Quyển hai Ba đứa trẻ I Plus quam civila bella (hơn cả nội chiến)
Mùa hè năm 1792, mưa rất nhiều; mùa hè năm 1793 lại nóng rất dữ. Vì nội chiến, ở xứ Bretagne có thể nói rằng không còn đường sá nữa. Tuy vậy, người ta vẫn đi lại nhờ những ngày hè nắng ráo. Đất khô là đường đi tốt nhất.
Một buổi chiều tháng bảy êm ả, khoảng một giờ sau lúc mặt trời lặn, một người cưỡi ngựa từ phía Avranches, dừng lại trước quán Croix-Branchard ở đầu lối vào thị trấn Pontorson, trước quán có tấm biển mấy năm gần đây người ta còn đọc được giòng chữ này: Rượu táo ngon tha hồ túy lúy. Suốt ngày trời nóng bức, nhưng lúc này đã bắt đầu có gió.
Người khách khoác một chiếc áo choàng rộng phủ kín mông ngựa. Ông ta đội chiếc mũ rộng vành có huy hiệu tam tài, điều đó không phải là không táo bạo ở cái xứ toàn là bụi rậm, huy hiệu là mục tiêu cho những phát súng. Ông ta mặc chiếu áo choàng thắt nút ở cổ, phanh ra để đôi cánh tay được cử động tự do; người ta có thể thoáng thấy chiếc thắt lưng tam tài và hai chuôi súng lục nhô ra ngoài. Một thanh gươm lủng lẳng thò ra khỏi chiếc áo choàng.
Nghe tiếng chân ngựa dừng lại, người chủ quán mở cửa xách đèn lồng kính đi ra. Đấy là lúc tranh tối tranh sáng; ngoài đường còn sáng nhưng trong nhà đã tối như bưng.
Lão chủ quán nhìn cái huy hiệu và hỏi:
- Công dân, ông nghỉ lại đây chứ?
- Không.
- Ông đi đâu bây giờ?
- Đến Dol.
- Nếu như vậy, phải trở lại Avranches hoặc Pontorson.
- Tại sao vậy?
- Vì đang đánh nhau ở Dol.
- À!
Người cưỡi ngựa kêu lên một tiếng, rồi tiếp luôn:
- Cho ngựa tôi một ít lúa mạch nhé.
Lão chủ quán đem cái máng đến, dốc hết một bao lúa mạch vào rồi tháo ngựa, con ngựa vừa ăn vừa thở phì phò.
Câu chuyện giữa hai người lại tiếp tục.
- Công dân, đây là ngựa trưng dụng có phải không?
- Không.
- Của ông à?
- Vâng, tôi đã mua và trả tiền.
- Ông ở đâu đến?
- Paris.
- Không đi thẳng một mạch được chứ gì?
- Không.
- Tôi biết mà, đường sá bị chặn hết. Nhưng xe trạm thì vẫn còn.
- Vâng. Cho đến Alençon. Tôi vừa mới rời xe trạm ở đó.
- Thế à! Rồi xem ít lâu nữa, trên nước Pháp chẳng còn xe nữa. Hết ngựa rồi. Một con ngựa ba trăm quan nay phải trả đến sáu trăm quan, còn rơm cỏ thì đắt quá giá. Trước kia tôi làm đội trạm, thế mà bây giờ đành làm chủ quán. Trên một nghìn ba trăm mười ba đội trạm thì hai trăm xin nghỉ việc. Công dân này, ông đã đi xe theo giá mới phải không?
- Giá mới từ ngày một tháng năm. Đúng thế.
- Đi xe lớn chở khách thì mỗi chặng mất hai hào, xe con hai bánh thì mất hào hai mà xe chở hàng thì năm xu. Có phải ông mua ngựa này ở Alençon không?
- Vâng.
- Hôm nay, ông đi suốt cả ngày ư?
- Từ tảng sáng.
- Và hôm qua?
- Và cả hôm kia nữa.
- Tôi hiểu rồi. Ông đi lối Domfront và Mortain.
- Và Avranches.
- Công dân, nói thật đấy, nên nghỉ lại đi. Ông mệt rồi, ngựa cũng mệt rồi.
- Ngựa có quyền mệt, chứ người thì không.
Lão chủ quán lại chăm chăm nhìn người khách. Một khuôn mặt đạo mạo, bình tĩnh và nghiêm khắc dưới vầng tóc xám.
Lão chủ quán đưa mắt nhìn quãng đường thăm thẳm, vắng teo và hỏi:
- Vậy ông đi một mình như thế à?
- Không. Tôi có hộ vệ.
- Đâu?
- Gươm và súng lục của tôi.
Lão chủ quán đi lấy một thùng nước và cho ngựa uống, rồi trong lúc con ngựa uống nước, lão lại ngắm nghía người khác và nghĩ thầm: “Không hề gì, ông này có vẻ thầy tu”.
Người cưỡi ngựa hỏi tiếp:
- Lão bảo người ta đánh nhau ở Dol à?
- Vâng. Chắc lúc này bắt đầu rồi đấy.
- Ai đánh với ai thế?
- Một cựu quý tộc đánh nhau với một cựu quý tộc.
- Lão bảo sao?
- Tôi nói một cựu quý tộc theo cộng hòa đánh nhau với một cựu quý tộc theo vua.
- Nhưng làm gì còn vua nữa.
- Còn có vua con. Và điều lạ, là hai cựu quý tộc ấy lại là thân thuộc.
Người cưỡi ngựa chăm chú nghe. Lão chủ quán nói:
- Một người trẻ, một người già; chính là cháu đánh nhau với ông bác. Ông bác thì bảo hoàng, cháu thì yêu nước. Ông bác thì chỉ huy phe Trắng, cháu thì chỉ huy phe Xanh. Ái dà! Rồi họ chẳng tha nhau đâu. Một cuộc tử chiến.
- Tử chiến?
- Vâng, công dân ạ. Này, ông có muốn xem cách họ đối đáp với nhau không? Đây là một tờ tuyên cáo mà lão già cho dán khắp nơi, khắp mọi nhà, khắp các cây và cả ngay trước cửa nhà tôi.
Lão chủ quán ghé đèn lại gần một tờ giấy vuông dán trên một cánh cửa và nhờ tờ tuyên cáo in chữ to nên khách ngồi trên mình ngựa có thể đọc được như sau:
Hầu tước Lantenac rất hân hạnh báo cho người cháu của ông ta là ngài tử tước Gauvain biết rằng nếu hầu tước may mắn bắt được ngài tử tước thì sẽ bắn ngay lập tức.
Lão chủ quán lại tiếp:
- Và đây là câu trả lời.
Lão quay lưng, áp đèn soi một tờ tuyên cáo khác, dán trên một cánh cửa bên cạnh đối diện với tờ kia. Người khách đọc:
Gauvain báo trước cho Lantenac là nếu bắt được y thì ông ta sẽ bắn y chết.
Lão chủ quán nói:
- Mới hôm qua, tờ tuyên cáo đầu vừa dán trước cửa nhà tôi thì sáng hôm nay lại đã có tờ thứ hai. Đối đáp tức thời.
Người khách lẩm bẩm như nói với mình những tiếng mà lão chủ quán nghe chẳng hiểu ra sao cả:
- Đúng, hơn là chiến tranh trong nước, đây là chiến tranh trong gia đình. Phải thế và thế là đúng. Những sự hồi xuân vĩ đại của các dân tộc phải trả giá như thế đấy.
Và người khách mắt chăm chú nhìn tờ tuyên cáo thứ hai đưa tay lên mũ chào.
Lão chủ quán lại tiếp tục:
- Công dân ạ, sự việc như thế này: trong các thành phố và các thị trấn lớn chúng ta theo cách mạng, còn thôn quê thì chống lại; có thể nói là ở thành phố người ta là dân nước Pháp và trong các làng mạc, người ta là dân xứ Bretagne. Chính là một chiến tranh giữa thị dân và dân quê. Họ bảo chúng ta là “bọn phệ” và chúng ta gọi họ là lũ “quê kệch”. Bọn quý tộc và thầy tu đều theo họ.
- Không phải tất cả. - Người cưỡi ngựa nói.
- Chính thế, công dân ạ, bởi vì ở đây chính là một tử tước đánh nhau với một hầu tước.
Và lão ta như nói thêm với riêng mình:
- Và đúng là mình đang nói chuyện với một giáo sĩ.
Người cưỡi ngựa hỏi tiếp:
- Thế thì ai thắng?
- Cho tới nay thì tử tước thắng. Nhưng mà cũng vất vả lắm. Lão già cũng ghê lắm, các vị ấy thuộc dòng họ Gauvain, quý tộc ở xứ này. Dòng họ ấy có hai ngành, ngành trên, trưởng ngành là hầu tước De Lantenac, ngành dưới, trưởng ngành là tử tước Gauvain. Hiện nay hai ngành đang đánh nhau. Cây cối thì chẳng thấy thế bao giờ [1] nhưng người thì có thế đấy. Hầu tước De Lantenac rất có uy thế ở xứ Bretagne này, đối với dân quê, đó là một ông hoàng. Hôm ông ta đổ bộ, đã có ngay tám nghìn người theo ông ta. Sau một tuần có ba trăm giáo khu nổi dậy. Nếu ông ta chiếm được một nơi ở ven biển thì quân Anh đã đổ bộ rồi. May thay, lại có ông Gauvain ở đó, mà lại là cháu ông ta, chuyện mới kỳ quái chứ. Ông Gauvain chỉ huy quân đội cộng hòa, và đã chặn đường ông bác lại. Rồi lão già Lantenac, khi vừa đến và tàn sát một toán tù binh, đã sai bắn hai người đàn bà trong đó có một chị có ba đứa con được tiểu đoàn Paris đỡ đầu. Việc này làm cho tiểu đoàn trở nên hung dữ. Đấy là tiểu đoàn Mũ Đỏ. Cái tiểu đoàn dân Paris ấy chẳng còn được nhiều người nữa nhưng họ đều là những tay đâm lê dữ dội. Họ đã sáp nhập vào đoàn quân của ông Gauvain. Không ai cự nổi họ. Họ đang muốn trả thù cho hai người đàn bà và giành lại mấy đứa trẻ. Người ta không hiểu lão già ấy đã làm gì với mấy đứa trẻ kia. Chính cái đó đã làm cho những người lính Paris phát điên lên. Ví thử mấy đứa trẻ không dính dấp vào cuộc chiến tranh này thì cục diện không đến nỗi như thế đâu. Tử tước là người tốt, trẻ tuổi và dũng cảm. Nhưng lão già là một hầu tước kinh khủng. Dân quê gọi cuộc chiến tranh này là cuộc chiến tranh của thánh Michel [2] chống với quỷ Belzébuth [3]. Ông hẳn biết thánh Michel là vị thần ở xứ này. Ngài có riêng một ngọn núi ở giữa biển phía trong vịnh. Ngài đến để đánh chết con quái vật và đem vùi xác nó dưới một ngọn núi khác ở gần đây gọi là núi Tombelaine.
- Vâng - Người cưỡi ngựa lẩm bẩm - Tumba Beleni nghĩa là cái mồ của Belebus, của Bel, của Bélial, của Belzébuth.
- Tôi thấy là ông am hiểu đấy.
Rồi lão chủ quán nói một mình:
- Nhất định rồi, ông ta biết tiếng La-tinh, đúng là một thầy tu.
Rồi lão chủ quán lại nói tiếp:
- A này, công dân ạ, đối với dân quê, thì chính là cuộc chiến tranh vừa nói đó lại tái diễn. Không cần phải nói, đối với họ thì thánh Michel là vị tướng bảo hoàng và con yêu quái Belzébuth là vị chỉ huy yêu nước kia; nhưng nếu có yêu quái thì chính đó là Lantenac và nếu có một vị thiên thần thì đó là Gauvain. À, ông không dùng gì sao?
- Tôi có bình nước với ít bánh. Nhưng lão chưa nói hết với tôi về tình hình ở thị trấn Dol.
- Như thế này. Ông Gauvain chỉ huy quân chinh phạt vùng bờ biển. Mục đích của Lantenac là làm cho khắp nơi nổi loạn, lấy vùng dưới xứ Bretagne dựa vào vùng dưới xứ Normandie, mở cửa cho Pitt và dùng hai vạn quân Anh cùng hai mươi vạn dân quê giúp sức cho đại quân xứ Vendée. Nhưng Gauvain đã chặn đứng kế hoạch đó. Ông ta giữ chặt bờ biển, dồn Lantenac vào nội địa và đẩy quân Anh ra ngoài khơi. Trước kia Lantenac đóng ở đây, nhưng Gauvain đã đánh bật lão ta đi, Gauvain đã chiếm lại Pont-au-Beau, đuổi lão ra khỏi Avranches, Villedieu, chặn không cho lão tới Granville. Gauvain điều quân dồn Lantenac vào khu rừng Fougères và bao vây lão ta ở đó. Tình hình rất tốt. Lão Lantenac đã khôn khéo mở ra một mũi; được tin lão đang tiến quân về phía Dol. Nếu lão chiếm được thị trấn Dol và đặt trên núi Dol một khẩu đội, vì lão cũng có trọng pháo, thì đấy là một chỗ ở bờ biển cho quân Anh đổ bộ và như thế là cả vùng này sẽ rơi vào tay lão. Vì thế không để lỡ một chút, ông Gauvain, một người cương nghị, tự tin, không đợi xin chỉ thị, liền nổi kèn, kéo pháo tập trung quân, tuốt gươm, và trong khi Lantenac xông tới Dol thì Gauvain nhảy bổ vào Lantenac. Hai trận tuyến trên đất Bretagne sắp đụng độ nhau ở Dol. Một cuộc chạm trán nảy lửa. Hiện giờ họ đã ở đấy.
- Từ đây đến Dol phải mất bao nhiêu thì giờ?
- Hành quân có xe pháo ít nhất cũng phải ba giờ; nhưng họ tới đó rồi.
Người khách lắng tai và bảo:
- Quả vậy, tôi nghe như có tiếng đại bác.
Lão chủ quán lắng nghe.
- Đúng rồi, công dân ạ. Và có cả những loại súng ngắn, nghe như xé vải. Ông nên nghỉ lại đây. Đến đấy thì chẳng gặp điều lành đâu.
- Tôi không thể nghỉ lại. Tôi phải đi.
- Không nên đi ông ạ. Tôi chẳng hiểu công việc của ông, nhưng nguy hiểm lắm, nếu như không phải vì người thân nhất trên đời...
- Ấy chính vì thế. - Người cưỡi ngựa trả lời.
- Hình như là con trai của ông...
- Gần thế. - Người cưỡi ngựa đáp.
Lão chủ quán ngẩng đầu lên và tự nhủ:
- Dầu sao cái ông công dân này vẫn có vẻ thầy tu.
Và sau một lúc suy nghĩ:
- Thầy tu, mà ông ta lại có con.
- Đóng lại cương ngựa cho tôi - Người khách bảo - Hết bao nhiêu?
Rồi ông ta trả tiền.
Lão chủ quán xếp cái chậu và thùng nước vào cạnh tường và trở lại bên người khách.
- Vì ông đã quyết định đi thì ông nên nghe tôi. Rõ ràng là ông định đi Saint-Malo. Thế thì chớ đi con đường qua Dol. Có hai đường, một đường qua Dol và một đường men theo biển. Chẳng đường nào ngắn hơn đâu. Con đường ven biển sẽ qua Saint-Georges de Brehaigne, Cherrueix và Hirel-le-Vivier. Ông đi giữa Dol ở phía nam và Cancale ở phía bắc. Đến đầu đường phố này ông sẽ thấy hai lối rẽ; sang trái là đi về Dol còn đi Saint-Georges de Brehaigne thì rẽ tay phải. Ông hãy nghe tôi, nếu ông đi qua Dol thì ông sẽ rơi vào giữa cuộc chém giết. Vì thế không nên rẽ về bên trái mà nên theo lối tay phải.
- Cảm ơn. - Người khách nói.
Rồi ông ta thúc ngựa đi.
Trời đã tối hẳn, người cưỡi ngựa lao vào trong đêm mù mịt. Lão chủ quán nhìn theo đã mất hút.
Khi người khách đến đầu con đường rẽ, ông ta nghe từ xa tiếng lão chủ quán gọi to:
- Đi về bên phải!
Người cưỡi ngựa rẽ sang trái.
Chú thích:
[1] Ý nói cây cối thì chẳng bao giờ hai cành cùng gốc lại đánh nhau. Từ branche trong tiếng Pháp vừa có nghĩa là “ngành họ”, vừa có nghĩa là “cành cây”.
[2] Thiên thần trông coi công việc trị an.
[3] Ma quỷ, tinh ma, láo xược (theo Thánh kinh).
II
Dol
Các vị chức sắc nhà thờ vẫn gọi Dol là thành phố Tây Ban Nha trên đất Pháp, trong xứ Bretagne, nhưng Dol không phải là một thành phố mà chỉ là một đường phố.
Một đường phố lớn, cũ kỹ kiểu gô-tích, hai bên đường rộng thênh thang san sát những dãy nhà có cột chẳng ra hàng lối gì, cái thụt vào, cái nhô ra. Còn lại là một mạng lưới những ngõ ngách nhỏ nối liền với đường lớn và đổ về đó như nhiều con suối đổ vào một dòng sông. Thành phố không có cửa ô, chẳng có tường thành, trống trải, điểm cao là núi Dol, bị bao vây thì không thể nào chống lại được; nhưng đường phố thì có khả năng chống giữ. Những ngôi nhà nhô lên, năm mươi năm trước người ta vẫn còn thấy, và hai dãy hiên giữa hàng cột lớn làm cho đường phố trở thành một vị trí chiến đấu hết sức kiên cố và có thể cầm cự được lâu dài. Bao nhiêu nhà là bấy nhiêu pháo đài; và phải chiếm từng nhà một. Cái chợ cũ xây gần giữa phố.
Lão chủ quán ở Croix-Branchard đã nói đúng, chính lúc lão kể chuyện là lúc phố Dol đang ngập trong một cuộc hỗn chiến điên cuồng. Một trận đọ súng ban đêm đột nhiên nổ ra trong thành phố giữa bọn Trắng tới đây ban sáng và phe Xanh thình lình kéo đến lúc chiều. Lực lượng hai bên chênh lệch nhau, phe Trắng có sáu nghìn quân, phe Xanh chỉ có nghìn rưỡi, nhưng kể về quyết tâm chiến đấu thì hai bên lại ngang nhau. Điều đáng chú ý là chính phía nghìn rưỡi quân đã tấn công phía sáu nghìn.
Một bên là đám ô hợp, một bên là quân đội chính quy. Một bên là sáu nghìn dân quê, trên áo da gắn hình trái tim Chúa, đội mũ tròn buộc những giải băng trắng, trên băng tay viết những châm ngôn Thiên Chúa giáo, thắt lưng đeo tràng hạt, trang bị bằng nhiều chàng nạng hơn là gươm, hoặc bằng súng ngắn, không có lưỡi lê, dùng dây thừng buộc pháo mà kéo, tổ chức kém, kỷ luật kém, trang bị kém, nhưng hết sức cuồng tín. Còn bên kia là một nghìn rưỡi binh sĩ đầu đội mũ chào mào có huy hiệu tam tài, áo thân trước rộng và ve áo to, dây đeo kiếm bắt chéo lại, gươm cong và có chuôi bằng đồng và súng trường cắm lưỡi lê dài, có hàng ngũ thuần thục, và cũng hung dữ, biết tuân lệnh như những người đã từng biết chỉ huy, cũng là lính tình nguyện, nhưng là tình nguyện vì tổ quốc, ngoài ra thì trang phục rách rưới, chân không; bên phía bảo hoàng là những dân quê phiêu lưu, bên phía cách mạng là những vị anh hùng chân đất; ở cả hai phe người chỉ huy là linh hồn của đơn vị, bên bảo hoàng là một lão già, bên cộng hòa là một chàng trai. Một bên là Lantenac, một bên là Gauvain.
Cách mạng có những thanh niên vĩ đại như Danton, Saint-Just và Robespierre và những thanh niên lý tưởng như Hoche và Marceau. Gauvain là một trong những người ấy.
Gauvain trạc ba mươi tuổi, vóc người lực lưỡng có cặp mắt nghiêm nghị của một nhà tiên tri và nụ cười của một em bé. Ông ta không hút thuốc, không uống rượu, không văng tục. Ra trận ông ta đem theo đồ trang điểm; ông ta giữ gìn rất cẩn thận móng tay, hàm răng, mái tóc đẹp màu đen nâu. Và những lúc dừng chân, ông ta tự tay giũ trước gió bộ quân phục chỉ huy của mình đã bị đạn bắn thủng lỗ chỗ và bụi bám trắng xóa. Luôn luôn hăng say lao vào đám hỗn chiến, ông ta chưa bao giờ bị thương. Tiếng nói của ông hết sức dịu dàng nhưng lâm thời lại có những giọng sang sảng đột ngột của người chỉ huy. Ông nêu gương nằm đất, dưới gió rét, dưới mưa, trong tuyết, mình cuộn tròn trong áo khoác, đầu gối lên một tảng đá. Một tâm hồn dũng cảm và trong trắng. Lúc tay vung gươm thì nét mặt ông ta thay đổi hẳn. Cái dáng điệu ẻo lả của ông khi lâm trận lại trở nên táo tợn.
Ngoài ra, Gauvain là nhà tư tưởng và triết gia, một bậc hiền nhân trẻ tuổi, trông thấy ông ta thì tưởng là một Alcibiade [1], nghe ông ta nói thì tưởng là Socrate, trong một cuộc đột biến lớn lao như cách mạng Pháp, chàng trai này tức khắc trở thành tướng lĩnh.
Đội quân do ông ta xây dựng, giống như một quân đoàn thời cổ La Mã, một kiểu binh đoàn nhỏ bé nhưng hoàn chỉnh. Có cả bộ binh và kỵ binh; có trinh sát, có lính đào hào, có công binh, có lính làm cầu: và quân đoàn thời cổ La Mã có máy bẫy đá, thì binh đoàn ông ta có trọng pháo. Ba khẩu pháo thắng vào xe làm cho đơn vị mạnh mà vẫn cơ động.
Lantenac cũng là một tướng lĩnh, nhưng ác hơn. Lão ta vừa suy tính kỹ hơn lại vừa táo tợn hơn. Lớp lão tướng thường điềm đạm hơn lớp thanh niên vì họ đã xa buổi bình minh, và họ táo tợn hơn vì đã gần cõi chết. Họ còn gì để mà mất? Rất ít thôi. Do đó mà Lantenac có những cuộc hành quân vừa táo bạo vừa khôn khéo. Nhưng rút cục, và hầu như bao giờ cũng thế, trong cuộc vật lộn dai dẳng giữa một lão già và một thanh niên, Gauvain vẫn chiếm ưu thế. Đó chỉ là hồng vận. Tất cả mọi diễm phúc, cho đến cả loại diễm phúc kinh khủng đều thuộc phần tuổi trẻ. Chiến thắng cũng ưa chuộng tuổi trẻ.
Lantenac giận Gauvain sôi lên, trước hết vì Gauvain thắng lão ta, sau nữa Gauvain lại là thân thuộc của lão. Sao nó lại đi theo bọn Jacobin? Cái thằng Gauvain kia! Cái thằng ranh con! Cháu thừa kế của lão, vì lão không có con, một thằng cháu họ cũng gần như cháu đích tôn! Ông bác ấy đã phải thốt lên: “Ta mà tóm được nó thì ta sẽ giết nó như giết một con chó!”
Vả lại, chính phủ cộng hòa có lý do để lo ngại về lão hầu tước De Lantenac này. Vừa mới đặt chân lên đất liền, lão đã làm rung chuyển khắp vùng. Tên tuổi lão truyền đi khắp Vendée phiến loạn như một làn thuốc súng, và tức khắc, Lantenac trở thành trung tâm. Trong một cuộc nổi loạn như kiểu này, mà tất cả ganh ghét nhau và mỗi người chiếm cứ riêng một bụi rậm, một đường hào, thì một kẻ bề trên xuất hiện có thể liên kết được bọn thủ lĩnh rời rạc, cá đối bằng đầu. Hầu hết bọn tướng lục lâm đều theo Lantenac, và dù ở gần hoặc xa cũng đều tuân lệnh răm rắp.
Chỉ có một người bỏ hắn, đó là Gavard, kẻ đầu tiên đã đi theo hắn. Tại sao vậy? Gavard là một kẻ tâm phúc. Gavard nắm được mọi điều bí mật và đã áp dụng những kế hoạch hành binh kiểu cũ của nội chiến thì Lantenac đến đã thay đổi cả. Ai lại đi kế thừa một người tâm phúc; đi thừa của La Rouarie: Lantenac không thèm xỏ chân vào. Gavard đã bỏ Lantenac để đến với Bonchamps [2].
Về mặt quân sự, Lantenac thuộc trường phái Frédéric II; lão ưa phối hợp lối đánh quy mô với lối đánh du kích. Lão không vừa lòng với một “khối ô hợp” như đội quân Thiên Chúa giáo và bảo hoàng, một đám đông chỉ đi đến chỗ bị tiêu diệt; lão cũng không ưa những toán quân tản mạn trong rừng, trong bụi, chỉ quấy rối được chứ không thể quật ngã kẻ địch. Lối đánh du kích không thể kết thúc hoặc kết thúc một cách thảm hại; lúc khởi sự thì tấn công cả một nền cộng hòa, và rút cuộc thì là cướp giật một chuyến xe ngựa. Lantenac không quan niệm cuộc chiến tranh ở xứ Bretagne này hoàn toàn là trận địa chiến ở đồng bằng như La Rochejaquelein và cũng không hoàn toàn là ở rừng rú như Jean Chouan; không thể theo kiểu Vendée cũng không thể theo kiểu Chouan được. Lão muốn một cuộc chiến tranh thực sự; sử dụng dân quê nhưng phải dựa vào quân đội. Lão muốn vừa có những toán dân quê vũ trang để dùng trong chiến lược, lại vừa có những trung đoàn trong chiến thuật. Lối phục kích và tấn công bất ngờ rất thích hợp với dân quê vũ trang, tán tụ nhanh chóng. Nhưng những toán quân như thế lỏng lẻo lắm; như nước trong lòng bàn tay; lão muốn tạo nên một điểm vững chắc trong cuộc chiến tranh bồng bềnh và tản mạn này; lão muốn bổ sung cho đám quân, man rợ ở rừng núi một đội quân chính quy làm nòng cốt để huy động dân quê. Ý nghĩ thật thâm hiểm và ghê sợ; nếu lão thực hiện được thì loạn Vendée khó mà dẹp nổi.
Nhưng tìm đâu ra một đội quân chính quy? Tìm đâu ra binh lính? Tìm đâu ra những trung đoàn? Tìm đâu ra cả một quân đoàn có sẵn? Chỉ có ở nước Anh. Do đó, ý nghĩ như đinh đóng cột của Lantenac: làm sao đưa quân Anh đổ bộ vào. Thế là, ý thức phe phái đã sụp đổ; chiếc huy hiệu trắng đã che lấp cho chiếc áo đỏ [3]. Lantenac chỉ có một ý nghĩ: chiếm một điểm trên bờ biển và dâng cho Pitt. Vì vậy, khi thấy Dol bỏ ngỏ, lão nhảy xổ đến để chiếm Dol tức là chiếm ngọn núi Dol và từ đó chiếm bờ biển.
Địa điểm ấy thật khéo chọn. Đại bác đặt ở núi Dol sẽ quét sạch cả một vùng từ Fresnois đến Saint-Brelade, buộc hạm đội Cancale không dám tiến gần và biến cả một vùng bãi biển, từ Raz-sur-Couesnon đến Saint-Mêloir-des-Ondes, sẵn sàng chờ một cuộc đổ bộ.
Muốn cho mưu mô có tính chất quyết định đó thành công, Lantenac đem theo hơn sáu nghìn người, chọn những người lực lưỡng nhất và tất cả khẩu đội pháo gồm mười khẩu đại bác hạng nhỏ mười sáu ly, một khẩu đại bác chắp vá lại, cỡ tám ly và một khẩu loại trung đoàn bắn được bốn li-vrơ đạn. Lão dự định đặt một khẩu đội mạnh trên núi Dol theo nguyên tắc là mười khẩu trọng pháo bắn ra một nghìn phát đạn được việc hơn là năm khẩu bắn ra một nghìn năm trăm phát.
Thắng lợi tưởng như đã cầm chắc. Lão có sáu nghìn quân. Chỉ còn lo phía Avranches, quân của Gauvain có một nghìn rưỡi người và mặt Dinan có quân của Léchelle. Léchelle, tuy có hai vạn rưỡi quân thật nhưng lại ở cách xa những hai mươi dặm. Lantenac yên tâm, phía Léchelle có lực lượng lớn nhưng ở xa, còn về phía Gauvain, tuy ở gần nhưng quân số lại ít. Xin nói thêm rằng Léchelle là một anh ngu ngốc và sau này hắn đã nướng cả hai vạn rưỡi quân ở truông Croix-Bataille, và hắn đã tự tử vì cuộc bại trận đó.
Vậy nên Lantenac rất yên trí. Cuộc tiến quân vào Dol rất chớp nhoáng và ác liệt. Hầu tước De Lantenac đã khét tiếng là không biết thương ai. Cho nên khi vào Dol thì không một ai dám kháng cự. Dân chúng khiếp đảm ẩn trong nhà, chận kín cửa lại. Sáu nghìn quân Vendée chiếm đóng các phố, chúng lộn xộn theo lối dân quê, gần như họp chợ, không có hạ sĩ quan hậu cần, không được bố trí chỗ ở, bạ đâu hạ trại đó, nấu nướng ngay ngoài trời, tự do phân tán vào nhà thờ, vứt hết súng ống để lần tràng hạt. Lantenac cùng với vài sĩ quan pháo binh vội vã đi quan sát núi Dol và giao chức phó chỉ huy cho Gouge-le-Bruant.
Tên này đã để lại một dấu tích mờ nhạt trong lịch sử. Hắn có hai tên hiệu, một là Diệt-Xanh, vì những cuộc tàn sát của hắn đối với những người yêu nước, hai là Imânus bởi vì con người hắn có một cái gì ghê tởm không thể tả được. Chữ Imânus nói chệch đi từ một danh từ cổ vùng dưới xứ Normandie là Imânis để chỉ cái gì xấu xa nhất, loài người không thể có, mà lại có nghĩa rùng rợn hoang đường như là ma, quỷ, yêu tinh. Trong một bản thảo cổ đã thấy có viết chữ Imânus đó. Ngày nay, các cụ già ở vùng Bocage cũng không hiểu gì về Gouge-le-Bruant và Diệt-Xanh nghĩa là gì; nhưng các cụ có biết lỗ mỗ về Imânus. Cái tên Imânus còn rớt lại trong những chuyện mê tín ở địa phương. Người ta còn nhắc đến tên Imânus ở hai làng Trémorel và Plumaugat nơi mà tên Gouge-le-Bruant đã để lại vết chân dã man của hắn. Trong vụ loạn Vendée, những kẻ khác chỉ là man rợ nhưng Gouge-le-Bruant là loài tàn bạo. Đó là một thứ chúa mọi, trên người hắn ánh lên vẻ ghê tởm và gần như dị thường của một tâm hồn hoàn toàn không giống bất cứ một tâm hồn nào khác của con người. Trong chiến đấu, hắn dũng cảm một cách khốc liệt rồi dần dần trở nên bạo ngược. Một trái tim đầy rẫy những ngõ ngách quanh co, có khi rất mực trung thành, có khi rất mực cuồng bạo. Hắn có biết suy xét không? Có chứ, nhưng như kiểu rắn bò, theo đường ngoằn ngoèo. Cách suy xét của hắn là đi từ hùng dũng để tới giết người. Thật khó mà đoán được những quyết định của hắn từ đâu mà có, đôi khi những quyết định ấy vĩ đại đến trở thành quái gở. Hắn có thể làm tất cả những việc bất ngờ, khủng khiếp. Ở hắn có cả bạo ngược lẫn hào hùng.
Từ đó, hắn mang cái tên hiệu kỳ quái là Imânus.
Lão hầu tước De Lantenac rất tin cậy ở tính độc ác của hắn.
Độc ác là sở trường của Imânus; đúng thế. Nhưng về mặt chiến lược, chiến thuật thì hắn lại không sở trường bằng và khi phong hắn chức chỉ huy tác chiến, có thể lão hầu tước đã thất sách. Dù sao, lão hầu tước đã để Imânus thay lão xem xét mọi việc.
Gouge-le-Bruant, một tên hiếu chiến hơn một nhà quân sự, dùng để cắt cổ cả một bộ tộc hơn là giữ một thành phố. Tuy nhiên hắn cũng bố trí các đơn vị tiền tiêu.
Vừa chập tối, sau khi lão hầu tước De Lantenac đã quan sát địa điểm dự định đặt khẩu đại pháo và trở về Dol, thì bất thình lình lão nghe tiếng đại bác nổ. Lão chú ý nhìn. Một đám khói đỏ rực bốc lên ở phố lớn. Ở đó đã xảy ra một trận đánh bất ngờ, một trận đột kích, một cuộc tấn công; hai bên đang đánh nhau trong thành phố.
Mặc dầu vốn là người ít hay ngạc nhiên, lúc bấy giờ lão cũng sửng sốt. Lão có tính đến nông nỗi này đâu. Có thể là ai? Nhất định không phải Gauvain. Không thể lấy một mà chọi với bốn được. Hay là Léchelle? Nhưng hành quân chớp nhoáng cách nào! Chưa hẳn là Léchelle mà không thể là Gauvain được.
Lantenac thúc ngựa; trên đường hắn gặp dân phố chạy trốn; hắn hỏi thăm, họ đang hết sức hoảng sợ. Họ kêu lên: Bọn Xanh! Bọn Xanh! Và khi hắn về đến nơi, thì tình thế đã trở nên bất lợi.
Sự việc đã xảy ra thế này.
Chú thích:
[1] Học trò yêu của Socrate, một vị tướng có tài nhưng vô hạnh, có nhiều tham vọng cá nhân.
[2] Quý tộc trẻ, thủ lĩnh quân phiến loạn Vendée, tử trận năm 1794.
[3] Áo đỏ tượng trưng cho dã tâm xâm lược của tướng Pitt, thủ tướng Anh.
III
Những binh đoàn nhỏ và những trận đánh lớn
Vừa đặt chân đến phố Dol bọn dân quê, như ta vừa thấy, đã phân tán khắp các ngả trong phố, ai muốn làm gì thì làm, dĩ nhiên là như thế khi “người ta tuân lệnh chỉ vì cảm tình”, đó là lời họ nói. Cách tuân lệnh đó tạo nên anh hùng chứ không tạo thành binh lính. Họ đã cất đại bác và đồ đạc dưới vòm chợ cũ, rồi họ vừa mệt, vừa ăn no uống say, lần tràng hạt, và nằm ngổn ngang trên đường cái làm bộn đường hơn là bảo vệ đường phố. Trời vừa tối thì phần đông đã ngủ, đầu gối lên bọc quần áo, một vài người còn có vợ con nằm bên cạnh; vì đàn bà đôi khi cũng đi theo họ; ở Vendée, đàn bà bụng mang dạ chửa thường làm việc do thám. Đêm đã sang trời tháng bảy, êm ả; các chùm sao lấp lánh trên nền trời xanh và sâu thẳm. Cả đoàn người ô hợp đó bắt đầu ngủ ngon trông giống như một đoàn lữ hành nghỉ chân hơn là một đoàn quân cắm trại. Bỗng nhiên qua ánh hoàng hôn mờ mờ, những người còn thức trông thấy ba khẩu trọng pháo chĩa thẳng ở ngay đầu lối vào phố lớn.
Đó là Gauvain. Ông đã đánh lừa được bọn lính tiền tiêu, đột nhập vào thành phố, dẫn đoàn quân của mình chiếm lấy đầu phố.
Một người dân quê vùng dậy kêu lên: ai, và luôn một phát súng; một phát đại bác đáp lại. Rồi một loạt súng trường giận dữ nổ vang lên. Đám đông đang ngủ dở mắt, chồm dậy. Một cuộc kinh động dữ dội. Họ ngủ dưới trời sao và thức dậy trong lửa đạn.
Giây phút đầu tiên thật là kinh khủng. Không có gì bi đát bằng một đám người lúc nhúc bị đánh. Họ vồ lấy vũ khí. Họ gào thét, họ chạy, nhiều người ngã xuống. Họ bị đột kích bất thần, họ luống cuống, người nọ bắn lẫn vào người kia. Nhiều người trong phố như mất trí chạy khỏi nhà, chạy vào rồi lại chạy ra và lang thang, cuống quít trong đám hỗn loạn. Nhiều gia đình gọi nhau. Trận đánh thảm khốc có lẫn cả đàn bà và trẻ con. Đạn lên, rạch sáng ngời trong bóng tối. Súng bắn từ tất cả các góc tối. Tất cả bốc khói và huyên náo. Xe cộ ngổn ngang khiến cho quang cảnh càng thêm hỗn độn. Ngựa đá hậu cuống cuồng. Người ta dẫm lên cả những thương binh. Người ta nghe thấy những tiếng tru tréo sát mặt đất. Có kẻ chết khiếp, có người mất hồn như ngây dại. Binh lính và sĩ quan tìm nhau. Giữa cảnh hỗn loạn ấy có những bộ mặt lạnh lùng, u ám. Một người đang ngồi sát vào một mảnh tường cho con bú, chồng chị cũng dựa lưng vào bức tường đó, một chân bị gãy, máu chảy dầm dề, vẫn lên đạn bắn vu vơ như để giết ai trong bóng tối trước mặt. Nhiều người đàn ông nằm sấp sát đất, ghếch súng bắn qua các bánh xe ngựa. Thỉnh thoảng lại nổi lên tiếng hò reo ầm ĩ. Những tiếng nổ ầm ầm của đại bác át hết tất cả. Thật là kinh khủng.
Như một cảnh đốn rừng; người ngã chồng chất lên nhau. Quân của Gauvain, nấp kín, bắn ra chắc chắn và bị thương vong rất ít.
Nhưng rồi đám dân quê liều lĩnh và hỗn độn ấy cuối cùng cũng giữ được thế thủ; họ rút vào trong chợ, một cứ điểm rộng và tối mò, một rừng cột bằng đá. Vào đó họ củng cố lại đội ngũ; bởi vì nơi nào giống cảnh rừng cũng đều làm cho họ vững lòng. Imânus làm hết sức mình để thay thế Lantenac. Quân Lantenac cũng có đại bác nhưng Gauvain ngạc nhiên thấy họ không sử dụng; đó là vì những sĩ quan pháo binh đã cùng với lão hầu tước quan sát núi Dol, đám binh lính ở lại chẳng biết xoay xở thế nào với các khẩu súng ấy. Nhưng họ cũng trút được đạn súng trường lên quân xanh đang nã trọng pháo vào họ. Họ bắn rào rào để đương đầu với đạn đại bác. Bấy giờ, chính họ lại thế kín đáo. Họ chất tất cả xe ngựa lớn nhỏ, đồ đạc hành lý, những thùng rượu bỏ trong chợ và mang lên một chiến lũy cao với những khe hở để chĩa mũi súng ra ngoài. Từ những lỗ châu mai đó, lực của họ cũng gây nhiều thiệt hại cho đối phương. Các việc đó được tiến hành rất nhanh chóng. Chỉ trong khoảnh khắc, khu chợ ấy đã có một trận tuyến vững chắc.
Việc này khá nghiêm trọng cho Gauvain. Khu chợ này đột nhiên trở nên thành lũy, thật là điều bất ngờ, trong đó, đám dân quê đã cụm lại và được bảo vệ vững chắc. Gauvain đã thắng trong trận đột kích nhưng thất bại trong ý định đánh tan quân địch. Ông ta xuống ngựa. Tay vòng trước ngực thanh kiếm lăm lăm, vẻ chăm chú, ông ta đứng dưới ánh đuốc đang chiếu sáng khẩu đội pháo, mắt nhìn vào cái đám đen trước mặt.
Dưới ánh đuốc ấy, thân hình cao lớn của ông đã để cho bọn người sau chiến lũy trông rõ. Ông ta đã thành mục tiêu nhưng vẫn không nghĩ đến.
Từ chiến lũy, đạn bắn ra vèo vèo, rơi quanh Gauvain vẫn đứng nghĩ ngợi.
Nhưng ông ta có đại bác chống lại cái loại súng ngắn của địch. Cuối cùng thì đại bác vẫn có thế hơn. Trong chiến đấu, ai có trọng pháo là người ấy thắng. Khẩu đội của ông được sử dụng tốt, vẫn giữ ưu thế.
Đột nhiên, từ khu chợ tối đen, một ánh chớp lóe lên, rồi người ta nghe thấy một tiếng nổ như sét đánh, và một viên đạn đại bác bay đến phá thủng một căn nhà phía trên đầu Gauvain.
Phía chiến lũy đã dùng đại bác để trả lời đại bác. Cái gì đã xảy ra? Một sự kiện mới. Bây giờ hỏa lực đại bác không chỉ ở một bên nữa.
Một viên đạn đại bác thứ hai tiếp đến bắn vào bức tường sát bên cạnh Gauvain. Một viên đạn thứ ba hất mũ ông ta xuống đất.
Những viên đạn đó đều thuộc cỡ lớn. Chính một khẩu mười sáu ly đã bắn ra.
- Chúng nhằm bắn ngài đấy. - Các pháo thủ kêu lên.
Và họ tắt đuốc. Gauvain, mơ màng, cúi xuống nhặt mũ.
Quả thực có người nào đó nhằm bắn Gauvain, đó là Lantenac.
Lão hầu tước vừa vào chiến lũy qua lối sau. Imânus đã chạy lại báo cáo với hắn:
- Thưa đức ông, chúng ta bị tấn công bất ngờ.
- Ai tấn công?
- Chúng tôi chưa rõ.
- Đường phía Dinan vô sự chứ?
- Tôi chắc vậy.
- Phải chuẩn bị rút lui.
- Thưa đã bắt đầu. Nhiều đứa đã tháo chạy rồi.
- Không tháo chạy mà rút lui. Tại sao không sử dụng trọng pháo?
- Chúng nó cuống cả lên, vả lại sĩ quan vắng cả.
- Ta ra đó xem.
- Thưa đức ông, tôi đã cho rời đến Fougères các hành lý, bọn đàn bà, tất cả những thứ vô dụng. Còn ba đứa trẻ tù binh thì nên thế nào?
- A, đám trẻ ấy à?
- Vâng.
- Chúng là con tin của ta. Sai dẫn chúng đến lâu đài Tourgue.
Nói xong, lão hầu tước đi đến chiến lũy. Người chỉ huy tới, mọi sự thay đổi hẳn. Chiến lũy bố trí không đủ cho cả khẩu đội, chỉ đủ chỗ cho hai khẩu đại bác; lão hầu tước cho ghép hai khẩu mười sáu ly thành khẩu đội. Lão nhoài mình trên một khẩu pháo, quan sát khẩu đội pháo địch, lão trông thấy Gauvain.
- Chính nó rồi! - Lão kêu lên.
Rồi tự tay lão dùng thông nòng, nện thuốc, lắp đạn, sửa lại đường ngắm thật chắc và nổ súng.
Ba lần lão chỉnh hướng cho đúng Gauvain, và đã bắn trượt cả. Phát thứ ba chỉ làm trật mũ.
- Vụng quá! - Lantenac lẩm bẩm - Thấp một tí thì được cái đầu rồi.
Đột nhiên, ngọn đuốc tắt, và trước mặt lão tối như mực.
- Được.
Và quay về phía bọn pháo thủ, lão hô:
- Bắn liên hồi.
Ở bên kia, bên Gauvain tình hình cũng không kém nghiêm trọng. Tình thế nguy ngập. Chiến cuộc đã chuyển sang một hình thái mới. Phía chiến lũy hãy còn ở giai đoạn nã đại bác sang họ. Biết đâu họ lại không sắp chuyển từ phòng ngự sang phản công? Bên địch trừ những tên chết và chạy tháo thân, ít ra cũng còn năm nghìn người mà bên phía Gauvain thì chỉ còn một nghìn hai trăm người đủ sức tác chiến. Bên quân cộng hòa sẽ ra sao nếu địch biết được quân số ít ỏi của họ? Tình thế sẽ đảo ngược. Đang ở thế xung kích, họ sẽ bị xung kích. Nếu phía chiến lũy mở một đợt tấn công thì có thể hỏng tất cả.
Làm thế nào? Không thể tính chuyện tấn công vào chiến lũy ở chính diện nữa. Dùng toàn lực mở một đợt cường kích thì thật là ảo tưởng; một nghìn hai trăm người không thể nào đánh đuổi được năm nghìn người ra khỏi hiểm cứ. Tốc quyết không được, chờ đợi càng bí hơn. Phải kết thúc tình thế ấy. Nhưng bằng cách nào?
Gauvain là người địa phương, ông ta biết rõ phố Dol, ông ta biết phía sau chợ mà quân Vendée đang nấp để bắn ra thông với những ngõ hẹp và quanh co. Ông ta quay lại phía viên phó chỉ huy là đại úy Guéchamp, người về sau nổi tiếng vì đã quét sạch cả khu rừng Consise, nơi chôn nhau cắt rốn của Jean Chouan và chặn quân địch ở bờ chuôm La Chaîne, ngăn không cho chúng chiếm Bourg-neuf.
- Guéchamp - Gauvain nói - Tôi giao nhiệm vụ chỉ huy cho ông. Ông cứ cho trút hết hỏa lực ra. Cứ cho đại bác chọc thủng chiến lũy đi. Giữ chân tất cả đám quân địch kia.
- Rõ! - Guéchamp đáp.
- Tập trung toàn binh đoàn, lên đạn sẵn và chuẩn bị cho họ xung phong.
Ông ta nói thêm vài lời sát tai Guéchamp.
- Rõ! - Guéchamp đáp.
Gauvain hỏi tiếp:
- Trống của ta đủ cả đấy chứ?
- Đủ.
- Chúng ta có tất cả chín tay trống. Ông giữ lại hai, cho tôi bảy.
Bảy tay trống đến sắp hàng lặng lẽ trước mặt Gauvain.
Lúc đó, Gauvain hô:
- Tiểu đoàn Mũ Đỏ theo tôi!
Mười hai người, trong đó có một viên đội bước ra khỏi hàng quân.
- Tôi cần cả tiểu đoàn. - Gauvain bảo.
- Cả tiểu đoàn đây. - Viên đội trả lời.
- Mới có mười hai người.
- Chúng tôi còn lại mười hai người thôi.
- Được! - Gauvain nói.
Viên đội đó chính là Radoub, một chiến sĩ rất tốt và cứng cỏi, người đã thay mặt tiểu đoàn nhận đỡ đầu ba đứa trẻ gặp trong rừng Saudraie.
Ta còn nhớ chỉ có một nửa tiểu đoàn thôi đã bị sát hại ở Herbe-en-Pail và may sao khi ấy Radoub lại không ở trong số đó.
Ở gần đó có một chiếc xe chất đầy rơm khô; Gauvain trỏ tay bảo viên đội:
- Ông đội bảo lính bện rơm quấn vào súng để tránh tiếng động khi chạm vào nhau.
Một phút sau, mệnh lệnh được chấp hành đầy đủ, lặng lẽ trong bóng tối.
- Báo cáo xong. - Viên đội nói.
Gauvain lại ra lệnh:
- Anh em binh sĩ, cởi hết ra.
- Chúng tôi chẳng có. - Viên đội đáp.
Thế là tiểu đoàn Mũ Đỏ với bảy người đánh trống thành mười chín người; Gauvain là người thứ hai mươi.
Gauvain hô:
- Một hàng dọc. Theo tôi. Trống đi theo tôi. Tiếp đến tiểu đoàn. Ông đội, ông sẽ chỉ huy tiểu đoàn.
Gauvain dẫn đầu đoàn quân, và trong khi đại bác hai bên vẫn nổ dòn dã, hai mươi người ấy lướt đi như những cái bóng, tiến sâu vào những phố nhỏ vắng ngắt.
Họ đi một lúc lâu như thế, quanh co men theo các nhà. Trong thành phố, mọi vật như chết; dân phố đều núp cả dưới hầm nhà. Tất cả cửa lớn đều cài then, cửa sổ khép chặt. Không một chút ánh sáng.
Giữa cảnh im lìm ấy, ngoài phố lớn đạn vẫn nổ dữ dội; đại bác vẫn tiếp tục bắn nhau; cả hai bên, khẩu đội cộng hòa và chiến lũy bảo hoàng khạc đạn vào nhau như điên như dại.
Sau hai mươi phút đi quanh co, Gauvain bước vững chắc trong bóng tối, lần đến đầu một phố nhỏ ăn thông ra phố lớn; có điều lúc này họ đã ở phía sau chợ rồi.
Vị trí đã đổi ngược. Về phía bên này, không có chỗ ẩn nấp, đó là một điều sơ hở muôn thuở của những người xây chiến lũy, cả mặt sau chợ bỏ trống và người ta có thể đi qua các hàng cột trong đó đã có vài chiếc xe chứa đồ đạc chuẩn bị chuyển đi. Gauvain và mười chín người đi theo đang đứng trước năm nghìn quân Vendée nhưng không phải ở trước mặt mà lại ở sau lưng.
Ông ta bảo nhỏ với viên đội; họ tháo rơm bện quanh súng; mười hai khinh binh dàn thành thế trận sau góc phố nhỏ và bảy anh lính mang trống đã giơ cao dùi trống chờ lệnh.
Trọng pháo hai bên vẫn trút đạn ngắt quãng từng hồi. Đột nhiên, giữa khoảng cách của hai loạt súng nổ, Gauvain vung kiếm và hô lớn như một tiếng kèn trận nổi lên giữa cảnh im lìm:
- Hai trăm người bên phải, hai trăm người bên trái, còn lại xông vào mặt giữa.
Cả mười hai phát súng nổ và bảy chiếc trống rung nhịp xung phong. Và Gauvain thét lên, tiếng thét ghê sợ của quân đội cộng hòa:
- Lắp lê! Xung phong!
Kết quả thật là dị thường.
Cả cái đám dân quê ấy cảm thấy đã bị đánh tập hậu và tưởng rằng phía sau lưng có một binh đoàn mới. Cùng lúc đó, nghe tiếng trống, toán quân giữ phía đầu phố lớn do Guéchamp chỉ huy cũng chuyển động ồn ào, trống cũng rung nhịp xung phong và chạy lao vào chiến lũy; đám dân quê bị kẹp giữa hai hỏa tuyến. Trong lúc hoang mang cái gì cũng to lớn khác thường; trong cơn hoảng loạn, một tiếng súng lục cũng nghe to như một phát súng đại bác, những tiếng ồn ào nghe như ma kêu quỷ khóc và tiếng chó sủa tưởng như sư tử gầm. Phải nói thêm là rơm bắt lửa nhanh thế nào thì đám dân quê sợ hãi nhanh thế ấy, và nếu lửa bám vào rơm dễ gây nên đám cháy thì nỗi sợ hãi của đám dân quê cũng dễ dàng dẫn đến bại trận. Thật là cả một cuộc tháo chạy không thể nào tả xiết.
Trong chốc lát, khu chợ đã vắng tanh, lính khiếp đảm tan rã trong chốc lát, chỉ huy chẳng làm sao mà ngăn cản được. Imânus bắn một vài tên bỏ chạy nhưng vô hiệu, người ta chỉ nghe tiếng kêu “Mạnh ai nấy chạy!” và đám loạn quân ấy vượt qua đường phố như vượt qua các lỗ rây, tản ra ngoài đồng nhanh như một đám mây bị gió lốc cuốn.
Kẻ thì bỏ chạy về Chateauneuf, kẻ thì chạy về Plerguer, kẻ thì chạy về Antrain.
Lão hầu tước Lantenac đứng nhìn cuộc rút lui tán loạn ấy. Lão tự tay khóa đại bác lại, và rút sau cùng, chậm rãi và lạnh lùng, và lão thốt ra: “Nhất định là bọn dân quê không làm nổi việc. Chúng ta cần phải có người Anh”.
IV
Đây là lần thứ hai
Quân cộng hòa toàn thắng.
Gauvain quay lại nói với anh em trong tiểu đoàn Mũ Đỏ:
- Mười hai người các anh có thể sánh với nghìn người.
Thời ấy, một lời khen của cấp chỉ huy cũng ngang như một tấm huân chương. Theo lệnh Gauvain, Guéchamp truy kích địch ngoài thị trấn và bắt được vô số.
Sau đó, người ta đốt đuốc lên và đi lục soát trong phố.
Tất cả những kẻ không chạy trốn được đều ra hàng. Người ta đốt lửa sáng rực cả phố lớn. Mặt đường ngổn ngang xác chết và người bị thương. Kết thúc một cuộc chiến đấu, bao giờ cũng gay go; một vài nhóm đó đây, tuy đã tuyệt vọng nhưng vẫn cố chống cự, cuối cùng bị chặt, chúng phải hạ khí giới.
Trong đám quân địch tháo chạy hỗn loạn, Gauvain vừa nhận ra một người hết sức dũng cảm, nhanh nhẹn và lực lưỡng như thú rừng không chịu rút mà vẫn bắn chặn, che chở cho bọn khác đang tháo chạy. Hắn sử dụng súng ngắn rất oanh liệt, dùng nòng súng mà bắn, dùng báng súng mà đánh đến gãy. Lúc này, hai tay hắn, một tay cầm súng lục, một tay cầm kiếm. Không ai dám lại gần hắn. Bỗng nhiên, Gauvain thấy hắn lảo đảo rồi tựa lưng vào một cái trụ bên đường. Hắn vừa bị thương. Nhưng hắn vẫn nắm chắc kiếm và súng. Gauvain cắp thanh kiếm dưới nách đi đến chỗ hắn.
- Hàng đi! - Ông ta bảo.
Người kia nhìn Gauvain chằm chặp. Máu từ một vết thương trong người hắn chảy trong lớp quần áo đọng lại thành một vũng to dưới chân.
- Anh là tù binh của tôi. - Gauvain tiếp.
Người kia nín lặng.
- Anh tên là gì?
Người kia trả lời:
- Nhảy [1].
- Anh là một người dũng cảm.
Và ông ta chìa tay ra bắt tay người kia.
Hắn đáp lại bằng một câu:
- Đức vua muôn năm!
Và thu hết tàn lực, hai cánh tay cùng giơ lên một lúc, hắn nhằm bắn một phát vào ngực Gauvain và chém một nhát kiếm trên đầu ông ta.
Hắn làm nhanh như một con hổ; nhưng có một người khác lại còn nhanh hơn nữa. Đó là một người cưỡi ngựa vừa mới đến và đứng đó một lúc mà không ai để ý. Khi trông thấy tên lính Vendée giơ cao thanh kiếm và khẩu súng lên, ông ta nhảy xổ ngay vào giữa tên này và Gauvain. Không có người đó, Gauvain đã chết rồi. Con ngựa hứng lấy phát đạn, người cưỡi ngựa bị thanh kiếm chém trúng, cả hai đều ngã xuống. Tất cả sự việc diễn nhanh vừa kịp cho người kia kêu lên một tiếng.
Tên lính Vendée lúc ấy đã gục xuống bên lề đường.
Nhát kiếm đã chém trúng giữa mặt người cưỡi ngựa; ông ta ngã xuống bất tỉnh. Con ngựa chết ngay.
Gauvain lại gần.
- Người này là ai? - Ông ta hỏi.
Ông ta nhìn kỹ. Máu trên vết thương chảy như xối làm cho mặt người bị thương thành một cái mặt nạ đỏ ngầu. Khó mà biết được rõ mặt người đó. Chỉ nhìn thấy mái tóc màu xám.
- Người này đã cứu ta - Gauvain nói tiếp - Có ai ở đây biết ông ta không?
- Thưa chỉ huy - Một người lính nói - Người này vừa mới vào thành phố được một chốc. Tôi trông thấy ông ta đến.
Ông ta từ đường Pontorson tới.
Viên sĩ quan quân y chạy lại với hộp đồ cấp cứu. Người bị thương vẫn mê man bất tỉnh. Y sĩ khám nghiệm và bảo:
- Một vết thương xoàng thôi. Không việc gì. Có thể liền lại được. Trong vòng tám hôm, ông ta sẽ đi lại được. Một nhát kiếm thật cừ.
Người bị thương mặc áo choàng, mang thắt lưng màu tam tài, có đôi súng lục và một thanh kiếm. Người ta đặt nằm trên một chiếc cáng rồi cởi áo ra. Người ta đem đến một gàu nước lã, y sĩ rửa sạch vết thương, bộ mặt dần dần rõ ra. Gauvain nhìn ông ta rất chăm chú.
- Ông ta có giấy tờ gì không? - Gauvain hỏi.
Y sĩ lần tay vào một bên túi rút ra một chiếc ví đưa cho Gauvain.
Vừa lúc đó, người bị thương nhờ có nước lạnh đã hồi lại. Mi mắt ông ta hơi động đậy.
Gauvain lục chiếc ví của ông ta, thấy một tờ giấy gấp tư, mở ra, đọc:
“Ủy ban cứu quốc. Công dân Cimourdain...”
Gauvain kêu lên một tiếng:
- Cimourdain!
Tiếng kêu ấy làm cho người bị thương mở mắt ra.
Gauvain cuống quít.
- Cimourdain! Thầy ư! Đây là lần thứ hai thầy đã cứu tôi.
Cimourdain nhìn Gauvain. Một niềm vui không tả xiết ánh lên trên bộ mặt đẫm máu của ông ta.
Gauvain quỳ xuống trước mặt người bị thương, thốt lên:
- Thầy tôi!
- Cha của con. - Cimourdain nói.
Chú thích:
[1] Danse-à-l’Ombre (nguyên văn) có nghĩa là “nhảy múa dưới bóng mát”.
V
Giọt nước lạnh
Đã bao nhiêu năm họ không được gặp nhau, nhưng lòng họ nào có bao giờ rời nhau; họ nhận ra nhau ngay tưởng như mới chia tay ngày hôm qua.
Người ta đã tổ chức ngay một y xá ở tòa thị chính phố Dol. Người ta đặt Cimourdain nằm trên một chiếc giường trong một căn phòng nhỏ thông sang gian phòng lớn của thương binh. Y sĩ phẫu thuật đã khâu xong vết thương, buộc hai người chấm dứt việc thổ lộ tâm tình và khuyên nên để Cimourdain ngủ. Vả lại, Gauvain còn bận trăm công nghìn việc, mà đều là những nhiệm vụ, những vấn đề do cuộc chiến thắng nảy ra. Còn Cimourdain nằm lại một mình; nhưng ông ta không ngủ; ông ta đang trong hai cơn sốt, một cơn sốt vì vết thương, một cơn sốt vì sung sướng.
Ông ta không ngủ nhưng cũng không phải là tỉnh. Có thể như thế được không? Giấc mộng của ông ta đã thành sự thực. Cimourdain thuộc hạng người không tin ở sự may mắn, tình cờ, thế mà nay ông lại gặp may. Ông đã tìm thấy Gauvain. Xa nhau khi anh ta còn nhỏ, gặp nhau thấy anh ta đã thành người; ông ta thấy Gauvain ngày nay đã lớn lên, đáng sợ, dũng cảm. Ông ta gặp lại Gauvain kẻ chiến thắng và chiến thắng vì nhân dân. Tại vùng Vendée này, Gauvain là điểm tựa của cách mạng, và chính ông, Cimourdain đã tạo nên cái trụ cột ấy cho nền cộng hòa. Kẻ thắng trận ấy là học trò của ông. Cái mà Cimourdain thấy rạng rỡ trên gương mặt trẻ trung kia, rồi đây có thể được đưa vào điện Panthéon của nước cộng hòa, đó là tư tưởng của mình, của chính bản thân ông; người học trò của ông, con đẻ trí tuệ của ông, giờ đây đã thành một vị anh hùng và ít lâu sẽ đạt tới đỉnh vinh quang. Cimourdain tưởng như chính tâm hồn mình đã hóa thành siêu phàm. Ông ta đã trông thấy tận mắt Gauvain chỉ huy chiến đấu như thế nào, ông ta cũng giống như Chiron [1] được tận mắt nhìn thấy Achille trong chiến đấu. Đây là mối quan hệ bí ẩn giữa ông thầy tu và con xăng-tô, bởi vì thầy tu chỉ có nửa phần xác là người thôi.
Những chuyện bất ngờ vừa qua, lại thêm bị mất ngủ vì vết thương, làm cho Cimourdain như trào lên một niềm say sưa bí ẩn. Một vận mệnh trẻ trung đang vươn lên, lộng lẫy, và điều làm Cimourdain vui thêm là ông ta có toàn quyền đối với vận mệnh ấy. Chỉ cần thêm một chiến thắng như chiến thắng vừa qua là Cimourdain sẽ chỉ nói một tiếng là chính phủ cộng hòa trao ngay cho Gauvain một quân đoàn. Không có gì choáng váng bằng sự ngạc nhiên thấy tất cả đều thành công. Đó là thời mà mỗi con người đều nuôi một giấc mộng về quân sự. Ai cũng muốn gây dựng nên một đại tướng. Danton thì muốn gây dựng cho Westermann, Marat thì muốn gây dựng cho Rossignol, Hébert thì muốn gây dựng cho Ronsin, còn Robespierre thì lại muốn dìm tất cả những người ấy. Tại sao lại không thể là Gauvain? Cimourdain tự hỏi như vậy. Và ông ta nghĩ ngợi. Một tiền đồ không giới hạn đang mở ra trước mắt ông. Ông ta đi từ giả thiết này đến giả thiết khác. Bao nhiêu những chướng ngại đều biến cả, một khi người ta đã đặt chân lên cái thang danh vọng ấy thì không khi nào dừng lại, người ta sẽ tiến lên, không ngừng, đi từ con người bình thường để tới vì sao sáng lạn. Một đại tướng chỉ là người chỉ huy các quân đoàn; một thủ lĩnh quân sự vĩ đại phải đồng thời là một nhà lãnh đạo tư tưởng. Cimourdain mơ ước Gauvain sẽ trở thành một thủ lĩnh vĩ đại. Giấc mơ thoáng qua nhanh, Cimourdain tưởng như trông thấy Gauvain đang đánh đuổi quân Anh trên biển cả; đang trừng phạt các vua phương bắc trên sông Rhin; đang đẩy lùi Tây Ban Nha ở vùng núi Pyrénées; đang đứng trên đỉnh Alpes ra hiệu cho dân thành La Mã nổi dậy, trong Cimourdain có hai con người, một con người có tình và một con người u uất; cả hai đều thỏa mãn. Vì cứng rắn là lý tưởng của ông, nên đối với ông, Gauvain vừa oai hùng vừa đáng sợ. Cimourdain đang nghĩ đến những cái cần phải hủy diệt đi trước khi xây dựng, và ông nghĩ rằng, lúc này không phải lúc biểu lộ tình cảm, Gauvain người có “tầm vóc thời đại”, như bấy giờ người ta thường nói. Cimourdain hình dung Gauvain nghiền nát dưới chân mình những bóng tối của thời đại, bao bọc trong ánh hào quang, trên đầu rực rỡ sao băng, dang rộng đôi cánh lý tưởng của công lý, của lẽ phải, của tiến bộ, với một thanh kiếm trong tay, thiên thần nhưng sứ mệnh là hủy diệt.
Trong lúc đang ngây ngất trong giấc mơ qua cánh cửa hé mở, ông thoáng nghe người ta đang nói chuyện ở phòng quân y bên cạnh, ông nhận ra tiếng của Gauvain. Cimourdain lắng nghe. Có tiếng chân bước. Tiếng một vài người lính hỏi:
- Thưa chỉ huy, chính tên này đã bắn vào ngài. Trong khi không ai trông thấy, hắn đã lê vào một cái hầm rượu. Chúng tôi đã tìm được hắn. Chính hắn đấy.
Rồi Cimourdain nghe được mẩu chuyện giữa Gauvain và người kia.
- Anh bị thương à?
- Tôi bị thương nhưng còn đủ sức khỏe để cho các ông đem bắn.
- Đặt người này nằm vào giường. Hãy băng bó cho anh ta, săn sóc anh ta, chữa cho anh ta.
- Tôi muốn chết.
- Anh sẽ sống. Nhân danh vua, anh đã muốn giết ta; nhân danh thể chế cộng hòa, ta tha cho anh.
Một nét buồn thoáng qua trên vầng trán Cimourdain. Ông ta như giật mình tỉnh giấc và lẩm bẩm một cách não nùng bi đát:
- Quả là một người khoan hồng.
Chú thích;
[1] Nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, thuộc giống xăng-tô (nhân mã), nửa người, nửa ngựa, thầy học của Achille.
VI
Vết thương khỏi, nhưng trái tim vẫn rướm máu
Một vết rạch ở mặt cũng chóng khỏi; nhưng ở nơi khác còn có một người bị thương nặng hơn Cimourdain nữa. Đó là người đàn bà bị bắn đã được lão ăn mày Tellmarch nhặt được trong cái ao ở trại Herbe-en-Pail.
Vết thương của chị Michelle Fléchard nguy hiểm hơn Tellmarch tưởng, cùng với lỗ thủng phía trên vú còn có lỗ thủng xương bả vai. Cùng một lúc với viên đạn làm gãy xương quai xanh, một viên đạn khác xuyên qua vai. Tuy nhiên, nhờ phổi không hề gì nên chị ta có thể khỏi được. Tellmarch là một “ông thầy”, dân quê gọi thế, có nghĩa là lão biết một ít về thuốc, một ít về mổ xẻ, và một ít về tà thuật. Lão săn sóc người đàn bà bị thương trong cái hang thú của lão, trên cái ổ bằng rong biển với các thứ bí mật mà người ta gọi là thuốc vặt, và nhờ lão mà chị Fléchard đã sống.
Xương quai xanh nối liền lại được, vết thương ở ngực và vai đã kín lại. Sau một tuần, người đàn bà đã bình phục.
Một buổi sáng, chị ta tựa vào lão Tellmarch bước được ra khỏi hang thú. Chị ta đến ngồi sưởi nắng dưới gốc cây. Tellmarch biết về chị ta rất ít, vết thương trên ngực chị đòi hỏi phải im lặng, và từ lúc gần như hấp hối cho tới khi khỏi bệnh, chị ta mới chỉ nói được đôi ba tiếng. Khi chị ta muốn nói thì Tellmarch lại bắt chị ta phải im; những lúc ấy, chị ta mơ màng có vẻ bướng bỉnh, và Tellmarch nhận thấy trong con mắt chị ta nhiều ý nghĩa xót xa đang day dứt. Buổi sáng hôm đó, chị ta đã khỏi gần như có thể bước đi được một mình. Lão Tellmarch chất phác đã chạy chữa cho chị ta như tình cha con lúc này sung sướng nhìn chị mỉm cười, nói:
- Người ta đứng được rồi. Người ta chẳng còn thương tích nữa.
- Còn ở trong lòng. - Chị ta bảo.
Rồi chị ta nói tiếp:
- Thế là cụ không biết chúng nó ở đâu ư?
- Ai kia? - Tellmarch hỏi.
- Các con tôi.
Tiếng “thế là” ấy nói lên biết bao nhiêu ý nghĩa, điều đó có nghĩa là “cụ chẳng nói gì về các con tôi, bao nhiêu ngày cụ ở bên cạnh tôi mà không cho tôi mở miệng nhắc đến chúng nó, cụ không cho tôi nói năng gì mỗi khi tôi muốn phá tan không khí im lặng, cụ có vẻ sợ tôi nhắc đến chúng nó, như thế nghĩa là cụ chẳng có điều gì để nói với tôi về chúng nó”. Nhiều l