Phần thứ ba Tại Vendée Quyển một Miền Vendée I Rừng
Hồi ấy, xứ Bretagne có bảy khu rừng thật khủng khiếp. Loạn Vendée là loạn thầy tu. Cuộc phiến loạn này đã được rừng rú phụ lực. Bóng tối hỗ trợ lẫn nhau.
Bảy khu Rừng Đen xứ Bretagne là rừng Fougères chắn lối giữa Dol và Avranches; rừng Princé chu vi tám dặm; rừng Paimpont toàn những khe và suối, phía Baignon thì hầu như không có lối vào, lại có đường rút dễ dàng về Concornet, một thị trấn bảo hoàng; rừng Rennes, ở đó nghe rõ tiếng chuông cấp báo của những giáo khu theo Cộng hòa bao giờ cũng tập trung quanh các đô thị; chính ở đây Puysaye thiệt mất Focard [1], rừng Machecoul có con
[1] Puysaye và Focard là hai người theo Cách mạng nhưng bí mật hoạt động bên quân phiến loạn Vendée.
thú dữ là tên Charette; rừng Garnache thuộc các giòng họ La Trémoille, Gauvain và Rohan; rừng Brocéliande là của các tiên nữ.
Một nhà quý tộc ở xứ Bretagne được phong chức lãnh chúa Bảy Khu Rừng. Đó là tử tước De Fontenay, hoàng thân xứ Bretagne.
Bởi lẽ hồi đó có ông hoàng xứ Bretagne khác với ông hoàng nước Pháp. Dòng họ Rohan đều là những ông hoàng xứ Bretagne. Vậy nên trong bản báo cáo gửi lên Viện Quốc ước ngày 15 tháng 4 lịch cộng hòa năm thứ hai, tướng Garnier đã gọi ông hoàng De Talmont như “tên Capet của lũ kẻ cướp, chúa tể xứ Maine và xứ Normandie”.
Lịch sử rừng rú xứ Bretagne kể từ năm 1792 đến năm 1800 có thể tách riêng ra và dính liền vào cuộc phiêu lưu của loạn Vendée như một truyền thuyết.
Lịch sử và truyền thuyết mỗi đằng có một chân lý riêng. Chân lý truyền thuyết khác với chân lý lịch sử. Chân lý truyền thuyết chính là sự tưởng tượng mà kết quả là thực tại. Vả lại, lịch sử và truyền thuyết cùng có một mục đích là khắc họa con người muôn thuở qua con người nhất thời.
Loạn Vendée chỉ có thể giải thích được đầy đủ nếu được truyền thuyết bổ sung cho lịch sử, lịch sử cần cho toàn cục và truyền thuyết cần cho chi tiết.
Phải nói rằng loạn Vendée đáng được quan tâm. Loạn Vendée là một sự kỳ dị.
Cuộc chiến tranh của những kẻ dốt nát đó vừa rất ngu ngốc lại rất hùng tráng, vừa khả ố lại vừa huy hoàng, đã làm cho nước Pháp vừa bị điêu tàn lại vừa thêm kiêu hãnh. Loạn Vendée là một vết thương và cũng là một vinh quang. Trong những khoảng thời gian nhất định, xã hội loài người chứa bao điều bí ẩn, những điều bí ẩn đó đối với những bậc hiền giả là ánh sáng, còn đối với kẻ dốt nát là tăm tối, bạo lực và man rợ. Bậc hiền triết không dám lên án. Họ tính đến điều rối ren do các vấn đề gây nên. Chẳng vấn đề nào xảy ra mà không tỏa bóng xuống như những đám mây.
Nếu người ta muốn hiểu rõ loạn Vendée, hãy hình dung mối mâu thuẫn này: một bên là cách mạng Pháp, một bên là người dân quê xứ Bretagne. Trước những biến cố vô song kia là mối đe dọa lớn của tất cả những thành tựu tốt đẹp, cơn phẫn nộ của văn minh, sự quá khích điên cuồng của tiến bộ, sự cải thiện thái quá và khó hiểu; hãy đặt con người man rợ, nghiêm nghị và kỳ dị đó, con người mắt trong trẻo và tóc dài, sống bằng sữa và hạt dẻ gai, không nhìn xa quá mái tranh, bờ rào và hố rãnh của họ, nghe tiếng chuông là có thể phân biệt từng xóm bên cạnh, chỉ uống nước lã, khoác chiếc áo cộc da thêu, người thì thô lậu mà ăn mặc lại diêm dúa, vẽ lên áo quần như tổ tiên họ, người Celte xưa kia đã thích chàm lên mặt, kính trọng lãnh chúa là đao phủ của họ, nói một thứ từ ngữ, khác nào như nhốt tư tưởng vào một nấm mồ, chăn bò, mài lưỡi hái, giẫy có lúa mì đen, nhào bánh bằng bột gạo mạch, tôn kính cái cày hơn bà nội, tin cả Đức mẹ Đồng trinh và Đức bà Bạch y thần nữ, sùng kính trước bàn thờ cũng như trước tảng đá đồ sộ huyền bí đứng giữa đồng hoang; ở đồng bằng thì cày ruộng, ở ven biển thì đánh cá, ở rừng thì săn bắn trộm; yêu mến đức vua, lãnh chúa, linh mục; chấy rận trong người; đăm chiêu, thường im lặng hàng giờ trên bãi biển mênh mông hoang vắng, âm thầm lắng nghe biển cả. Và ta hãy tự hỏi liệu con người mông muội đó có thể tiếp nhận được ánh sáng kia không.
Chú thích:
[1] Puysaye và Focard là hai người theo Cách mạng nhưng bí mật hoạt động bên quân phiến loạn Vendée.
II
Con người
Người nông dân có hai chỗ dựa; đồng ruộng nuôi sống họ, rừng rú che giấu họ.
Rừng rú xứ Bretagne như thế nào có lẽ người ta khó tưởng tượng nổi; đó chính là những thành thị. Không gì âm thầm hơn: câm lặng và man rợ hơn những đám chằng chịt gai góc và cành lá rối bời đó; những bụi to, rậm là những chỗ ẩn náu im lìm và lặng lẽ; không có cảnh hoang vắng nào lại có cái vẻ chết chóc và sởn gai ốc hơn; nếu bất ngờ và nhanh như chớp có thể chặt sạch cây cối đi đột nhiên người ta sẽ thấy trong bóng tối đó một ổ người đông như kiến.
Những cái hầm tròn và hẹp, có nắp bằng đá và bằng cành cây che kín bên ngoài, đào thẳng xuống rồi xiên ngang ra, mở rộng dưới đất hình miệng phễu và thông đến những căn buồng tối tăm, đó là cái mà xưa kia Cambyse [1] đã tìm thấy ở Ai Cập và hiện nay Westermann [2] tìm thấy ở xứ Bretagne; những cái hầm kia ở giữa sa mạc, những hầm này ở trong rừng; hầm ở Ai Cập chứa những xác chết, hầm ở Bretagne lại chứa những người sống. Một trong những khoảnh rừng thưa hoang vu nhất, trong cánh rừng Misdon, đào chi chít những đường hầm và ngõ ngách, ở trong đó thường có một loại người bí mật qua lại, gọi là “thành phố lớn”. Một khoảnh rừng thưa khác, bên trên không kém hoang vắng, nhưng bên dưới không kém đông đúc, gọi là “hoàng thành”.
Ở xứ Bretagne, cảnh sống dưới đất như vậy có đã lâu đời. Từ xưa đến nay, ở đây con người vẫn phải lẩn trốn trước con người. Do đó mà có những hang rắn đào dưới gốc cây. Cái đó bắt đầu từ thời các tu sĩ và một số những hầm mộ đó cũng cổ sơ như những mộ đá. Những âm hồn trong truyền kỳ và quái vật trong lịch sử, tất cả đều đã sống qua trên cái xứ sở đen tối này nào Teutatès, César, Hoël, Néomène, Geoffroy nước Anh, Alain-Gant-de-Fer, Pierre Mauclerc, hoàng tộc Pháp Blois, hoàng tộc Anh Montford, các vua và quận công, chín nam tước xứ Bretagne, các quan thẩm phán những phiên tòa lớn, các bá tước thành Nantes xung đột với các bá tước thành Rennes, bọn lính cướp, bọn cướp đường, những dòng tu sĩ lớn, René II, tử tước De Rohan, những tổng trấn thay mặt nhà vua, ông “quận công phúc hậu De Chaulnes” đã từng treo cổ dân quê lên cây trước cửa sổ nhà bà De Sévigné, những cuộc chém giết giữa các lãnh chúa hồi thế kỷ thứ mười lăm, những cuộc chiến tranh tôn giáo hồi thế kỷ thứ mười sáu, mười bảy, ba vạn con chó được tập để săn người hồi thế kỷ thứ mười tám; bị dày xéo kinh khủng như vậy, nhân dân đã liệu cách biến đi. Lần lượt những thổ dân ở hang, cốt thoát tay người Celte, rồi đến người Celte cốt thoát tay người La Mã, người Bretagne cốt thoát tay người Normandie, người theo tân giáo cốt thoát tay người Thiên Chúa giáo, bọn buôn lậu cốt thoát tay lính đoan, trước hết trốn vào rừng, rồi sau chui xuống dưới đất. Phương sách của thú vật. Chính sách bạo ngược đã dìm nhân dân đến nông nỗi đó. Từ hai nghìn năm nay đủ loại chuyên chế, nào nạn xâm lược, nào phong kiến, nào cuồng tín, nào thuế má đã vây nã cái xứ Bretagne khốn khổ này đến xớn xác, một cuộc săn đuổi khốc liệt chỉ chấm dứt ở hình thức này để tiếp tục bằng hình thức khác. Con người đã lẩn xuống dưới đất.
Nỗi kinh hoàng cũng là một thứ giận dữ, đã có sẵn trong mọi tâm hồn, và hang hố đã sẵn sàng trong rừng, thì vừa lúc đó nền cộng hòa Pháp xuất hiện. Xứ Bretagne nổi loạn vì cảm thấy mình bị đè nén bởi cuộc giải phóng ép uổng này. Những kẻ nô lệ thường hay có những ngộ nhận như vậy.
Chú thích:
[1] Cambyse (529 - 522 TCN): Vua Ba Tư, dã man và độc ác, đã xâm chiếm Ai Cập.
[2] Westermann (François Joseph): Một danh tướng Pháp đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc tấn công lâu đài Tuileries ngày 10-08-1792; đánh thắng nhiều trận ở Vendée và chết trên máy chém năm 1794 với các bạn trong phái Danton.
IIINgười và rừng rú cấu kết với nhau
Những khu rừng bi thảm xứ Bretagne lại giữ vai trò hỗ trợ cho cuộc phiến loạn trước đó.
Bên dưới đất của bất cứ khu rừng nào đó cũng có một hệ thống hiểm hóc những hang hầm và ngõ ngách xuyên đi khắp các ngả. Mỗi căn hầm tối mò ấy giấu được năm, sáu người. Cái khó là làm sao thở được trong đó. Một vài con số lạ lùng đủ nói lên trình độ tổ chức khá cao và quy mô to lớn ấy của cuộc nổi loạn. Ở Ile-et-Vilaine, trong khu rừng Pertre nơi cư trú của hoàng thân Talmont, không nghe thấy một hơi thở, không trông thấy một vết chân, thế mà ở đó có sáu nghìn người cùng với Focard. Ở Morbihan, trong khu rừng Meulac, không thấy một ai, thế mà có tám nghìn người. Vậy mà hai khu rừng Pertre và Meulac đó không phải là những khu rừng lớn nhất xứ Bretagne. Nếu đặt chân tới đó thì thật là ghê sợ. Nơi đây chứa đầy những chiến binh nấp trong một thứ đường hầm quanh co trong lòng đất dưới những bụi cây nham hiểm giống như những tảng bọt bể đồ sộ tối om, và khi gót chân khổng lồ của Cách mạng dẫm lên là cuộc nội chiến vọt ra.
Nhiều tiểu đoàn vô hình đang rình mò. Những đoàn quân không tên tuổi đó luồn bên dưới những đoàn quân cộng hòa, thình lình từ dưới đất chui lên rồi lại rút xuống, nhảy ra hằng hà sa số rồi biến ngay, xuất quỷ nhập thần, như núi lở bụi tan, như những hộ pháp biết phép thu hình, lúc chiến đấu thì to lớn, lúc biến đi thì bé choắt. Khác nào loài báo mà sống theo lối loài chuột chũi.
Không phải chỉ có rừng lớn, còn có rừng nhỏ. Cũng như bên những đô thị có làng mạc, dưới mái rừng có những bụi cây. Những rừng lớn nối với nhau nhờ có rừng nhỏ chi chít, rải rác khắp nơi. Những lâu đài cũ biến thành những pháo đài, những thôn xóm thành những doanh trại, những trang trại thành những khu đất rào kín đặt nhiều cạm bẫy, những thôn ấp được xẻ hào, rào cây, tất cả là những cái mắt của tấm lưới mà quân đội cộng hòa sa vào.
Toàn cảnh đó gọi là miền Bocage [1]. Ở đó có khu rừng Misdon, giữa rừng là một cái hồ và thuộc quyền của Jean Chouan; khu rừng Gennes thuộc quyền Taillefer; khu rừng Huisserie thuộc quyền Gouge-le-Bruant; khu rừng Charnie thuộc quyền Courtillé-le-Bâtard biệt hiệu là thánh đồ Saint Paul thủ lĩnh trại Bò Cái Đen; khu rừng Burgault thuộc quyền ông Jacques sống một cách bí ẩn và chết âm thầm dưới hầm Juvardeil; khu rừng Charreau, ở đó Pimousse và Petit-Prince bị đơn vị đồn Chateauneuf tấn công đã xông vào hàng ngũ cộng hòa tóm ngang lưng bọn lính bắt về làm tù binh! Khu rừng Heureuserie được chứng kiến cuộc tan vỡ của đồn Longue-Faye; khu rừng Aulne, ở đó có thể thám thính con đường từ Rennes đến Laval; khu rừng Gravelle mà một hoàng thân dòng La Trémoille đánh cuộc mà được; khu rừng Lorges ở Côtes-du-Nord nơi mà Charles De Boishardy thống trị sau Bernard De Villeneuve; khu rừng Bagnard gần Fontenay, nơi mà Lescure khiêu chiến với Chalbos, tay này dù một chọi năm vẫn nghênh chiến; khu rừng Durondais mà xưa kia Alain Le Redru và Hérispoux, hai con trai của Charles Đầu Hói đã tranh nhau; khu rừng Croqueloup, ở bên bờ truông ấy là nơi mà Coquereau đã gọt đầu tù binh; khu rừng Croix-Bataille đã từng nghe Chân-Bạc mắng Morière và Morière mắng lại theo kiểu Homère; khu rừng Saudraie mà chúng ta đã thấy một tiểu đoàn quân Paris sục sạo. Còn nhiều nữa...
Trong nhiều khu rừng lớn và nhỏ đó, không phải chỉ có những làng mạc ở dưới đất quây quần quanh hầm thủ lĩnh mà còn có những xóm lẻ gồm những lều thấp núp dưới rặng cây, và nhiều đến nỗi đôi khi dày đặc cả rừng. Khói thường làm lộ những làng mạc đó. Có hai xóm như thế ở khu rừng Misdon đến nay còn nổi tiếng, xóm Lorrière gần Létang và cụm lều Rue-de-Bau về phía Saint-Ouen-les-Toits.
Đàn bà sống trong lều và đàn ông ở dưới hang. Trong cuộc chiến tranh này, họ sử dụng những hang tiên và những hầm cũ của người Celte ngày xưa. Có người mang thức ăn xuống cho họ. Có những người bị bỏ quên rồi chết đói. Thật ra đó là những người vụng về không biết cách mở nắp hầm mà lên. Thông thường nắp hầm làm bằng rêu và cành cây khéo đến nỗi nhìn bên ngoài không thể nhận ra nó nằm trong cỏ; còn ở trong hầm thì mở và đóng nắp rất dễ dàng. Những hầm hố đó đào rất cẩn thận. Đất đào ở hầm lên người ta đem đổ xuống một cái ao nào gần đó. Vách trong và nền hầm phủ cỏ đuôi chồn và rêu. Họ gọi đó là “biệt phòng”; ở trong đó cũng tốt, chỉ có điều là thiếu ánh sáng, thiếu lửa, thiếu bánh và thiếu không khí.
Từ dưới hầm chui lên giữa đám người sống mà không thận trọng và thò mình ra không phải lúc thì thật nguy hiểm. Có thể lọt vào giữa chân một đoàn quân đi qua. Những khu rừng đáng sợ; những chiếc bẫy hai tròng. Quân xanh chẳng dám vào, quân trắng chẳng dám ra.
Chú thích:
[1] Một xứ ở phía Tây bắc Poitoux, trong cuộc nội chiến đã trở thành bãi chiến trường.
IV
Đời sống trong lòng đất
Họ sống buồn tẻ trong những cái hang thú đó. Ban đêm, thỉnh thoảng họ liều chui ra và đi như múa ở truông bên cạnh. Hoặc là họ cầu kinh để giết thời giờ. Bourdoiseau bảo: “Suốt ngày Jean Chouan bắt chúng tôi lần tràng hạt”.
Cứ đến ngày mùa, hầu như không ngăn nổi dân vùng dưới sông Maine chui lên khỏi hầm đi dự Hội Mùa. Một số người có ý thích riêng, như Denys biệt hiệu là Xẻ-Núi trá hình thành phụ nữ để đi xem kịch ở Laval rồi lại trở về hang.
Bỗng dưng họ đem thân đi tìm cái chết, rời khỏi ngục tối để bước vào nhà mồ.
Đôi khi họ mở nắp hầm và họ nghe xem đằng xa có đánh chác gì không; họ lắng tai theo dõi trận đánh. Súng cộng hòa nổ rền, súng bảo hoàng bắn tản mác; cái đó hướng dẫn họ. Nếu tiếng súng nổ hàng loạt bỗng ngừng lại, đó là dấu hiệu quân bảo hoàng thất bại, nếu tiếng súng nhát gừng tiếp tục nổ và tiến sâu về phía chân trời, đó là dấu hiệu họ thắng thế. Quân trắng bao giờ cũng truy kích; quân xanh thì không bao giờ vì họ ở trên đất thù địch.
Những đám quân độn thổ đó thông tin tức cho nhau rất tài. Họ liên lạc với nhau không gì nhanh bằng, không gì bí mật bằng. Họ đã phá hết cầu, họ đã tháo hết xe bò, thế mà họ vẫn có cách liên lạc với nhau và loan báo cho nhau mọi tin tức. Các trạm liên lạc đặt từ rừng này đến rừng khác, làng này đến làng khác, trại này đến trại khác, nhà này đến nhà khác, bụi cây này đến bụi cây khác.
Có khi một dân quê có vẻ ngờ nghệch đi qua nhưng chính là có mang tin tức trong chiếc gậy rỗng lòng.
Một đại biểu Quốc hội lập hiến cũ là Boétidoux cấp giấy thông hành cộng hòa để họ xuôi ngược khắp vùng Bretagne loại giấy mới, chỗ đề tên để trắng mà tên phản bội đó có hàng bó. Không tài nào bắt được họ. Puysaye nói: “Có những tin kín truyền khắp bốn mươi vạn người mà vẫn giữ được bí mật”.
Hình như cái mảnh đất vuông vắn đó, nam giáp đường đi từ Sables đến Thouars, đông giáp đường đi từ Thouars đến Saumur và con sông Thoué, bắc giáp con sông Loire và tây giáp Đại Tây Dương, có một hệ thần kinh chung và không một chỗ nào của mảnh đất này rùng mình mà mọi nơi không rung chuyển. Trong nháy mắt, tin tức đã chạy từ Noirmoutier đến Luçon và trại La Loué biết ngay trại Croix-Morineau đang làm gì. Nghe đâu có cả chim cũng giúp vào việc đó. Tướng Hoche viết ngày 7 tháng Gặt Hái năm thứ ba: “Người ta tưởng như họ có điện tín”.
Đó là những thị tộc như ở xứ Ecosse. Mỗi giáo khu có chỉ huy của mình. Cuộc chiến tranh này, cha tôi có tham gia, và tôi có thể kể lại được.
V
Đời sống trong chiến tranh
Nhiều người chỉ có những chiếc dáo nhọn. Súng săn tốt thì nhan nhản. Chẳng ai bắn thạo bằng những tay săn trộm ở miền Bocage và những tay buôn lậu ở Loroux. Đó là những chiến binh kỳ lạ, ghê sợ và gan góc. Lệnh trưng binh ba mươi vạn người làm cho sáu trăm làng cùng báo động. Đồng thời các đám cháy nổ ran khắp nơi. Hai tỉnh Poitou và Anju bùng nổ cùng một ngày. Phải nói rằng một tiếng súng đầu tiên đã nổ từ ngày 8 tháng 7 năm 1792, một tháng trước ngày 10 tháng 8 trên đồng cỏ Kerbarder. Alain Redeler, ngày nay ít người biết đến, hồi ấy là tiền bối của La Rochejaquelein và Jean Chouan. Bọn bảo hoàng ép mọi người còn mạnh khỏe ra trận, nếu không nghe sẽ bị xử tử. Chúng trưng dụng lừa, ngựa, xe cộ, lương thực. Ngay tức khắc, Sapinaud có ba nghìn lính. Cathelineau một vạn, Stofflet hai vạn, và Charette thành chúa tể vùng Noirmoutier. Tử tước Scépeaux huy động miền Thượng Anjou, hiệp sĩ Dieuzie miền lưu vực giữa sông Vilaine và sông Loire, Tristan-l’Hermite miền dưới sông Main, anh thợ cạo Gaston ở thị trấn Guéméné và thầy tu Bernier những vùng còn lại. Muốn phát động những đám đông ấy chẳng cần gì nhiều chuyện. Người ta bỏ một con mèo đen to tướng vào trong tủ thánh thể trên bàn thờ của một vị linh mục đã được tín nhiệm, họ thường gọi là linh mục tuyên thệ, rồi giữa buổi lễ, cho con mèo đột ngột nhảy vọt ra. Dân quê kêu ầm lên: “Quỷ hiện!” Thế là có cả một tổng nổi loạn. Một luồng lửa từ những phòng xưng tội thổi ra. Để tấn công quân cách mạng và để vượt các hào hố, họ có sẵn cái gậy dài năm mét, dùng để đánh nhau và để chạy trốn. Trong những trận ác liệt nhất, khi họ đang tấn công những đội quân cộng hòa, nếu bắt gặp một cây thập ác hay một ngôi nhà thờ, tất cả đều quỳ xuống và cầu kinh dưới làn mưa đạn; lần hết chuỗi hạt, ai còn sống lại đứng dậy và lao vào đối phương. Những con người vĩ đại thay! Vừa chạy, họ vừa lắp đạn; đó là biệt tài của họ. Người ta muốn lừa dối dân quê thế nào cũng được; bọn thầy tu chỉ những thầy tu khác mà họ đã lấy dây, xiết chặt vào cổ cho đỏ bầm lên và nói: “Đó là những thầy tu chết chém đã sống lại”. Dân quê có những lúc thật là hiệp sĩ; họ sùng bái Fesque, một người lính cộng hòa cầm cờ thà chịu chém chứ không buông lá cờ. Họ cũng châm biếm; họ gọi các thầy tu bên cộng hòa lấy vợ là “các thầy tu không mũ ca-lô thành những kẻ không quần chẽn”. Lúc đầu, họ cũng sợ đại bác; về sau, với cái gậy, họ xông tới các cỗ đại bác và chiếm lấy. Đầu tiên, họ chiếm được một khẩu đại bác bằng đồng đen và đặt tên là khẩu Truyền Đạo; rồi một khẩu khác từ thời chiến tranh tôn giáo, khắc huy hiệu của tể tướng Richelieu và vẽ hình Đức mẹ Đồng trinh; họ gọi là khẩu Marie Jeanne. Khi mất thị trấn Fontenay, họ mất cả súng Marie Jeanne và sáu trăm dân quê chết không nao núng quanh khẩu súng đó; sau đó, họ chiếm lại Fontenay, cốt để chiếm lại Marie Jeanne và họ kéo khẩu pháo về, dưới lá cờ bảo hoàng, phủ đầy hoa, bắt phụ nữ đi qua phải hôn khẩu súng. Nhưng có hai khẩu súng thì ít quá. Stofflet đã chiếm được Marie Jeanne; Cathelineau ghen tức liền xuất quân từ Pin-en-Mange tấn công Jallais và chiếm được một khẩu thứ ba, Forest đánh Saint-Florent và chiếm được khẩu thứ tư. Hai viên chỉ huy khác là Chouppes và Saint-Pol còn nghề hơn; họ đẽo thân cây giả thành hình đại bác, và bện bù nhìn làm pháo thủ, và với cỗ pháo đó họ vừa cười cợt một cách dũng cảm vừa đánh lui được quân cộng hòa ở Mareuil. Đó là thời oanh liệt. Về sau, khi Chalbos đánh tan La Marsonnière, thì dân quê đã để lại trên chiến trường ba mươi hai khẩu đại bác kiểu Anh. Nước Anh hồi đó xuất tiền cho bọn hoàng thân Pháp, và người ta “cấp vốn cho họ vì người ta đã nói với ông Pitt [1] rằng như vậy mới lịch sự”, theo như thư của Nantiat viết ngày 10 tháng 5 năm 1794. Trong một bản báo cáo ngày 31 tháng 3, Mellinet đã viết: “Tiếng hô của bọn phiến loạn là người Anh muôn năm!” Đám dân quê thường cướp bóc. Bọn sùng đạo này là lũ kẻ cướp. Quân man rợ có sẵn những thói hư. Sau này văn minh sẽ nắm lấy chỗ ấy để điều khiển họ. Puysaye viết trong tập II, trang 187: “Rất nhiều lần tôi bảo vệ thôn Plélan khỏi bị cướp phá”, và tới trang 434, ông viết là ông tránh không vào Montfort: “Tôi phải đi đường vòng để tránh cho nhà những người Jacobin khỏi bị cướp phá”. Họ cướp phá Cholet; họ vơ vét Challans. Sau khi thất bại ở Granville, họ cướp phá Ville-Dieu. Họ gọi những người dân theo cách mạng là “đám dân quèn Jacobin” [2] và tiêu diệt họ ác liệt hơn các tầng lớp khác. Họ thích đâm chém như binh lính và thích tàn sát như kẻ cướp. Họ thích thú nhất là giết những “đồ ngốc”, nghĩa là thị dân: họ gọi thế là “phá giới”. Ở Fontenay, một tên thầy tu trong bọn họ, linh mục Barbotin, đã chém một nhát kiếm giết chết một ông già. Ở Saint-Germain-sur-Ille [3], một tên chỉ huy chính gốc quý tộc, đã bắn một phát súng giết một thẩm phán của xã, và lột lấy chiếc đồng hồ. Ở Machecoul, họ đem giết từng loạt những người cộng hòa, cứ đều đặn mỗi ngày ba chục người liên tiếp, như thế trong năm tuần lễ, mỗi chuỗi ba mươi người gọi là “chuỗi tràng hạt”. Họ bắt mỗi xâu người đứng quay lưng vào một cái hố đào sẵn rồi bắn; những người bị bắn rơi xuống hố, nhiều khi còn sống họ cũng chôn lấp tất cả. Chúng ta đã thấy lại những phong tục man rợ ấy. Chủ tịch quận Joubert bị họ cưa tay. Họ bắt tù binh cộng hòa mang những chiếc cùm tay sắc cạnh. Họ thổi kèn săn rồi hạ sát từng loạt tù binh trên các quảng trường. Tướng Charette, ký tên: Bác ái, hiệp sĩ Charette, và cũng bắt chước Marat đội một chiếc mùi soa thắt nút phía trên lông mày, đã thiêu hủy thị trấn Pornic và tất cả những người ở trong nhà. Hồi ấy, Carrier [4] cũng thật đáng sợ. Khủng bố đáp lại khủng bố. Quân phiến loạn xứ Bretagne cũng hao hao giống quân phiến loạn Hy Lạp, cũng áo ngắn, súng đeo vai, xà cạp, quần rộng lùng thùng như váy xòe; giống hệt như bọn cướp vùng Klephte [5]. Henri De La Rochejaquelein mới hai mươi mốt tuổi đã đi theo bọn phiến loạn với một chiếc gậy và một cặp súng lục. Quân Vendée gồm có một trăm năm mươi tư binh đoàn. Họ hãm thành rất đúng cách; họ bao vây Bressuire ba ngày. Một ngày thứ sáu tuần lễ Thánh [6], một vạn dân quê đã dội vào thị trấn Sables những viên đạn đại bác đỏ rực. Có khi trong một ngày họ tiêu diệt mười bốn đồn của quân cộng hòa từ Montigné đến Courbeveilles. Ở Thouars, trên bờ thành cao, người ta nghe được câu đối thoại lý thú giữa La Rochejaquelein với một tên lính:
- Carl!
- Có.
- Ghé vai đây cho tao leo lên.
- Xin bước lên.
- Đưa súng đây.
- Có.
Rồi La Rochejaquelein nhảy vào trong thành, và không cần thang, họ chiếm được cái pháo đài mà Duguesclin đã vây hãm. Họ quý một viên đạn hơn một đồng tiền vàng. Họ khóc khi nhìn mất hút gác chuông của quê mình.
Chạy trốn đối với họ rất giản đơn; chỉ cần chỉ huy hô: “Vứt guốc đi, giữ lấy súng!” Thiếu đạn, họ cầu kinh rồi xông vào cướp thuốc súng trong các thùng xe chở pháo của quân cộng hòa; về sau Elbée xin được đạn của bọn Anh. Khi đối phương tới gần, nếu có thương binh, họ đem giấu vào trong đồng lúa mì hay bụi đuôi chồn tốt um, đợi yên rồi họ trở lại mang về. Không có đồng phục. Quần áo tả tơi. Dân quê cùng quý tộc vớ được mảnh nào mặc mảnh ấy. Roger Mouliniers đội một chiếc khăn và mặc một chiếc áo lính kiểu Thổ Nhĩ Kỳ cướp được trong kho quần áo của rạp hát La Flèche; hiệp sĩ De Beauvilliers mặc áo biện lý và đội mũ phụ nữ trên chiếc mũ nồi bằng len. Tất cả đều mang đai và thắt lưng trắng; các cấp bậc được phân biệt bằng nơ thắt. Stofflet thắt nơ đỏ; La Rochejaquelein thắt nơ đen; Wimpfen có đôi phần theo phái Girondin, mà cũng ít khi ra khỏi xứ Normandie, mang băng ở cánh tay kiểu dân vùng Caen. Trong hàng ngũ có cả đàn bà: bà De Lescure về sau trở thành vợ La Rochejaquelein; Thérèse De Mollien, tình nhân của La Rouarie, người đã đốt danh sách các cha xứ; bà La Rochefoucauld đẹp, trẻ, kiếm cầm tay, đã tập hợp dân chúng dưới chân tháp lớn của lầu Puy-Rousseau, và Antoinette Adams, thường gọi là hiệp sĩ Adams rất anh dũng, cho nên đến khi y bị bắt, quân cộng hòa vì trọng nể đã cho y đứng để xử bắn. Thời ấy, con người trở nên cuồng bạo. Bà Lescure cho ngựa dẫm lên quân cộng hòa có lẽ bị thương đã ngã xuống; nhưng bà ta bảo họ đã chết. Đàn ông thỉnh thoảng còn phản bội, đàn bà thì không bao giờ. Cô Fleury ở Kịch viện Pháp bỏ La Rouarie theo Marat chỉ vì tình yêu. Chỉ huy thường khi cũng dốt nát như lính; lão De Sapinaud rất kém chính tả; hắn ta viết vần này lẫn sang vần kia. Tướng tá ghen ghét lẫn nhau; bọn chỉ huy thuộc phái Đồng Lầy kêu: “Đả đảo bọn mạn trên!” Kỵ binh ít và khó tổ chức. Puysaye viết: “Một người nào đấy có thể vui vẻ cho tôi hai đứa con, nhưng khi xin họ một con ngựa thì họ tỏ vẻ lạnh nhạt”. Sào, xiên hái, súng cũ, súng mới, mác đi săn, gậy đóng đanh bịt sắt là vũ khí của họ; vài người đeo thánh giá làm bằng hai ống xương người chết. Lâm trận, họ hét vang, xông ra từ khắp nơi, từ rừng, đồi nương nho, đường hẻm, họ đánh tỏa ra, nghĩa là theo thế gọng kìm, họ chém, giết loạn xạ rồi sau đó lại biến mất. Khi qua một xóm cộng hòa, họ hạ Cây Tự Do xuống đốt và nhảy múa vòng quanh lửa. Họ chuyên đi đêm. Kỷ luật quân Vendée: luôn luôn đột xuất. Họ vượt mười lăm dặm im hơi, lặng tiếng, không làm rạp một ngọn cỏ. Tối đến, sau khi các tướng lĩnh và hội đồng quân sự đã quyết định địa điểm hôm sau sẽ đánh úp quân cộng hòa, họ liền lắp đạn vào súng, lẩm nhẩm cầu kinh, rút guốc ra và cứ từng hàng dài, họ luồn qua rừng, chân đất, bước trên cỏ, rêu, không một tiếng động, không một lời nói, không một hơi thở. Chẳng khác mèo đi trong đêm tối.
Chú thích:
[1] William Pitt: Thủ tướng Anh, chống Cách mạng Pháp.
[2] Masse jacobine (nguyên văn) ngụ ý khinh miệt.
[3] Puysaye, tập II, trang 35 (chú thích của tác giả).
[4] Carier (Jean-Baptiste): Nhà cách mạng đã dùng những hình phạt tàn bạo ở Nantes, bị lên máy chém năm 1794.
[5] Dân vùng núi Olympe et Pinde của Hy Lạp chuyên sống bằng nghề ăn cướp.
[6] Ngày Chúa Jésus chết.
VI
Linh hồn đất truyền vào người
Lực lượng miền Vendée nổi loạn gồm khoảng năm mươi vạn đàn ông, đàn bà, trẻ con. Theo con số của Tuffin De La Rouarie thì có nửa triệu người chiến đấu.
Phái Liên Hiệp ủng hộ họ. Miền Gironde là đồng lõa. Tỉnh Lozère phái tới miền Bocage ba vạn người. Tám tỉnh liên kết lại, năm tỉnh ở xứ Bretagne, ba tỉnh ở Normandie. Evreux, kết nghĩa với Caen, có đại biểu trong hàng ngũ phiến loạn là tên đốc lý Chaumont và tên thân hào Gardenbas. Duzot, Gorsas và Barbaroux ở Caen, Brissot ở Moulin, Chassan ở Lyon, Rabaut Saint-Etienne ở Nîme, Meillan và Duchâtel ở Bretagne, tất cả những cái miệng ấy cùng thổi vào đám lửa.
Loạn Vendée có hai phái; phái lớn hơn áp dụng lối đánh dựa vào rừng; phái nhỏ đánh lối du kích; đó là chỗ khác nhau giữa Charette và Jean Chouan. Phái nhỏ thì ngây thơ, phái lớn thì thối nát; phái nhỏ còn khá hơn. Charette được phong tước hầu, khâm sai quân thứ và được gắn đệ nhất đẳng huân chương Thánh Louis; Jean Chouan gần như hiệp sĩ giang hồ.
Về phần các ngài thủ lĩnh cao thượng như Bonchamps, Lescure, La Rochehaquelein, họ đã nhầm. Đội quân công giáo là một cố gắng điên rồ; tai họa nhất định xảy ra; có thế nào tưởng tượng nổi một đám dân quê cuồng loạn tấn công Paris, một số thôn xã liên kết bao vây điện Panthéon, một mớ câu hát, câu kinh sủa chung quanh bài Marseillaise, một đám người chân guốc nhảy xổ vào đội quân trí tuệ? Le Mans và Savenay [1] đã trừng phạt trò điên rồ ấy. Vượt qua sông Loire, bọn Vendée không thể làm nổi. Chúng có thể làm tất cả trừ việc sang sông này. Nội chiến không chinh phục đất đai. Vượt qua sông Rhin là tạo điều kiện cho César hoàn thành sự nghiệp và tăng uy tín cho Napoléon; vượt qua sông Loire là tiêu diệt La Rochejaquelein.
Loạn Vendée thật sự phải ở trên đất Vendée; ở đấy thì không thể đánh tan họ và hơn thế, không thể túm được họ. Ở quê họ, người Vendée là người buôn lậu, dân cày, linh mục, người săn bắn trộm, quân du kích, người chăn dê, người kéo chuông, dân quê, mật thám, sát nhân, người giữ kho nhà thờ, thú rừng.
La Rochejaquelein chỉ là Achille còn Jean Chouan là Protée [2].
Loạn Vendée đã dậy non, nhiều cuộc khởi nghĩa khác đã thành công, như ở Thụy Sĩ chẳng hạn. Nghĩa quân miền núi Thụy Sĩ khác với quân nổi loạn miền rừng Vendée là, hầu như bao giờ cũng thế, do ảnh hưởng không tránh khỏi của hoàn cảnh, người này thì chiến đấu vì một lý tưởng, kẻ kia vì những thành kiến. Người này thì bay bổng, kẻ kia thì bò sát đất. Một bên chiến đấu vì nhân loại, bên kia vì muốn cô độc. Một bên muốn tự do, bên kia muốn biệt lập; bên thì bảo vệ thôn xã, bên kia bảo vệ giáo khu. Hỡi nhân dân thôn xã! Đó là tiếng kêu của những vị anh hùng ở Morat [3]. Bên này đối phó với vực thẳm, bên kia với đồng lầy; một bên là người của thác ghềnh bọt sóng, bên kia là người của ao tù, sốt rét; một bên trên đầu là bầu trời xanh thẳm, bên kia trên đầu là bụi rậm; một bên ở đỉnh cao chót vót, bên kia nấp trong bóng tối.
Ở trên đỉnh cao hay ở dưới đất thấp, sự giáo dục thật không giống nhau.
Núi là thành lũy, rừng là nơi phục kích; ở núi khiến người ta phải dũng cảm, ở rừng phải nghĩ đến cạm bẫy. Thời cổ sơ đặt các chính thần ở trên đỉnh núi cao và các quái thần trong bụi rậm. Quái thần là giống man rợ, nửa người nửa thú. Những quốc gia tự do có các dãy núi Apennins, Alpes, Pyrénées, Olympe. Parnasse [4] là một ngọn núi. Mont-Blanc là trợ thủ khổng lồ của Guillaume Tell [5]; bên trong và bên trên những cuộc chiến đấu của thần linh chống lại đêm tối đầy rẫy trong thơ ca Ấn Độ, người ta thấy bóng dáng Himalaya. Nước Hy Lạp, nước Tây Ban Nha, nước Ý, nước Helvétie có bộ mặt là núi non; xứ Cimmérie, xứ Germanie hoặc xứ Bretagne có bộ mặt là rừng rú. Rừng rú là man rợ.
Hình thế đất đai dạy cho con người nhiều cách hoạt động. Địa lý hỗ trợ cho cuộc sống. Đứng trước những phong cách rùng rợn, người ta nảy ra ý muốn tha thứ cho con người và buộc tội tạo hóa; người ta cảm thấy một sự khiêu khích ngấm ngầm của thiên nhiên; sa mạc đôi khi làm hại đến lương tri, nhất là lương tri ít sáng suốt. Lương tri có thể vĩ đại, làm nên Socrate và Jésus; nó có thể thấp bé, tạo nên Atrée và Judas [6]. Lương tri hèn mọn chóng trở thành bò sát. Cái nghiệp của nó là lai vãn những nơi rừng rú âm u, gai góc, trong vũng lầy dưới bụi cây, thường bị những ám ảnh xấu xa thấm vào mà không hay. Những ảo tưởng, những ảo cảnh, những lầm lạc về thời gian và không gian ném con người vào một bối cảnh hoảng sợ, nửa thần bí, nửa thú vật khiến thời bình thì sinh ra mê tín, và thời loạn sinh ra bạo tàn. Những ảo giác cầm đuốc soi đường cho việc giết người. Có trạng thái hôn mê trong tên cướp. Thiên nhiên kỳ diệu một mặt làm sáng chói những bậc tài cao nhưng mặt khác làm mờ mắt những đầu óc man rợ. Khi con người còn dốt nát, khi sa mạc còn đầy ảo ảnh, thì bóng tối của cô đơn nhập với bóng tối của trí tuệ; từ đó trong con người mở ra những vực thẳm. Một vài mõm núi, đường hào, lùm cây, rừng thưa hoang dại nào đấy lúc chiều hôm đẩy con người tới những hành động điên rồ tàn ác. Hầu như có thể nói được rằng đất cũng có những nơi hiểm độc.
Ngọn đồi âm u giữa Baignon và Plélan đã chứng kiến biết bao điều bi thảm!
Những chân trời rộng lớn đưa tâm hồn lên tới những tư tưởng tổng quát; những chân trời bó hẹp đẻ ra những tư tưởng vụn vặt. Cái đó đôi khi làm cho những người có tấm lòng rộng lớn thành những đầu óc nhỏ nhen; ví dụ: Jean Chouan.
Những ý niệm lặt vặt thường không ưa những ý niệm chung bao quát; đó cũng chính là cuộc đấu tranh cho tiến bộ.
Xứ sở, tổ quốc, hai chữ đó tóm tắt cuộc chiến tranh ở Vendée; đó là sự tranh chấp giữa ý thức cục bộ với ý thức toàn bộ, dân quê chống lại những người yêu nước.
Chú thích:
[1] Hai thị trấn phía trên sông Loire.
[2] Thần biển, có tài thiên biến vạn hóa.
[3] Thành phố và hồ cùng tên ở Thụy Sĩ, nổi tiếng vì chiến thắng của quân và dân Thụy Sĩ chống xâm lăng năm 1476.
[4] Ở Hy Lạp cổ đại, nơi ở của Apollon và các thi thần.
[5] Một vị anh hùng truyền thuyết của Thụy Sĩ có tài bắn giỏi và chí khí hiên ngang. Nhiều nhà thơ trong đó có Schiller đã viết về người anh hùng.
[6] Atrée: Nhân vật phản diện trong thần thoại Hy Lạp. Judas: Phản bội Jésus.
VII
Sự kiện Bretagne
Từ lâu đời, xứ Bretagne luôn luôn nổi loạn. Suốt hai nghìn năm những lần nổi dậy ở xứ này đều hợp với lẽ phải; chỉ lần cuối cùng là sai lầm. Tuy nhiên, về căn bản, chống cách mạng hoặc chống chính thể quân chủ, chống đặc phái viên cộng hòa hoặc chống các tổng trấn là quận công và đại thần, chống tín phiếu cách mạng hoặc chống thuế muối thời quân chủ, dù người đi chiến đấu là nhân vật nào chăng nữa, là Nicolas Rapin, François De La Noue, là đại úy Pluviaut và phu nhân De La Garnache hoặc là Stofflet, Coquereau và Lechandelier De Pierreville, dưới thời ông Rohan chống vua hay ông Rochejaquelein phò vua, bao giờ xứ Bretagne cũng làm một thứ chiến tranh mang tính chất địa phương chống lại tinh thần trung ương tập quyền.
Cái xứ cổ lỗ ấy, là một loại ao hồ; nước tù không chịu chảy; gió thổi không gây thêm sinh khí, mà chỉ làm cho mặt nước nhăn nhó, giận dữ. Tỉnh Finisterre, là nơi tận cùng của đất Pháp, là nơi tận cùng của địa bàn đã trao cho con người, mà cũng là nơi mà cuộc tiến bước của các thế hệ dừng lại. Dừng lại! Đó là đại dương kêu lên với đất liền, và dã man kêu lên với văn minh. Tất cả những lần mà trung tâm là Paris phát ra một động lực, dù động lực ấy xuất phát từ nền quân chủ hay nền cộng hòa, dù theo hướng chuyên chế hay tự do, cũng đều là một điều mới mẻ, và xứ Bretagne lại xù lông ra. Hãy để chúng tôi yên. Người ta muốn gì nào? Rồi phái Đồng Lầy cầm xiên, miền Bocage cầm súng. Tất cả những mưu toan của chúng ta, những sáng kiến về pháp lý, về giáo dục, những cuốn bách khoa tự điển, những triết lý, những nhân tài, những vinh quang của chúng ta đều mắc cạn trước đất Houroux; tiếng chuông báo động ở Bazouges uy hiếp Cách mạng Pháp, bưng biền Faou nổi dậy chống lại những quảng trường của chúng ta đang sôi sục sóng gió cách mạng, và tiếng chuông của vùng Haut-des-Prés tuyên chiến với tháp Le Louvre.
Nạn điếc kinh khủng.
Cuộc nổi loạn Vendée là một sự hiểu lầm thảm khốc.
Một cuộc va chạm long trời lở đất, một cuộc tranh chấp giữa những người khổng lồ, một cuộc nổi dậy tràn lan, mục đích chỉ để lại trong lịch sử một tiếng, Vendée, vang dội và đen tối; tự sát vì bọn lưu vong, hy sinh cho sự ích kỷ, đem dũng cảm dâng cho hèn nhát; thiếu tính toán, thiếu chiến lược, thiếu chiến thuật, thiếu kế hoạch, thiếu mục đích, thiếu chỉ huy, thiếu trách nhiệm, tất cả chứng tỏ rằng đến độ nào đó, nghị lực có thể là bất lực; vừa hào hiệp vừa man rợ; vô nghĩa đến điên rồ, dựng lên một hàng rào bóng tối để ngăn cản ánh sáng; sự dốt nát tiến hành một cuộc kháng cự trường kỳ vừa ngu xuẩn vừa hùng tráng chống lại chân lý, công lý, pháp lý, lẽ phải, sự nghiệp giải phóng; nỗi kinh hoàng suốt tám năm trời, mười bốn tỉnh bị tàn phá, đồng ruộng mùa màng bị hủy hoại, làng mạc bị đốt cháy, thành thị tan hoang, nhà cửa bị cướp bóc, đàn bà và trẻ con bị giết, mồi lửa châm vào mái rạ, lưỡi gươm thọc vào trong tim nỗi hoảng sợ của văn minh, mối hy vọng của ngài Pitt; cuộc chiến tranh này là thế đấy, một mưu đồ thí nghịch vô ý thức Tóm lại, sự kiện Vendée đã phục vụ cho tiến bộ, nó chứng minh điều cần thiết là phải chọc thủng tan tành cái bóng tối già cõi là xứ Bretagne và phải bắn xuyên thủng cái bụi rậm này bằng tất cả các mũi tên của ánh sáng cùng một lúc. Những tai họa có một phương thức tối tăm để dàn xếp mọi việc.