn.
Có lần, vào lúc tịch dương một ngày mùa hạ, chiếc mũ kì diệu này đã xa dần ngoài khơi chói chang rạng rỡ, trở thành biểu tượng óng ánh cho sự biệt li và cõi vị trí chưa ai từng hay biết. Chính cái mũ này đã xa dần cho đến lúc thoát khỏi những ràng buộc của cuộc sống, đã trở thành một ánh lửa kì thú soi sáng đường đi tới cõi vĩnh cửu.
“Chuyến đi biển đầu tiên của ta là chuyến đi trên một tàu chở hàng chạy tới Hương Cảng…” Mới bắt đầu nói chuyện, Ryuji cảm thấy lũ nhóc con mỗi lúc một chăm chú lắng nghe. Chàng kể cho chúng nó nghe những kinh nghiệm của mình trong chuyến đi đầu tiên ấy, với những thất bại, những nghi ngờ, khốn đốn, những thèm khát và buồn rầu. Rồi chàng bắt đầu kể những kể những truyện lạ góp nhặt được sau các chuyến đi khắp các chuyến đi khắp các miền đất trên thế giới: Đang lúc nằm chờ ở cửa vào kính đảo Suez thì có người khám phá ra rằng một sợi dây cáp lớn đã bị lấy trộm; người gác trực ở Alexandria nói được tiếng Nhật đã ăn caánh với bọn lái buôn trên cầu tàu để đánh lừa thủy thủ bằng những phẩm vật hạng bét (chi tiết về các phẩm vật này thì Ryuji không kể rõ vì thấy không thích hợp với câu chuyện có tính cách giáo dục này); những khó khăn không thể tưởng tượng khi lấy than đá tại New Castle ở Úc Đại Lợi và rồi sửa soạn con tàu để chấng hàng chuyến tới khi đến Sydney. Cả cuộc hành trình vỏn vẹn trong một phiên trực, bao nhiêu chuyến chuyên chở các nguyên liệu và nguyên thạch, gặp gỡ ngoài bờ biển Nam Mĩ một chiếc tàu chở hàng của hãng United Fruit, hoa quả chồng chất lên đến mép hầm tàu khiến không khí trên mặt biển chợt ngạt ngào mùi thơm của các hoa quả miền nhiệt đới…
Đang kể chuyện nửa chừng, bất thần Ryuji ngẩng lên nom thấy thằng nhóc con có vẻ là thủ lĩnh đang tuột đôi găng tay bằng cao su ra. Rồi nó cứ xỏ tay vào rồi lại tháo găng tay ra mân mê ve vuốt mãi những đầu ngón tay không biết bao nhiêu lần làm như thể lớp cao su giá lạnh đã dính chặt vào da thịt.
Ryuji không để ý đến nó nữa. Một học sinh thông minh chán ngấy lớp học, hành động một cách khác đời nhưng chẳng có ý nghĩa gì sâu sắc. Ngoài ra chàng càng kể chuyện thì lại càng thấy những hoài niệm vô cùng da diết thôi thúc xôn xao; chàng quay lại ngắm nhìn đường chỉ xanh xanh mong manh sôi sục ngoài biển khơi.
Kéo dài một đợt khói đen, một con tàu chở hàng nhỏ bé đang nhấp nhô xa tít đằng chân trời. Ryuji nghĩ là chính mình lẽ ra có thể đang đi trên tàu đó. Dần dần trong lúc kể chuyện cho lũ nhóc nghe, Ryuji đã đi đến chỗ hiểu biết chính mình theo đúng cái hình ảnh Norobu vẫn thường miêu tả trong lòng.
Lẽ ra mình là người lênh đênh vĩnh viễn.
Chàng đã chán ngấy cái cảnh ấy rồi, nuốt không sao trôi nữa; tuy nhiên trong lúc này, chàng lại đang tỉnh giấc trước cảnh bao la của những cái mà chàng đã từ bỏ.
Những tình niệm u ám của hải triều, tiếng gầm thét của một bè nước dâng cao đập mình vào bờ đá, vỡ nát tan tành. Cái tiếng gọi của bể khơi mịt mù gọi chàng đến một vinh quang chưa từng hay biết, một vinh quang pha trộn với cái chết và người đàn bà, cái vinh quang hun đúc vận mệnh chàng thành một biệt triện hiếm có. Năm hai mươi tuổi, chàng đã say sưa đắm đuối tin chắc rằng từ dưới đáy sâu tăm tối của thế giới này có một điểm sáng chỉ chiếu rọi riêng chàng, một ngày nào đó sẽ lại gần chàng và chỉ làm cho riêng chàng sáng rực lên mà thôi.
Bất kì lúc nào chàng mộng tưởng đến những cái đó thì vinh quang, cái chết và đàn bà cũng trở thành “tam vị nhất thể”. Tuy nhiên, khi chàng nắm được người đàn bà thì hai thứ kia đã rút lui ra xa xa tít và thôi không còn kêu réo gọi tên chàng nữa. Chàng cảm thấy những gì mình cự tuyệt trước đây bây giờ đang cự tuyệt lại mình.
Chàng chưa bao giờ có làm của riêng cái thế giới bừng bừng như lò lửa để có thể gọi là riêng của mình, nhưng đã có lần, chàng để cho mặt trời dính chặt vào mạng sườn rồi ghé răng nóng bỏng cắn chặt lấy thịt da mình, dưới những hàng dứa vùng nhiệt đới mà chàng xiết bao thương nhớ. Nhưng bây giờ thì chỉ còn lại một đống tro tàn mà thôi. Bây giờ bắt đầu một cuộc đời êm ả, một cuộc đời không còn dao động gì nữa.
Bây giờ thì cái chết hiểm nguy đã cự tuyệt chàng, còn vinh quang thì chẳng cần phải nói. Và những say sưa tai ác của tình cảm, những nỗi buồn thương xé lòng, những lời biệt li trong sáng, tiếng gọi của Đại nghĩa, một biệt danh của vừng thái dương phương nam, những giọt lệ gan góc của đàn bà con gái, những thèm khát tối tăm và những giọt bùi nặng nề đã thúc đẩy chàng tiến đến cùng cực của nam nhi. Bây giờ tất cả những cái đó đều chấm dứt cả rồi, thực hết cả rồi...
Giọng nói trong trẻo, cao vút của thằng thủ lĩnh vang lên đằng sau chàng:
“Chú uống chút hồng trà nhé!”
“Ừ, được”… Ryuji vẫn đắm chìm trong những tưởng niệm, không buồn quay lại nhìn đằng sau. Trong lòng chàng bềnh bồng hình dáng các hòn đảo, các hải cảng chàng từng ghé qua. Makeata ở phía nam Thái bình dương, New Caledonia, các nước vùng quần đảo Tây Ấn: sôi sục với buồn bã và u sầu, đầy nhóc những con chim ưng và chim anh vũ, nhìn đến nơi nào cũng thấy toàn những dứa là dứa, dứa đế vương, dứa khổng tước. Ngoi đầu ra khỏi biển cả rạng rỡ, cái chết đã sà xuống ôm lấy chàng giống như là một bể mây chứa đầy giông bão. Hình ảnh cái chết bây giờ đã mất hết cơ hội nắm lấy chàng rồi. Cái chết trang nghiêm, tráng liệt không gì sánh kịp trước mắt muôn người đang vụt qua giấc mơ hoảng hốt say sưa của chúng. Nhưng nếu thế giới đã sửa soạn một cái chết rạng rỡ như vậy thì tại sao chính thế giới lại không diệt vong đi nhỉ?
Sóng triều trong vịnh san hô âm ấm như là máu. Vầng thái dương phương nam đang chiếu rực qua bầu trời vang vang như tiếng gọi của điệu kèn đồng. Biển khơi rực lên ngũ sắc. Cá kình, cá giao.
Chỉ một hai bước nữa là Ryuji hối hận suốt đời.
Noboru vẫn đứng đằng sau, ấn cái cốc nhựa màu nâu vào sát má chàng.
“Thưa ba trà đây”.
Ryuji lơ đãng đón nhận chén trà. Chàng nhận thấy bàn tay thằng bé hơi run run. Có lẽ vì lạnh.
Ryuji vẫn còn đắm chìm trong mộng tưởng. Chàng uống ực một hơi cạn hết chén trà nóng, sao như có vị đắng cay. Mùi vị vinh quang, như ai nấy đều biết, vốn vẫn thường cay đắng.
Chú thích
[1] Lời trong bài thơ của thi sĩ Yano Ryo (chú thich của người dịch)
[2] Cơ sở của quân lực Hoa-kì không có giấy phép thì không được xâm nhập. Nếu không, có thể bị trừng trị theo luật pháp Nhật bản.
HẾT