← Quay lại trang sách

Phần thứ hai Ở Paris Quyển một Cimourdain I Phố xá Paris thời ấy

Người ta sống giữa công chúng, kê bàn ăn ngay trước cửa, đàn bà ngồi trên bậc thềm các nhà thờ làm những băng vải bó vết thương, vừa hát bài La Marseillaise, vườn Monceaux và vườn Luxembourg thành nơi tập trận, ở các ngã tư, xưởng võ khí làm việc tới tấp; người ta chế súng, khách qua đường nhìn thấy, vỗ tay thích thú; ở cửa miệng mọi người, thường chỉ nghe thấy câu: Kiên trì! Thời buổi cách mạng mà! Họ mỉm cười, hiên ngang. Họ đi xem kịch như ở Athènes trong thời chiến tranh ở Péloponèse; quảng cáo dán khắp các góc phố: Hãm thành Thionville - Bà mẹ được cứu thoát khỏi lửa thiêu - Câu lạc bộ những kẻ vô tư lự - Jeanne, bà cả của các nữ giáo hoàng - Những triết gia mặc áo lính - Nghệ thuật yêu đương ở nông thôn. Quân Đức đã ngấp nghé ở cửa ngõ thành phố; tin đồn vua nước Phổ đã cho dành chỗ ở rạp Opéra. Cái gì cũng rùng rợn nhưng chẳng ai sợ cả. Đạo luật đen tối về những người tình nghi [1], tội ác của Merlin de Douais [2], làm cho mọi người như thấy chiếc máy chém trên đầu. Một ông quan tòa, tên là Séran, bị truy tố, chờ người tới bắt, vẫn mặc áo ngủ, đi giày vải, và thổi sáo trước giá treo cổ. Hình như chẳng ai có thì giờ nhàn rỗi. Ai cũng vội vã. Không chiếc mũ nào không có huy hiệu. Phụ nữ bảo: Đội chiếc mũ đỏ chị em chúng tôi trông đẹp ra. Cả thành phố Paris như đang dọn nhà. Những người bán đồ cũ chất ngổn ngang nào mũ miện của vua chúa, và giáo chủ, nào quyền trượng bằng gỗ thếp vàng, nào những vật có hình hoa bách hợp, là những di vật của các cung điện. Đấy là hình ảnh sụp đổ của chế độ quân chủ. Các loại áo lễ được đem bày bán ở cửa hàng quần áo cũ. Ở cửa hàng Porcherons và Ramponneau có nhiều tay quấn đầy mình áo lễ và những tấm vải thêu, ngồi ngất ngưởng trên những con lừa cũng choàng áo lễ, tự mình rót rượu vào những chiếc bình trước kia dùng đựng bánh thánh ở các nhà thờ lớn. Ở phố Saint-Jacques, mấy bác thợ lát đường, đi chân đất đã giữ lại chiếc xe của một người bán hàng rong chở giấy đi bán, rồi góp tiền mua người lăm đôi giày gửi lên Viện Quốc ước tặng cho quân đội cách mạng. Những tượng của Franklin, Rousseau, Brutus và thêm cả Marat nữa, bày nhan nhản; dưới một tượng bán thân của Marat ở phố Cloche-Perce có treo một bản kể tội Malouet, trong một chiếc khung gỗ đen, lồng kính, với chứng cớ cụ thể và hai dòng chú thích ngoài lề: “Những chi tiết này đều do một công dân yêu nước có cảm tình với tôi là cô tình nhân của Sylvain Bailly cung cấp. Ký tên: Marat”. Tại quảng trường Hoàng Cung, hàng chữ La-tinh Quantos effundit in usus! [3] bị che khuất sau hai bức tranh lớn vẽ bằng thuốc màu, một bức vẽ Cahier De Gerville [4] tố cáo lên Quốc hội mật hiệu cấu kết của bọn bảo hoàng ở Arles; bức kia vẽ vua Louis XVI bị giải từ Varennes về, ngồi trong xe loan, phía dưới cỗ xe có một tấm ván có dây chằng, hai đầu có hai người lính, lưỡi lê cắm đầu súng. Có ít hiệu buôn lớn mở cửa; những xe hàng xén và đồ chơi trẻ con lưu động, do đàn bà kéo, trên xe thắp nến, mỡ nến chảy nhòe nhoẹt trên mặt hàng; nhiều nữ tu sĩ mới hoàn tục đội mớ tóc giả hung hung ngồi bán hàng giữa trời, có bà trước kia là nữ bá tước nay ngồi vá thuê bít tất trong một gian nhà hẹp; có chị thợ may nguyên là một bà hầu tước; bà De Boufleurs nay ở trong một cái gác xép, ngồi đó trông thấy biệt thự cũ của bà ta. Bọn trẻ vừa chạy vừa rao mời mua “tờ tin tức”. Người ta gọi những anh chàng rụt cằm trong chiếc cà-vạt là “mắc bệnh tràng nhạc”. Những người hát rong chen chúc nhau. Dân chúng đả đảo Pitou, anh chàng làm vè bảo hoàng, vốn can trường ra phết, vì hắn đã bị bỏ tù hai mươi lần và bị đưa ra tòa án cách mạng về tội vừa vỗ đít vừa nói “yêu nước đấy”; khi thấy có thể bị mất đầu, hắn lại kêu lên: Chính cái bộ phận ngược với cái đầu của tôi mới là thủ phạm! Cả tòa bật cười và tha cho hắn. Anh chàng Pitou này chế giễu cái mốt hồi ấy đua nhau đặt tên Hy Lạp và La-tinh; bài thứ nhất của y viết về một người thợ vá mà y đặt cho cái tên La-tinh là Cujus và đặt tên cho chị vợ là Cujusdam. Người ta đua nhảy vòng tròn kiểu “cách mạng”; không ai còn dùng những tiếng như chàng và nàng mà người ta gọi là nam công dân và nữ công dân. Người ta nhảy trong những nhà tu kín hoang tàn, trên bàn thờ vẫn còn những chiếc đèn cốc, trên vòm trần vẫn còn chiếc gậy kết chữ thập mang bốn cây sáp, và dưới chỗ họ nhảy là hầm mộ. Họ mặc áo vét màu xanh thẫm. Họ đính những kim cài áo sơ-mi kiểu “mũ tự do” làm bằng đá trắng, đá xanh đá đỏ. Phố Richelieu [5] đổi tên là phố Pháp Chế; ngoại ô Saint-Antoine đổi tên là ngoại ô Vinh Quang; ở quảng trường Ngục Bastille dựng một bức tượng thần Thiên Nhiên. Người ta chỉ trỏ cho nhau những kẻ qua lại quen thuộc như Chatelet, Didier, Nicolas, và Garnier-Delaunay, đang canh gác ở cửa nhà người thợ mộc Duplay [6]; anh chàng Voullant không bao giờ vắng mặt trong những ngày xử chém, theo sau những xe chở những người bị tử hình và gọi đó là “đi cầu lễ đỏ”; ông thẩm phán cách mạng Monflabert, hầu tước, tự xưng là Dix-Août [7]. Người ta đi xem sinh viên trường võ bị diễu binh, những sinh viên được các sắc luật của Viện Quốc ước mệnh danh là “những chuẩn úy học viện Mars” còn dân chúng lại gọi là “lính hầu cận của ông Robespierre”. Người ta đọc những bản thông báo truy tố những kẻ bị tình nghi tội hoạt đầu. Bọn bảo hoàng tụ tập trước cửa tòa đốc lý, chế giễu những đám cưới không theo nghi lễ nhà thờ, xúm lại lúc cô dâu chú rể đi qua và gọi họ là “vợ chồng thị chiếng” [8]. Tại điện Thương Binh, tượng thánh và tượng vua đều đội mũ cộng hòa. Người ta chơi bài cái mốc đặt ở ngã tư đường; cỗ bài cũng rất cách mạng; con vua thì đổi bằng tên thiên thần, con đầm là con tự do, con bồi là con bình đẳng, con át là con pháp chế. Người ta cày các công viên lên, cả ở vườn điện Tuileries [9]. Chen lẫn với cảnh náo nhiệt trên đây là cái cảnh chán đời, kênh kệu của các phe phái thất thế. Có người viết thư cho ông Fouquier-Tinville [10]: “Nhờ ngài làm ơn cho tôi thoát khỏi cuộc đời này. Đây là địa chỉ của tôi”. Champcenetz [11] bị bắt vì đứng giữa Hoàng Cung kêu rống lên: “Bao giờ thì cách mạng ở Thổ Nhĩ Kỳ nhỉ? Tôi muốn thấy một chính phủ cộng hòa thay thế chính phủ ở Thổ” [12]. Báo chí nhan nhản khắp nơi. Mấy chú thợ cạo uốn những mớ tóc giả của phụ nữ giữa phố, trong lúc đó lão chủ cao giọng đọc báo Moniteur; một số khác múa tay hoa chân giữa đám đông bình luận về tờ báo Chúng ta hãy đoàn kết lại của Dubois Crancé hay Tiếng kèn của Bố Bellerose. Đôi khi thợ cạo kiêm cả bán thịt; bên cạnh búp bê tóc vàng, họ lại treo từng chuỗi đùi lợn muối và dồi lợn. Trên đường phố người ta bán các loại “rượu lưu vong”; có người quảng cáo bán năm mươi hai loại rượu vang; có người buôn đồng hồ treo hình đàn thất huyên và hình ghế xô-pha kiểu quận chúa; một anh thợ cạo treo tấm biển như sau: “Tôi cạo cho giáo hội, tôi chải cho quý tộc, tôi sửa sang đẳng cấp thứ ba”. Người ta đến nhờ Martin bói bài ở số nhà 173, phố Anjou, trước gọi là phố Quận Chúa. Bánh mì thiếu, than thiếu, xà phòng thiếu; người ta thấy hàng đàn bò sữa từ các tỉnh kéo về. Ở khu Vallée, thịt cừu non bán mười lăm quan một li-vrơ [13]. Một thông cáo của Công xã quy định cứ mười ngày, mỗi nhân khẩu được mua một li-vrơ thịt. Người ta phải sắp hàng nối đuôi trước các hiệu buôn; một “cái đuôi” như vậy đã thành nổi tiếng vì kéo dài từ một cửa hàng xén phố Petit-Carreau đến giữa phố Montorgueil. Nối đuôi, gọi là “chăng dây”, vì người ta phải sắp hàng, kẻ trước người sau cùng nắm vào sợi dây dài. Trong cảnh thiếu thốn đó, phụ nữ tỏ ra rất dũng cảm và dịu dàng. Họ thức suốt đêm đợi phiên mua bánh. Những phương sách cuối cùng đã đem lại kết quả; cách mạng vượt qua được tình thế vô cùng nguy ngập bằng hai biện pháp nguy hiểm; tín phiếu và giá tối đa; tín phiếu là đòn bẩy, giá tối đa là điểm tựa. Phương thuốc kinh nghiệm ấy đã cứu vãn được nước Pháp. Kẻ thù, cả kẻ thù ở Coblentz lẫn kẻ thù ở Luân Đôn đều đầu cơ tín phiếu. Bọn gái hư lang thang bán nước hoa, nịt bít tất, bím tóc, và làm nghề buôn bạc; có những bọn buôn bạc ở bậc tam cấp phố Vivienne, giấy bê bết bùn, tóc bôi sáp mỡ, đội mũ lông chỏm hình đuôi cáo, bọn con buôn phố Valois, giấy đánh xi bóng lộn, miệng ngậm tăm, đầu đội mũ nhung, cùng với bọn gái điếm xưng hô mày tao. Nhân dân săn chúng như săn kẻ trộm mà phe bảo hoàng gọi là những “công dân tích cực”. Nói cho đúng, rất ít vụ trộm xảy ra. Quần chúng thiếu thốn ghê gớm, nhưng liêm khiết vô cùng. Những người đầu trần chân trụi, bụng đói dạ khát, nghiêm trang cúi mặt đi qua các cửa hàng vàng bạc. Trong một cuộc khám xét nhà Beaumarchais [14] của trung đội Antoine, một người đàn bà vào vườn hái một đóa hoa; chị ta liền bị dân chúng sỉ vả. Một bó củi giá bốn trăm quan, bằng bạc; trên đường phố, nhiều người cưa giường để đun, mùa đông giếng nước đóng băng; mỗi gánh nước giá hai hào; ai cũng tự túc xách nước. Đồng louis vàng giá ba nghìn chín trăm năm mươi quan. Một chuyến xe ngựa giá sáu trăm quan. Sau một ngày đi xe, người ta nghe thấy khách và người đánh xe trao đổi với nhau: “Bác xà ích, tôi phải giả bác bao nhiêu?” “Sáu nghìn quan”. Một chị bán cỏ mỗi ngày thu được hai mươi nghìn quan. Một người ăn mày kêu: Xin ông bà làm phúc cứu tôi! Tôi còn thiếu hai trăm ba mươi quan nữa mới đủ tiền mua. Ở các đầu cầu người ta thấy những bức tượng khổng lồ do Davíd tạc và sơn, những bức tượng mà Mercier rủa: Những con rối bằng gỗ kệch cỡm. Những bức tượng này tượng trưng khối liên minh và khối đồng minh đã bị đánh đổ. Dân chúng không chút tuyệt vọng. Họ trầm ngâm nhưng vui sướng đoạn tuyệt với các ngai vàng. Quân tình nguyện ùn ùn tới, hiến dâng lồng ngực của mình. Mỗi đường phố cung cấp một tiểu đoàn. Cờ các quận diễu đi diễu lại, mỗi lá cờ có một châm ngôn riêng, trên lá cờ quận Capucin, người ta đọc thấy hàng chữ: Chẳng ai áp bức được chúng ta. Trên một lá cờ khác: Không còn tầng lớp cao quý nữa, chỉ còn cao quý của lòng người. Trên các tường nhan nhản những mảnh giấy, nhỏ có, to có, trắng, vàng, xanh, đỏ, in máy, viết tay với những khẩu hiệu: Cộng hòa muôn năm! Trẻ con bập bẹ bài hát Ta sẽ thắng.

Những chú bé ấy, chính là tương lai vĩ đại.

Sau này cái thành phố hà khắc thay cho cái thành phố bi thảm: phố xá Paris có hai quang cảnh hết sức rõ rệt, trước và sau ngày 9 tháng Nóng [15].

Paris thời Saint-Just [16] nhường chỗ cho Paris thời Tallien [17].

Rõ ràng là một cơn điên loạn lôi kéo tất cả mọi người. Tám mươi năm về trước cũng vậy. Người ta thoát khỏi Louis XIV cũng như thoát khỏi Robespierre để thở cho nhẹ nhõm; do đó thế kỷ mở đầu với thời phụ chính và kết thúc với thời đốc chính. Hai đợt truy hoan sau hai đợt khủng bố. Nước Pháp tự do thoát khỏi nhà tu khổ hạnh và cũng đồng thời thoát khỏi nhà tu quân chủ với niềm vui của một quốc gia được thả lỏng.

Sau ngày 9 tháng Nóng, thành phố Paris đã trở nên vui tươi, nhưng lại quá trớn, tràn ngập một niềm hoan lạc độc hại. Qua cơn điên cuồng lao vào cái chết, tiếp đến cơn cuồng loạn chạy theo cái sống, và cái vĩ đại đã lu mờ. Có bọn hãnh tiến, có một nhân vật như Trimalcion [18], tên là Grimod De La Reyière; có cuốn Niên lịch của những kẻ háu ăn. Buổi tối, người ta tiệc tùng giữa tiếng nhạc nhà binh, ở gác điện Palais-Royal với những dàn nhạc do phụ nữ đánh trống và thổi kèn. Hồi ấy thịnh hành lối khiêu vũ theo điệu gấp, người nhạc công tay cầm cung đàn chỉ huy mọi người cùng nhảy. Người ta mở tiệc đêm kiểu “phương đông” ở nhà Méot giữa những lư trầm hương thơm nghi ngút. Họa sĩ Boze vẽ những người con gái ngây thơ và kiều diễm trong tuổi mười sáu, theo kiểu “lên máy chém”, nghĩa là ngực và vai để hở, sơ-mi đỏ. Tiếp theo những điệu nhảy giật gân trong các nhà thờ hoang tàn là những cuộc dạ vũ ở các lâu đài De Ruggieri, De Luquet, De Wenzel; kế tục những nữ công dân nghiêm nghị cắt xé quần áo cũ để làm băng buộc vết thương là những gái ăn chơi, mặc diêm dúa, lố lăng, lòe loẹt. Tiếp theo những bàn chân không, lấm máu, lấm bùn, lấm bụi của quân đội là những gót chân trần của đàn bà trang sức bằng kim cương; những cảnh vô sỉ, gian tà cùng tái diễn; trên thì có các chủ thầu, dưới thì có trộm cắp; Paris kẻ cắp như rươi, ai cũng phải lo giữ lấy túi tiền; một cách giết thì giờ hồi ấy là đến quảng trường Tòa Án xem kẻ trộm đàn bà bị đem ra bêu ở đấy, váy buộc lại với nhau; ở cửa rạp hát, bọn trẻ ranh đã biết mời khách lên xe với những câu: Nam nữ công dân ơi, có đủ chỗ cho hai người ngồi đây. Bọn bán báo không còn rao tên các báo Le vieux Cordelier và Bạn dân mà lại chỉ rao Thư của Polichinelle và Thỉnh nguyện của nhãi nhép; hầu tước De Sade chủ trì ở sở cảnh sát thành phố, tại quảng trường Vendôme. Sự phản ứng thật là vui nhộn và dữ dội. Đội quân chiến sĩ tự do năm 92 tái sinh dưới danh hiệu mới là Hiệp sĩ dao găm. Đồng thời xuất hiện trên sân khấu một nhân vật điển hình, Jocrisse [19]; có những phụ nữ “kỳ diệu” [20] hơn thế nữa, kỳ quái; người ta thụt lùi từ Mirabeau [21] đến Bobèche [22]. Thành phố Paris diễn biến như vậy đó; như một cái đồng hồ đồ sộ của văn minh từ cực này sang cực nọ. Sau năm 93, Cách mạng bị lu mờ một cách kỳ quặc, thế kỷ hiện tại như quên làm trọn cái đã bắt đầu, một lối sống trụy lạc đã xen vào, chiếm lĩnh vị trí hàng đầu...

Nhưng vào năm 93 mà chúng ta đang nói đây, phố xá Paris còn giữ được tất cả quang cảnh vĩ đại và ghê rợn của buổi ban đầu. Hàng phố có những nhà hùng biện như Varlet, đứng trên một chiếc xe lưu động để diễn thuyết trong dân chúng; có những vị anh hùng mà một người được tôn làm “đại úy của những gậy bịt sắt”; có những con cưng như Guffroy, tác giả bài đả kích Rougiff. Một vài người có tiếng tăm thì nguy hiểm; còn những người khác thì trong sạch, trong số đó, có một nhân vật vừa liêm chính, vừa tàn nhẫn: chính là Cimourdain.

Chú thích:

[1] Luật về tội tình nghi: Do Viện Quốc ước ban hành ngày 17-09-1793. Đó là một đạo luật vừa tỏ sức mạnh vừa tỏ thế yếu của Cách mạng tư sản Pháp. Đạo luật đó coi những ai tỏ ra “ôn hòa”, cả những ai “không chống lại cách mạng mà cũng không làm gì cho cách mạng”, là tình nghi.

[2] Merlin de Douais (1754 - 1838): Chủ tịch Viện Quốc ước, về sau lại cộng tác với Napoléon. Bị đày năm 1815.

[3] Nghĩa đen: “Đã chảy bao nhiêu là nước cho người ta dùng!”

[4] Trạng sư, làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ năm 1791.

[5] Giáo chủ làm Thủ tướng thời vua Louis XIII, có công lớn trong sự nghiệp xây dựng nền quân chủ ở nước Pháp.

[6] Thợ mộc thuộc phái Jacobin, sau làm ủy viên trong Tòa án cách mạng, bạn thân của Robespierre và cũng là đồ đệ của Babeuf.

[7] Mười Tháng Tám (10-08-1792): Ngày nhân dân Paris nổi dậy làm áp lực cho cách mạng, kết quả là Quốc hội đã thông qua tổ chức Công xã cách mạng và nền quân chủ bị sụp đổ hoàn toàn.

[8] Thị chính (nói chệch đi để chế giễu) dựa theo cách chơi chữ của tác giả ngụ ý mỉa mai những đám cưới cử hành ở tòa thị chính.

[9] Cung điện của nhà vua.

[10] Fouquier-Tinville: Công tố ủy viên của Tòa án cách mạng, đã kết án tử hình nhiều người dưới thời khủng bố, năm 1795 bị xử chém.

[11] Champcenetz: nhà báo quý tộc, viết văn đả kích cách mạng, bị xử tử năm 1794.

[12] A la Porte (nguyên văn) có nghĩa là “ở Thổ Nhĩ Kỳ”, nhưng ở đây câu nói cũng ám chỉ “tôi muốn thấy chính phủ cộng hòa bị tống khứ đi”.

[13] Khoảng nửa ký.

[14] Beaumarchais (1732 - 1799): Tác giả viết hài kịch nổi tiếng đả kích phong kiến. Đồng thời là một tay làm giàu, có quan hệ với quý tộc, bị chính phủ cách mạng bỏ tù năm 1792 cùng với một số nhân vật bảo hoàng.

[15] 27-07-1794: Ngày mà nền chuyên chính dân chủ Jacobin dưới sự lãnh đạo của Robespierre bị lật đổ.

[16] Một lãnh tụ của phái Jacobin, nhân vật quan trọng trong Viện Quốc ước sau Robespierre, cũng bị sát hại với Robespierre.

[17] Một nhân vật phản cách mạng, chủ mưu lật đổ Robespierre.

[18] Một nhân vật trong vở kịch Satyricon của Pétronius, chỉ một loại người hãnh tiến.

[19] Điển hình người ngốc.

[20] Chỉ những phụ nữ ăn mặc kỳ dị vào thời ấy.

[21] Một nhà hùng biện của Cách mạng Pháp 1789.

[22] Một vai hề nổi tiếng ở các chợ hồi ấy.

II

Cimourdain

Cimourdain là một lương tâm trong sạch nhưng u sầu. Với ông, cái gì cũng tuyệt đối. Ông đã từng là thầy tu, điều đó càng hệ trọng. Con người, cũng như bầu trời, có thể có một thứ bình thản u ám; chỉ cần có một cái gì đó gieo đêm tối vào tâm hồn. Nghề giáo sĩ đã làm cho tâm hồn Cimourdain càng tăm tối. Ai đã làm thầy tu cũng đều thế cả.

Cái đã gieo đêm tối trong ta có thể để lại trong ta những vì sao. Con người Cimourdain chất chứa đạo đức và chân lý, nhưng chỉ sáng ngời trong bóng tối.

Lịch sử của ông cũng ngắn gọn. Ông đã từng làm cha xứ ở làng và làm gia sư trong một nhà quý tộc; rồi được thừa hưởng một gia tài nhỏ, ông bắt đầu sống tự do.

Trước hết, ông là người kiên trì. Ông trầm tư mặc tưởng chẳng khác người ta sử dụng một chiếc kìm; ông cho rằng ông chỉ có quyền từ bỏ một ý kiến sau khi đã suy nghĩ đến cùng; ông suy nghĩ ráo riết. Ông biết đủ các thứ tiếng của châu Âu và của một ít nước khác; con người này học tập không mệt mỏi, điều đó giúp ông giữ được tiết trinh; nhưng tự kiềm chế như vậy không gì nguy hiểm bằng.

Khi còn là thầy tu, ông đã giữ được lời nguyền, có lẽ vì tự ái, do ngẫu nhiên hay do tâm hồn cao thượng; nhưng ông đã không thể giữ được tín ngưỡng. Khoa học đã làm sụp đổ lòng tin của ông; giáo lý cũng đã tàn lụi trong lòng ông. Rồi, tự xét mình, ông cảm thấy như què quặt, và không thể từ bỏ nghiệp tu hành. Ông cố gắng làm lại tư cách con người, nhưng lại quá hà khắc với mình; người ta đã cướp mất của ông gia đình, ông lấy tổ quốc làm gia đình; người ta không cho ông có vợ, ông lấy nhân loại làm bạn trăm năm. Tình trạng tràn đầy mênh mông ấy thực ra chỉ là trống rỗng.

Bố mẹ ông, những người nông dân, khi gây dựng cho ông thành thầy tu là muốn ông tách khỏi quần chúng; nhưng ông đã trở về với quần chúng.

Và ông đã trở về với quần chúng một cách say mê. Ông nhìn những kẻ đau khổ với tấm lòng trìu mến dễ sợ. Từ một thầy tu, ông đã trở thành một nhà triết lý, và từ nhà triết lý ông trở thành lực sĩ. Ngay từ hồi xưa vua Louis XV còn sống Cimourdain đã cảm thấy mang máng mình là cộng hòa rồi. Cộng hòa nào? Có thể là cộng hòa kiểu Platon [1], và cũng có thể là cộng hòa kiểu Dracon [2].

Bị cấm thương yêu, ông quay ra thù ghét. Ông thù ghét những điều dối trá, quân quyền, thần quyền và bộ áo thầy tu của ông; ông thù ghét hiện tại, và ông lớn tiếng kêu gọi tương lai; ông đã linh cảm, đã thoáng thấy, đã phỏng đoán được tương lai ấy vừa ghê sợ vừa huy hoàng; ông hiểu rằng để chấm dứt cảnh bần cùng thê thảm của loài người, sẽ có cái gì như bàn tay báo oán đồng thời là bàn tay giải phóng. Từ xa, ông đã tôn thờ cái tai họa ấy.

Năm 1789, cái tai họa ấy đã tới, ông đã sẵn sàng tiếp đón nó, Cimourdain lao mình vào cuộc đổi đời vĩ đại ấy một cách lô-gích, nghĩa là quyết liệt, hợp với một con người có bản lĩnh như ông; đã lô-gích thì không mềm yếu. Ông đã sống những năm vĩ đại của cuộc cách mạng và đều đã rung cảm theo những trận gió lùa. Năm 89 ngục Bastille đổ, chấm dứt những cực hình của nhân dân; năm 90, ngày 19 tháng 6, chế độ phong kiến cáo chung; năm 91, Varennes [3] kết thúc nền quân chủ; năm 92, nền cộng hòa thành lập. Ông đã trông thấy cách mạng nổi lên. Ông không phải là kẻ sợ sức mạnh khổng lồ ấy; trái lại, mọi cái lớn lên đã tăng thêm sức sống cho ông; và mặc dầu tuổi đã khá cao - ông đã 50 tuổi và thầy tu thường già sớm hơn người thường - ông cũng lớn dần lên. Năm này qua năm khác, ông nhìn tình hình phát triển, và ông trưởng thành theo. Lúc đầu, ông sợ Cách mạng đẻ non, ông theo dõi, khi Cách mạng có đủ lý đủ quyền để tồn tại, ông đòi hỏi nó phải thành công; rồi, càng ngày nó càng khủng khiếp thì ông cảm thấy yên tâm. Ông muốn rằng Minerve quấn những vòng hoa đầy những ngôi sao sáng tương lai, đồng thời cũng phải là Pallas sử dụng một chiếc khiên chạm đầy rắn [4]. Ông muốn khi cần thiết thì con mắt thần tiên của cách mạng cũng phải rọi ánh sáng địa ngục đến lũ ma quỷ và dùng khủng bố đáp lại khủng bố.

Thế rồi đến năm 93.

Năm 93 là cuộc chiến tranh của châu Âu chống lại nước Pháp và nước Pháp chống lại Paris. Và Cách mạng là gì? Là nước Pháp chiến thắng châu Âu và Paris chiến thắng nước Pháp. Do đó, cái giây phút kinh hoàng này, 93 bỗng lớn lao hơn cả thời gian còn lại của thế kỷ.

Không gì bi thảm hơn là cảnh châu Âu đánh vào nước Pháp và nước Pháp đánh vào Paris. Tấn bi kịch đó có tầm vóc của một bản hùng ca.

Năm 93 là một năm dữ dội. Năm ấy, dông tố nổi lên điên cuồng nhất và cũng hùng tráng nhất. Sống trong đó, Cimourdain cảm thấy thoải mái. Cái cảnh cuồng loạn, man rợ và tráng lệ ấy hợp với bản chất vĩ đại của ông. Ông giống như loài diều hâu biển, bên trong rất trầm tĩnh, bên ngoài lại thích mạo hiểm. Có những thiên tư bay bổng, hung dữ và điềm tĩnh, vốn sinh ra để sống với bão tố. Có những tâm hồn bão táp.

Ông có riêng một tình thương yêu, chỉ dành cho những người khốn khổ. Trước cảnh đau thương ghê rợn, ông thật tận tụy. Không có gì làm cho ông ghê tởm được. Đó là kiểu từ thiện của ông. Ông cứu người một cách gớm ghiếc và thần thánh. Ông tìm những ung nhọt để hôn. Những nghĩa cử không đẹp mắt lại khó nhất; ông thích những việc ấy. Một hôm, tại nhà thương Hôtel Dieu, một người sắp chết vì một cái nhọt chặn ngang cổ họng, nhọt hôi thối, kinh tởm, có thể truyền độc và cần phải nặn gấp. Cimourdain ở đấy; ông ghé miệng vào cái nhọt hút mủ, miệng đầy thì lại nhổ ra, cho đến khi kiệt mủ, và nhờ vậy cứu sống người kia. Hồi ấy, ông còn khoác áo thầy tu, có người đã nói với ông: “Nếu cha làm thế cho đức vua thì cha sẽ được thăng chức giám mục”. “Với đức vua, tôi sẽ không làm như thế”. Cimourdain trả lời.

Việc làm và lời nói của ông làm cho ông được lòng dân chúng trong những khu phố tối tăm của Paris.

Đến nỗi ông có thể làm cho những người đang đau khổ, đang khóc lóc, đang hăm dọa nhau, cũng răm rắp nghe lời ông. Hồi quần chúng phẫn nộ chống bọn đầu cơ tích trữ gây nên biết bao nhiêu là sai lầm, chính Cimourdain, chỉ với một câu nói, đã ngăn cản được vụ cướp phá một chiếc tàu thủy chở xà phòng đậu ở cảng Saint-Nicolas, và ông đã giải tán được những đám phẫn nộ tụ tập để ngăn xe cộ ở cửa ô Saint-Lazare.

Chính ông, mười ngày sau ngày 10 tháng 8, đã cầm đầu quần chúng đi lật đổ các tượng vua. Tượng đổ xuống làm chết người: ở quảng trường Vendôme, một người đàn bà là Reine Violet bị tượng vua Louis XIV đè chết vì đã buộc dây vào cổ tượng mà kéo. Pho tượng Louis XIV ấy đứng vững đã một trăm năm, dựng lên ngày 12 tháng 8 năm 1692, đổ xuống ngày 12 tháng 8 năm 1792. Tại quảng trường Hòa Hợp, tên Guinguerlot bị đánh chết tươi trên bệ tượng Louis XV vì hắn gọi những người tới phá hủy là đồ súc sinh! Tượng bị đập nát. Ít lâu sau, người ta dùng tượng để đúc xe. Còn lại cánh tay; đó là cánh tay phải của Louis XV giơ lên như kiểu hoàng đế La Mã. Do đề nghị của Cimourdain mà một đoàn đại biểu nhân dân đã mang cánh tay đó tặng Latude, người bị chôn sống đã ba mươi bảy năm ở ngục Bastille. Khi mà Latude cổ đeo gông, thân mang xiềng, rũ mòn trong cái ngục ấy theo lệnh của ông vua mà pho tượng nhìn bao quát cả thủ đô Paris, ai dám bảo rằng nhà ngục kia sẽ đổ xuống, pho tượng ấy sẽ đổ xuống, rằng Latude từ ngôi mộ sẽ bước ra và chế độ quân chủ sẽ nằm thế vào đó, rằng anh ta từ một người tù, đã thành người chủ cánh tay đồng đen đã từng ký giấy giam anh ta và cả tên vua bùn kia cũng chỉ còn có cánh tay đồng đen ấy nữa thôi!

Cimourdain thuộc hạng người trong lòng ấp ủ một tiếng nói thầm kín, và lắng nghe tiếng nói ấy. Những người ấy bề ngoài coi bộ đãng trí; không; họ rất chú ý.

Cimourdain vừa uyên bác vừa dốt đặc. Uyên bác về khoa học nhưng lại dốt đặc về cuộc đời. Do đó, ông rất cương quyết. Mắt ông bị che như mắt Thémis [5] trong Homère. Ông tin tưởng một cách mù quáng như mũi tên chỉ thấy đích và cứ nhằm thẳng mà lao tới. Trong cách mạng, không có gì đáng sợ bằng con đường thẳng.

Cimourdain tiến thẳng phía trước, không gì ngăn cản nổi.

Cimourdain tin rằng trong quá trình phát triển của xã hội, điểm cực là khu vực vững chắc nhất; sai lầm của những đầu óc lấy luận lý thay cho lẽ phải. Ông vượt quá Viện Quốc ước, ông vượt quá Công xã; ông ở phái Tòa giám mục.

Phái Tòa giám mục, sở dĩ đặt tên thế là vì phái ấy hội họp trong một gian phòng của tòa giám mục cổ kính, một nhóm người phức tạp, ô hợp. Đến dự họp ở đấy cũng như ở Công xã, có những kẻ ngồi lặng thinh nhưng rất tiêu biểu, và nói như Garat, “có bao nhiêu túi là bấy nhiêu súng lục”. Phái Tòa giám mục là một tập đoàn hỗn độn kỳ lạ; có cả người Paris và người bốn phương, hai điều này không loại trừ lẫn nhau, vì Paris là nơi có tiếng đập của trái tim các dân tộc. Đây cũng là nơi cao trào dân chúng đang bùng lên sôi nổi. Bên cạnh phái Tòa giám mục, Viện Quốc ước là nguội lạnh và Công xã là ôn hòa. Phái Tòa giám mục là một trong những tổ chức cách mạng giống như những hòn núi lửa; chứa đủ thứ, dốt nát có, ngu ngốc có, liêm chính có, anh hùng có, giận dữ có, mật thám có. Tướng Brunswick [6] cũng có tay chân ở đấy. Có những người xứng đáng với dân Sparte [7] và có những kẻ đáng phải tù đầy. Đa số nóng nảy và thật thà. Phái Girondin, qua cửa miệng Isnard, chủ tịch nhất thời của Viện Quốc ước đã nói một câu kinh khủng: “Dân Paris, hãy coi chừng. Rồi đây sẽ chẳng còn lấy một viên đá của thành phố đứng vững và có ngày người ta sẽ phải đi tìm cái chỗ xưa kia đã là Paris”. Câu nói đó đã tạo ra phái Tòa giám mục. Những con người, như chúng tôi vừa nói, những con người ở khắp bốn phương, thấy cần phải kề vai sát cánh lại.

Nhóm này chống lại bọn phản động. Nó sinh ra từ yêu cầu dùng bạo lực của quần chúng; đó là mặt đáng sợ và bí hiểm của các cuộc cách mạng. Dựa vào sức mạnh ấy, phái Tòa giám mục đã tích cực hoạt động. Trong những đợt biến động lớn của Paris, chính Công xã nã đại bác và phái Tòa giám mục kéo chuông cấp báo.

Cimourdain với bản tính ngây thơ không bao giờ thay đổi tin rằng tất cả mọi cái phục vụ cho chân lý đều là công minh; điều đó làm cho ông ta có một cái thế đặc biệt để làm khuất phục các phái cực đoan. Những kẻ bất lương cảm thấy ông ta chính trực, và lấy làm bằng lòng. Chúng núp dưới một bộ mặt đạo đức để phạm những tội ác. Điều đó làm chúng lúng túng nhưng chúng lấy làm khoái trá. Palloy, kiến trúc sư đã lợi dụng việc phá hủy ngục Bastille, đem tiền bán các phiến đá bỏ túi riêng, rồi khi được giao việc quét vôi lại ngục giam Louis XVI thì đã hăng hái vẽ vời khắp tường nào song sắt nào xiềng xích và gông cùm; Gonchon, nhà diễn thuyết khả nghi ở ngoại ô Saint-Antoine, mà sau này người ta mới tìm lại được các chứng từ; Fournier, người Mỹ, hôm 17 tháng 7 đã bắn một phát súng lục vào Lafayette [8], nghe nói lại chính do Lafayette thuê; Henriot [9] ở nhà thương điên ra và đã từng làm đủ nghề, nấu bếp, leo dây múa rối, trộm cắp, gián điệp, trước khi làm tướng, và chĩa đại bác bắn vào Viện Quốc ước. La Reynie, nguyên làm phó giám mục xứ Chartres đã thay kinh nhật tụng bằng tờ Père Duchesne; tất cả bọn người này phải kiêng nể Cimourdain, và, đôi lúc, để ngăn những bọn tồi tệ giở trò thì chỉ cần chúng thấy sừng sững trước mặt chúng con người tượng trưng cho niềm trong trắng đáng sợ kia. Chính vì thế mà Saint-Just khiến Schneider phải khiếp sợ. Đồng thời, đa số trong phái Tòa giám mục gồm chủ yếu những người nghèo và những người sôi nổi; họ rất tốt, họ tin tưởng và theo Cimourdain. Ông ta có một linh mục trợ tế, hay gọi là người hộ vệ cũng được, là thầy tu cộng hòa Danjou được dân chúng yêu chuộng, vì vóc người cao, và vẫn gọi đùa là Cha Hai Thước. Cimourdain lại có thể sai khiến viên tướng rất dũng cảm mà người ta gọi đùa là tướng La Pique [10] cũng như tay ngổ ngáo Truchon tức Nicolas Lớn, tay này đã định cứu bà Lamballe, và đã đưa tay dắt bà ta bước qua các xác chết; y đã thành công nếu không bị tay thợ cạo Charlot chế giễu cay độc.

Công xã giám sát Viện Quốc ước, phái Tòa giám mục lại giám sát Công xã; Cimourdain, đầu óc thẳng thắn, ghét lối mưu mô, đã từng phá tan nhiều âm mưu của Pache mà Beurnonville gọi là “con người đen tối”. Ở phái Tòa giám mục, Cimourdain xử bình đẳng với mọi người. Dobsent và Momoro thường xin ý kiến ông. Ông nói tiếng Tây Ban Nha với Gusman, tiếng Ý với Pio, tiếng Anh với Arthur, tiếng Flandres với Peireyra, tiếng Đức với người Áo Proly, con hoang một hoàng thân. Giữa đám người ấy, ông đã gây được sự nhất trí. Do đó ông có một thế lực ngấm ngầm và vững mạnh. Hébert [11] cũng kiêng sợ ông.

Giữa những thời kỳ và những nhóm người bi tráng ấy, Cimourdain có cái sức mạnh của những con người sắt đá. Ông là một nhân vật hoàn toàn và rất tự tin không thể sai lầm. Chưa có ai thấy ông khóc. Một con người đức hạnh tuyệt vời và giá lạnh. Một bậc công minh đáng sợ.

Trong cách mạng không thể có vị trí trung gian cho một nhà tu hành. Một tu sĩ chỉ có thể lao mình vào cuộc phiêu lưu kỳ diệu hiển nhiên ấy với những lý do hoặc đê tiện nhất hoặc cao cả nhất; chỉ có thể hoặc làm người hèn mạt hoặc làm người cao siêu. Cimourdain cao siêu, nhưng lại trong cảnh cô độc, trong cảnh cheo leo, cảnh xám ngắt chẳng dung người cao siêu giữa một vùng vực thẳm. Những đỉnh núi cao thường có cái trinh khiết thảm đạm ấy.

Cimourdain có cái bề ngoài của một người bình thường, mặc những bộ quần áo tầm thường, có vẻ nghèo khổ. Hồi trẻ, ông phải gọt tóc đi tu; đến lúc già, đầu ông hói. Tí tóc còn lại đã ngả hoa râm. Trán ông rộng, trên trán ấy người tinh ý sẽ thấy một dấu hiệu đặc biệt. Cimourdain có lối nói đột ngột, say sưa và trịnh trọng; tiếng nói gọn, giọng đĩnh đạc; miệng ông buồn rầu, chua chát; con mắt sáng và thâm trầm. Và trên toàn bộ khuôn mặt có cái vẻ gì như phẫn nộ, bất bình.

Cimourdain là như thế.

Ngày nay, chẳng còn ai biết tên ông. Lịch sử thường có những kẻ vô danh kinh khủng như vậy.

Chú thích:

[1] Platon (429 - 347 TCN): Hiền triết Hy Lạp.

[2] Nhà lập pháp thành Athènes (Hy Lạp) thế kỷ VII trước Công Nguyên, nổi tiếng vì những đạo luật khắc nghiệt do ông lập ra.

[3] Nơi vua Louis XVI bị quân cách mạng bắt trên đường trốn ra nước ngoài.

[4] Minerve là thần trí tuệ khôn ngoan. Pallas là thần chiến tranh.

[5] Nữ thần tượng trưng cho công lý.

[6] Tướng Đức, tư lệnh liên minh quân đội Âu châu can thiệp vào Cách mạng Pháp năm 1792.

[7] Một thành phố cổ Hy Lạp, thủ phủ của nước cộng hòa Sparte, nổi tiếng về tinh thần thượng võ, và đạo đức khắc khổ.

[8] Lafayette (1757 - 1834): Quý tộc Pháp đã từng tự sắm chiến thuyền qua Bắc Mỹ chiến đấu giành độc lập cho nước Mỹ, và khi Cách mạng bùng ra, được cử làm tổng tư lệnh quân vệ quốc. Vốn không có khả năng gì xuất sắc, La Fayette dần dần quay ra cấu kết với bọn bảo hoàng và trở thành kẻ thù của cách mạng.

[9] Chỉ huy quân vệ quốc đã từng cứu Robespierre thoát khỏi tay bọn Tullier ngày 9 tháng Nóng (27-07-1794).

[10] Tướng cấm thương.

[11] Một thủ lĩnh có uy tín của Công xã, sáng lập tờ báo cách mạng Père Duchesne. Vào năm 1793, tờ báo này có tính chất một tờ báo bình dân chiến đấu, yêu cầu trị tội những kẻ thù của cách mạng, mạt sát những linh mục và bọn quý phái, những kẻ đầu cơ và lũng đoạn. Về sau Hébert chống lại Robespierre và bị hành hình 14-03-1794.

III

Con người ấy cũng có nhược điểm [1]

Con người như thế có phải là người không? Người đầy tớ của nhân loại có thể có tình thương yêu không? Phải chăng con người ấy quá thiên về thần trí đến nỗi không thể có tình được? Mối tình rộng lớn bao quát mọi sự, mọi người còn có thể giành cho một người nào chăng? Cimourdain còn có thể yêu không? Xin thưa rằng: Có.

Hồi còn trẻ, làm gia sư trong một nhà quyền quý, ông có một cậu học trò là con trai kế nghiệp của gia đình này và ông ta yêu cậu học trò ấy. Yêu một đứa trẻ cũng dễ thôi. Có gì mà người ta không tha thứ cho một đứa trẻ? Tha thứ cho nó cái chuyện nó là lãnh chúa, là hoàng thân, là vua. Cái tuổi thơ ngây làm người ta quên những tội ác của dòng họ; cái thể chất yếu đuối khiến người ta quên mất cái địa vị quá cao. Nó còn nhỏ quá nên người ta dễ tha thứ cho nó cái quyền cao chức trọng. Người nô lệ tha thứ cho nó cái chuyện nó là chủ nô. Đã có ông già da đen âu yếm thằng bé da trắng. Cimourdain say mê học trò mình. Tuổi thơ ấu có điều này không giải thích được là ta có thể dốc cho nó tất cả yêu thương của mình. Có thể nói tất cả những gì là tình thương Cimourdain đã trút vào đứa bé này; đứa bé ngây thơ dịu dàng ấy đã thành một thứ mồi cho trái tim kia đã từng bị dày vò trong cảnh cô đơn. Ông ta yêu mến nó cùng một lúc với tất cả tấm lòng trìu mến của một người cha, một người anh, một người bạn, một người sáng tạo. Nó là con ông; không phải là đứa con máu mủ của ông, mà là đứa con của trí tuệ ông. Ông không phải là cha nó vì ông không sinh ra nó, nhưng ông là thầy giáo và nó là công trình kiệt tác của ông. Từ một lãnh chúa nhỏ, ông đã biến nó thành một con người. Biết đâu lại chẳng thành một vĩ nhân? Đấy là những ước mơ. Có cần phải được phép rồi mới sáng tạo ra một trí tuệ, một ý chí cương nghị, một tâm hồn thẳng thắn không? Trộm phép gia đình kia, ông đã truyền thụ cho cậu tử tước trẻ tuổi, học trò ông, tất cả những tư tưởng tiến bộ của ông; ông đã tiêm cho nó cái đạo đức đáng sợ của ông; ông đã truyền vào trong mạch máu nó lòng tin, lương tâm, lý tưởng của ông; ông đã rót vào trong đầu óc quý tộc kia tâm hồn của nhân dân.

Người gia sư truyền bá tư tưởng cũng như bà nhũ mẫu cho hài nhi bú sữa. Có khi gia sư lại là cha hơn cả cha đẻ cũng như bà vú nuôi lại là mẹ hơn cả mẹ đẻ nữa.

Mối liên hệ cha con về tinh thần ấy gắn bó Cimourdain với học trò mình. Chỉ nhìn thấy đứa trẻ ấy là Cimourdain đã xúc động.

Xin nói thêm điều này: Cimourdain thay thế bố đứa trẻ một cách dễ dàng, vì nó mồ côi cả cha lẫn mẹ; chăm sóc nó có bà nội mù và một ông bác thường vắng nhà. Sau bà nội cũng qua đời; ông bác, chủ gia đình, một võ quan đại quý tộc, có quyền cao chức trọng ở triều đình, bỏ dinh cơ ở quê nhà để sống ở kinh đô, ra trận mạc luôn, bỏ mặc đứa trẻ mồ côi một mình trong lâu đài cô quạnh, do đó vị gia sư trở thành ông thầy đúng với nghĩa đầy đủ nhất của tiếng ấy.

Lại xin nói thêm nữa: Cimourdain đã được chứng kiến đứa bé, học trò ông, lúc mới sinh. Mồ côi từ tấm bé, nó lại bị đau nặng. Cimourdain, trong tình trạng nguy kịch ấy, ngày đêm trông nom nó; ông vừa là thầy thuốc chữa chạy vừa là hộ lý chăm sóc và đã cứu được đứa trẻ. Học trò ông không những chịu ơn ông về giáo dục, về học vấn, về khoa học; còn nhờ ông mà được hồi phục và khỏe mạnh; không những học trò ông nhờ ơn ông mà biết tư duy; những còn nhờ ơn ông mà được sống. Ta thường quý những kẻ chịu ơn; Cimourdain quý đứa trẻ ấy.

Thế rồi sự cách biệt tất nhiên của cuộc sống đã xảy ra. Công cuộc giáo dục hoàn thành, Cimourdain phải xa rời cậu bé đã trở thành thanh niên. Những cảnh chia ly ấy sao mà tàn nhẫn một cách lạnh lùng và vô tình đến thế! Các gia đình thản nhiên biết bao khi cho thôi việc vị gia sư đã để lại tư tưởng trong đứa trẻ, và người vú nuôi đã trút lại ruột gan mình! Cimourdain được trả công, bước ra khỏi tầng lớp thượng lưu và trở về tầng lớp dưới; bức tường ngăn kẻ quyền quý và người thấp hèn đã khép kín; cậu thanh niên quý tộc bẩm sinh đã là sĩ quan và một bước được phong đại úy đã đi tựu ngũ ở một doanh trại nào đó, còn vị gia sư thấp hèn, vốn đã là một thầy tu bất phục tùng vội bước xuống tầng cuối cùng tối tăm của Giáo hội, tầng lớp tu sĩ lớp dưới, rồi Cimourdain vắng bặt tin tức về học trò mình.

Cách mạng tới; kỷ niệm về đứa trẻ mà ông xây dựng nên người cứ ấp ủ trong lòng ông một cách thầm kín, không nguôi, mặc dù ông bận rộn bao la vì công việc chung.

Tạc một pho tượng và làm cho nó sinh động đẹp biết bao! Tạo nên một trí tuệ và truyền cho nó chân lý, càng đẹp hơn. Như Pygmalion [2], Cimourdain đã sáng tạo ra một tâm hồn.

Một trí tuệ có thể có một đứa con.

Người học trò ấy, người con ấy, đứa trẻ mồ côi nay là người độc nhất mà Cimourdain yêu thương trên thế gian này.

Nhưng ngay cả trong mối tình yêu thương đùm bọc là vậy, con người như thế có bị yếu ớt đi không?

Để rồi xem.

Chú thích:

[1] Nguyên ý: “Một phần cơ thể chưa nhúng nước sông Styx”. Sông Styx, theo thần thoại là con sông thiêng mà các vị thần vẫn tới đó thề thốt. Mẹ của dũng sĩ Achille đã mang con nhỏ nhúng xuống nước sông đó nên Achille thành bất tử, trừ gót chân Achille, chỗ mẹ cầm để nhúng con xuống sông không được nhúng nước, nên chỗ đó là điểm yếu của Achille. Về sau bị bắn vào gót chân, Achille thất trận.

[2] Một nhà điêu khắc nổi tiếng thời thượng.